Sadiq

New Member
2. Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du, ta không thể không nhắc đến tuyệt tác của ông: “Truyện Kiều”, một tác phẩm mang giá trị nhân đạo, giá trị nhân văn sâu sắc. Song, tác phẩm này còn thành công ở giá trị nghệ thuật, nghệ thuật trong thơ đã lên đến đỉnh cao. Đặc biệt là nghệ thuật diễn tả tâm trạng nhân vật. Một trong những đoạn trích đặc sắc nhất về cuộc độc thoại nội tâm là “Trao duyên”. Đây là đoạn thơ diễn tả nỗi đau khổ của Thúy Kiều khi trao duyên cho em gái là Thuý Vân, để nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng, người yêu của mình. Mối tình giữa Kim Trọng và Thúy Kiều là một mối tình trong sáng và đẹp đẽ nhất. Vậy nên, Thúy Kiều khó lòng chia tay Kim Trọng. Nàng đã rất đau khổ, rất xót xa khi phải trao duyên cho Thúy Vân. Đây là nỗi đau đớn dằn vặt, đau đớn cho cuộc tình tan vỡ, đồng thời cũng là nỗi xót xa, xót xa cho thân phận của chính mình. Nếu ta coi truyện Kiều là một bi kịch đằng đẵng về cuộc đời Kiều, thì đoạn này thể hiện bi kịch đầu tiên ấy. Trước khi nàng phải từ bỏ tất cả theo Mã Gíam Sinh để có thể chuộc Cha, thì nàng đã phải dùng mọi lời lẽ để nhờ Thúy Vân giúp mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Nàng dùng lời an ủi, động viên Vân bằng những lời rất thiết tha. “Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non.” Nàng đã nhắc đến tình máu mủ, ruột thịt, mối quan hệ huyết thống mong có thể đền đáp, trả nghĩa cho tình đôi lứa, tình “non nước”. Nàng an ủi Vân cũng chính là an ủi mình đã chọn con đường đúng, mình đã bỏ qua chữ tình để giữ trọn chữ “hiếu”. Tuy đây là lời an ủi, động viên, song là nỗi day dứt, xót xa trong Kiều. Kiều tuy trao duyên chứ không thể trao tình được. Nàng đã rối loạn rồi, nàng đã nghĩ đến cái chết: “Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.” Rồi nàng lại gợi những kỉ niệm cũ, những kỉ vật đẹp đẽ của mối tình dang dở: “Chiếc thoa với bức tờ mây, Duyên này thì giữ, vật này của chung.” “Chiếc thoa” và “bức tờ mây” vốn là những vật đẹp đẽ, quen thuộc gắn bó giữa hai người, nay lại là “của chung” của cả ba người Kim Trọng, Thúy Vân và Thúy Kiều. Kiều đã vô cùng xót xa khi dung từ “của chung”. Lòng Kiều như xát muối. Kiều sao chịu được nỗi đau này, tình cảm sao có thể chia sẻ được đây? Kiều đã khéo léo dành chữ “duyên” giữ lại cho Vân, còn chữ tình thì vẫn giữ lại cho mình. Càng chứng minh rằng tình cảm của Kiều thật thiết tha, nồng cháy. Song, càng nồng cháy bao nhiêu thì khi phải chia sẻ tình cảm, Kiều lại càng đau đớn bấy nhiêu. Trong Kiều như càng ngày càng bị giằng xé. Kiều rối bời, đau xót cho thực tại phủ phàng. Nhưng thật trớ trêu, Kiều càng giãi bày tâm sự thì lời nói của Kiều lại càng đau xót hơn: “Mất người còn chút của tin, Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.” Nàng không còn bình tĩnh nữa mà cũng không còn vui vẻ, tươi cười như ngày nào. Nàng đã nhận ra và ý thức được than phận của mình, than phận tài hoa mà bạc mệnh. Vì tình cảm không thể chấm dứt nên cứ dai dẳng mãi khiến Kiều lại tiếp tục nhắc đến các kỉ vật “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” và “chút của tin”. Đây không chỉ là các kỉ vật tượng trưng cho tình yêu hai người nữa mà chúng còn gợi ra sự xót xa cay đắng trong tâm hồn Kiều. Nàng lại một lần nữa nghĩ tới cái chết: “Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai. Dạ đài cách mặt khuất lời, Rảy xin chén nước cho người thác oan.” Kiều quả là người chung thủy. Tuy đã trao duyên cho Vân rồi, tuy ngay cả khi nàng chết chăng nữa, nhưng nàng vẫn luôn mang theo lời thề đã trao cho Kim Trọng. Trong nỗi đau đớn của mình, nàng đã nhận mình là người thác oan. Qua đây, ta thấy rằng Kiều ý thức sâu sắc về thân phận bạc bẽo của mình. Nàng xót xa, hay chính tác giả cũng phải xót xa trước con người tài hoa, bạc mệnh? Qua đoạn này, Nguyễn Du đã tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến đương thời, xã hội đã chà đạp lên cuộc đời của con người, khiến họ đến bế tắc, đến đường cùng. Kiều vô cùng day dứt, nuối tiếc dĩ vãng đã xa. Nàng cũng đau đớn trước thực tại, cũng rất lo lắng, sợ hãi và bế tắc cho tương lai của chính mình: “mảnh hương nguyền ngày xưa”, “bây giờ trâm gãy bình tan”, “mai sau dù có bao giờ”. Một cuộc đời đầy những bất hạnh và bi kịch. Mọi thứ đều đen tối, đen tối cho cuộc đời nàng cho tiền đồ của nàng: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.” Nàng quay sang nói với Kim Trọng, hay chỉ là bóng của Kim Trọng? Nguyễn Du đã dùng hình ảnh ước lệ thể hiện nỗi đau đột ngột. Cái hạnh phúc của con người bỗng chốc đã bị tan vỡ, càng nhấn mạnh được cuộc đời bi kịch của nàng. Câu thơ giống như tiếng than xé lòng, một tiếng than não ruột về thân phận chính mình. Đối với người phụ nữ, đặc biệt là với Kiều, hạnh phúc quá mong manh. Kiều chưa kịp hưởng trọn hạnh phúc thì nó đã vụt mất. Nàng chưa kịp có một gia đình bên người mình yêu thì tai họa đã đến. Ta cảm nhận được nỗi tái tê, sự bế tắc trong lòng Kiều: “Tơ duyên ngăn ngủi có ngần ấy thôi… Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.” Kiều tê tái nhận ra thân phận bi kịch của mình qua từ “đã đành”, “ấy thôi”. “Phận sao phận bạc như vôi”.
 

ngoc20thanh

New Member
Dàn ý:
I.Mở bài:
Từ truyền thuyết “Bọc trứng trăm con” dẫn đến câu ca dao để nêu lên
tầm quan trọng của vấn đề cần bình luận.
II.Thân bài:
1.Giảithích câu ca dao:
∙ “Nhiễu điều phủ lấy giá gương” gợi tả tấm lòng che chở, đùm bọc
của nhân dân ta
∙ Ca dao khuyên ta là người cùng một nước phải thương yêu đùm bọc
lẫn nhau.
2.Bình luận:
∙ Khẳng định lời khuyên:
Cái riêng của mỗi người và cái chung của mọi người có quan hệ gắn bó
với nhau cảvề vật chất, tinh thần và tình cảm.
Thương yêu, đùm bọc lẫn nhau là nghĩa vụ của mỗi người.
Đó cũng là cơ sở của lòng yêu nước thương nòi, truyền thống quý báu
của nhân dân ta.
∙ Mở rộng vấn đề:
Bộc lộ bằng hành động cụthể
Nhắc lại một số câu ca dao, tục ngữ cùng tư tưởng tình cảm trên.
Phê phán thái độ thờ ơ,lạnh nhạt, bàng quang trước các biến cố xảy ra ở các địa phương khác.
III.Kết bài:
∙ Đoàn kết thương yêu nhau là bài học lớn nhất của dân tộc.
∙ Truyền thống ấy ngày càng được phát huy mạnh mẽ.

_Bài làm_
Từ nghìn xưa, nhân dân ta đã khẳng định dân tộc Việt Nam là anh em
ruột thịt với nhau, là đồng bào, nghĩa là cùng sinh ra từ một bọc trứng của mẹ Âu Cơ. Do đó phải thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
Truyền thống cao cả và tốt đẹp ấy còn biểu hiện trong câu ca dao gợi
cảm:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng”.
Ta thử tìm hiểu ý nghĩa và giá trị của câu ca dao này như thế nào?
Trước hết, từ câu ca dao ta thấy hiện lên một hình ảnh khá đẹp: tấm
nhiễu điều bao phủ phía ngoài chiếc giá gương trải qua ngày này tháng kia, hứng chịu biết bao bụi bặm, bẩn nhơ của cuộc đời để chiếc gương phía trong mãi hoài sáng trong, ngời chiếu. Tác giả vô danh ở đây đã mượn hình ảnh đẹp đẽ, gợi cảm ấy để ngầm so sánh với tấm lòng rộng mở, sẵn sàng chở che, đùm bọc lẫn nhau của nhân dân cả nước ta. Câu ca dao phản ánh một nguyện vọng, tình cảm của mỗi con người Việt nam trong mọi hoàn cảnh đều phải đoàn kết “Lá lành đùmlá rách” một lòng giúp đỡ lẫn nhau vươn lên trong cuộc sống.
Mỗi người Việt Nam dẫu ở miền xuôi hay miền ngược, đồng bằng hay cao nguyên, rừng núi cũng đều có quan hệ là “người trong một nước”. “Người trong một nước” tuy khác nhau về nguồn gốc, hoàn cảnh và điều kiện sống riêng biệt nhưng bên trên những cái khác nhau đó, mọi người vẫn có nhiều cái giống nhau, chung với nahu làm nên tình nghĩa. Chung tổ tông ấy là tình đồng bào. Chung xóm làng, thôn ấp ấy là tình đồng hương. Chung trường học ấy là tình đồng môn. Chung cảnh ngộ ấy là tình đồng cảnh. Chung một mục đích một lí tưởng sống ấy là tình đồng chí. Chung một nghề ấy là tình đồng nghiệp. Chung một nghề ấy là tình đồng nghiệp. Chung một họ hàng là tìnhđồng tông...
Vượt lên trên các khác biệt nhỏ, vì sự giống nhau của một điều chung lớn hơn, người ta biết thương yêu, đỡ đần đoàn kết nhau. Trong thôn ấp, mối quan hệ tình làng nghĩa xóm thắt chặt mọi người lại với nhau thể hiện bằng lòng yêu thương, sự tương trợ lẫn nhau mỗi khi tắt đèn tối lửa. Tinh thần đoàn kết của nhân dân ta đâu chỉ gói gọn trong lũy tre thôn ấp mà còn được biểu hiện rộng rãi vượt ra phạm vi cả nước qua mối quan hệ trao đổi về vật chất lẫn tinh thần.. Một hạt gạo, một tấm áo đầy tình nghĩa của địa phương này gửi đến địa phương khác khi biết đồng bào mình nơi đó bị thiên tai, hoạn nạn đang lâm phải cảnh màn trời chiếu đất đều thắm thiết biết bao tình cảm nhiễu điều giá gương. Đặc biệt, mỗi khi đất nước có họa ngoại xâm, mọi tầng lớp nhân dân ta ở mọi miền đều xông lên tận tâm, tận lực góp cả sức người, sức của để giữ gìn từng ngọn rau tấc đất của cha ông. Các cuộc kháng chiến chống giặc thù xâm lược từ nghìn xưa đến nayđã cho thấy tinh thần đoàn kết một lòng của nhân dân ta. Tình đất nước nghĩa đồng bào khi nước nhà gặp cơn nguy biến, được phát huy thấm đượm hơn lúc nào hết. Có thương yêu nhau người ta mới cảm giác đau đớn, xót xa trước cảnh đồng bào mình trong xiềng xích, gông cùm của bọn chúng. Chính trong hoàn cảnh ấy, lòng yêu nước, yêu đồng bào được khơi lên phát huy thành cao trào để thể hiện mạnh mẽ bằng hành động cụ thể là góp lòng góp sức dẫn đến chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.Tinh thần đoàn kết của nhân dân ta, nói theo Bác Hồ, đó là một vật báu được gìn giữ truyền đời, có sức phát huy tác dụng vượt cả không gian và thời gian.
Lúc nào cũng vậy, tình thương yêu đoàn kết giữa người trong một nước ấy không phải chỉ có lời nói đầu môi cuối lưỡi hay chỉ là ước mơ cho nhau được một đời sống vật chất và tinh thần sung túc, ấm no mà phải được biểu lộ ra bằng hành động hay việc làm cụ thể và thiết thực. Chính những hành động hay việc làm thiết thực ấy làm cho tình yêu thương đoàn kết thắm thiết và cao quý hơn bội phần.
Đất nước Việt Nam có ba miền nhưng vẫn là một, cần liên kết gắn bó, giúp đỡ nhau từng bước cùng đi lên vững chắc. Khi biết miền nào gặp phải việc không hay, nhân dân ở các miền còn lại với tinh thần “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”sẽ cảm giác xót xa trong cảnh“máu chảy ruột mềm”, từ đó mở lò
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top