Download miễn phí .Bản chất của cổ phần hóa và sự cần thiết cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
Để thực hiện được những yêu cầu trên chúng ta phải nhanh chóng cải thiện năng lực của cơ quan chịu trách nhiệm quản lý tài sản Nhà nước trong các doanh nghiệp cổ phần hoá để nó có thể làm tốt các nhiệm vụ của mình là : Quản lý tài sản nhà nước trong các doanh nghiệp Nhà nước còn lại và doanh nghiệp đã cổ phần hoá đồng thời xử lý các khoản nợ xấu của doanh nghiệp trước cổ phần hoá. Tiếp theo, Nhà nước cần lựa chọn doanh nghiệp Nhà nước và loại hình công ty cổ phần để cổ phần hoá kiên quyết giảm thiểu các doanh nghiệp Nhà nước mà nhà nước cần sở hữu hoàn toàn hay sở hữu đa số.
Thứ ba, cần cố gắng đảm bảo tính minh bạch trong cổ phần hoá .Mục đích của những nỗ lực này là cung cấp thông tin một cách chân thực, chính xác, kịp thời cho các nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp từ đó giảm được lợi thế về thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, giảm được nguy cơ cổ phần hoá dưới giá, khép kín - một điều kiện thuận lợi dẫn tới tham nhũng và bất bình đẳng kinh tế. Còn về việc đánh giá doanh nghiệp cũng cần xem xét lại hãy để thị trường đánh giá. Như thế sẽ giúp bảo vệ tài sản công, giảm khoảng cách của bất bình đẳng kinh tế gây ra bởi việc cổ phần hoá nội bộ.
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2015-09-09-ban_chat_cua_co_phan_hoa_va_su_can_thiet_co_phan_hoa_mot_bo.ddofqICZzt.swf /tai-lieu/-ban-chat-cua-co-phan-hoa-va-su-can-thiet-co-phan-hoa-mot-bo-phan-doanh-nghiep-nha-nuoc-o-viet-nam-84873/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
Hơn nữa ,như ta đã biết các doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận chủ yếu cấu thành khu vực kinh tế nhà nước mà đối với nước ta kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân , điều tiết và định hương cho các thành phần kinh tế kém phát triển. Song có một thực tế hiện nay là khu vực kinh tế nhà nước ngày càng thua kém rõ dệt khu vực tư nhân và tập thể. Trong điều kiện kinh tế thị trường đang phát triển sôi động như hiện nay vai trò chủ đạo cua kinh tế nhà nước không được củng cố thêm thậm chí còn yếu đi nếu chúng ta cứ tiếp tục duy trì những doanh nghiệp hiệu quả thấp, dàn trải và năng lực kém .Đặc biệt hơn nữa khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO nếu năng lực cạnh tranh của chúng ta mà kém thì chúng ta khó có thể thắng trên sân nhà.
Chính vì những lý do trên nên cổ phần hóa là giải pháp tốt nhất để nâng cao năng lực của các doanh nghiệp Nhà nước tạo cho khu vực kinh tế nhà nước một bộ mặt mới, nó giúp củng cố được vai trò của khu vực kinh tế nhà nước đồng thời giảm bớt được khoảng cách giữa khu vực này với các khu cực khác tạo ra các cân đối trong nền kinh tế quốc dân đảm bảo ổn định về xã hội, không sáo trộn, không tạo ra nhiều khe hở làm thất thoát tài sản của nhà nước, đời sống nhân dân được cải thiện. Điều này đã được Đảng ta khẳng định ngay từ đầu thập kỷ 90 trong Nghị quyết Hội Nghị Trung Ương Đảng lần 2 khóa VII (11-1991) đó là “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới, phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng phạm vi thích hợp” .Và cho đến nay sau nhiều nghị quyết của Đảng thì cổ phần hóa đã trở thành vấn đế tất yếu được đề cập đến khi nói về phát triển kinh tế.
II.Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua.
1.Tiến trình cổ phần hóa.
Quá trình cổ phần hóa ở Việt Nam có thể chia thành 4 giai đoạn được đánh dấu bởi việc Chính phủ ban hành một số nghị định mới và mỗi khi nghị định mới ban hành thì tiến độ cổ phần hóa được đẩy nhanh hơn.
Thứ nhất giai đoạn 1: Giai đoạn thí điểm cổ phần (6/1992 - 4/1996) hay đây là giai đoạn cổ phần hóa tự nguyện.
Ngay từ những năm đầu thập kỷ 80 Đảng và nhà nước đã chú trọng cải tiến quản lý doanh nghiệp Nhà nước coi đây là mục đích thúc đẩy kinh tế nhà nước phát triển. Đặc biệt sau Đại hội 6/1986 thực hiện sự nghiệp đổi mới Chính Phủ đã ban hành một loạt pháp lệnh nghị định nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. Đồng thời đây cũng là khoảng thời gian thực hiện chương trình thí điểm cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước vừa và nhỏ khi nó đã thỏa mãn các điều kiện cần thiết như có lợi nhuận ,không mang tính chiến lược và do đó nhà nước không cần sở hữu 100% vốn, ban giám đốc và người lao động thì tự nguyện tham gia vào chương trình thí điểm.
Nhìn vào các tiêu chuẩn trên ta có thể thấy răng Việt Nam lúc đó dự định cổ phần hóa theo hai giai đoạn. Những doanh nghiệp nhỏ không quan trọng thì dược cổ phần hóa trước, những doanh nghiệp lớn và quan trọng cổ phần hóa sau, song kết quả của chương trình này rất khiêm tốn, trong 5 năm từ 1992 đến 1996 chỉ có vẻn vẹn 5 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa trên tổng số hơn 6000 doanh nghiệp Nhà nước hiện có trong thời gian ấy. Năm doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần đều là những doanh nghiệp Nhà nước mới được thành lập có quy mô vừa và nhỏ chủ yếu sản xuất hàng hóa trong lĩnh vực không quan trọng. Việc triển khai thí điểm cổ phần hóa còn quá chậm, không đạt yêu cầu mong muốn. Đây là giai đoạn đầy khó khăn vì vấn đề tư tưởng cho các cán bộ , công nhân viên công ty chưa được thông suốt, hơn nữa cơ chế vận hành của công ty cổ phần và cổ phần hóa còn là vấn đề rất mới ở Việt Nam trong giai đoạn này.
Giai đoạn 2: (5/1996 – 5/1998) Mở rộng chương trình thí điểm.
Qua 4 năm thực hiện chương trình thí điểm cổ phần hóa tuy kết quả còn ít nhưng ta đã có kinh nghiệm trong việc mở rộng cổ phần hóa trong thời gian tiếp theo. Vì vậy năm 1996 sau khi đánh giá kết quả chương trình thí điểm để đáp ứng nhu cầu bức xúc về vốn của doanh nghiệp Nhà nước và đẩy mạnh cổ phần hóa,
Chính Phủ đã quyết định mở rộng chương trình này . Và đây cũng là lần đầu tiên Chính Phủ cam kết mạnh mẽ với cổ phần hóa. Tuy nhiên cổ phần hóa được mở rộng song một lần nữa kết quả thu được không đáp ứng được kỳ vọng, từ 1996 đến 1998 chỉ có thêm 25 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa.
Giai đoạn 3: (6/1996-5/2002) Tăng tốc độ chương trình cổ phần hóa.
Từ kinh nghiệm cổ phần hóa ở các giai đoạn trước nên từ 6/1998 chương trình thí điểm thay bằng cổ phần hóa kiên quyết hơn với sự ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP và văn bản có liên quan. Đây có thể gọi là khuôn khổ pháp lý đầu tiên về cổ phần hóa ở Việt Nam . Các doanh nghiệp Nhà nước lúc này không còn quyền lựa chọn có tham gia chương trình cổ phần hóa hay không mà Chính Phủ chủ động phân loại tất cả các doanh nghiệp Nhà nước thành 3 nhóm theo mức độ quan trọng của nó: Nhóm thứ nhất bao gồm những doanh nghiệp Nhà nước có tầm quan trọng chiến lược và vì vậy nhà nước nắm quyền sở hữu và kiểm soát toàn bộ. Những doanh nghiệp Nhà nước trong nhóm này không là mục tiêu của cổ phần hóa. Nhóm thứ 2 bao gồm những doanh nghiệp Nhà nước thuộc lĩnh vực công nghiệp mà nhà nước muốn giữ cổ phần kiểm soát nếu nó được cổ phần.Nhóm thứ 3 bao gồm tất cả các doanh nghiệp Nhà nước còn lại và là đối tượng của cổ phần hóa.
Tiến độ cổ phần hóa giai đoạn này rất ấn tượng từ tháng 6/1998 đến tháng ...