mytamfansmytamfans
New Member
Luận văn luật: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01 07
Nhà xuất bản: Khoa Luật
Ngày: 2014
Miêu tả: Luận văn ThS. Luật Kinh Tế -- Khoa Luật. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014
Định dạng: 130 tr. + CD-ROM + Tóm tắt
Bảo hiểm: Thư viện nhà C1T Xuân Thủy – Cầu Giấy – Hà Nội
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẬP TRUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG ....................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của thị trường chứng khoán tập trung................6
1.2. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán tập trung................................9
1.3. Khái niệm, phân loại nhà đầu tư chứng khoán ......................................11
1.3.1. Khái niệm nhà đầu tư chứng khoán.............................................................11
1.3.2. Phân loại ......................................................................................................13
1.3.3. Khái niệm, đặc điểm nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp.......15
1.4. Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư không chuyên
nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung ......................................19
1.4.1. Khái niệm ....................................................................................................19
1.4.2. Nội dung pháp luật về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung ..........21
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG TRONG PHÁP LUẬT
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.....................................................................40
2.1. Quy định của pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư không chuyên
nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung ......................................40
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi2.1.1. Các quy định công nhận quyền của nhà đầu tư không chuyên nghiệp ...........41
2.1.2. Các quy định về quản lý và xử lý vi phạm ..................................................50
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc bảo vệ nhà đầu tư không
chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung .........................61
2.2.1. Thành quả đạt được .....................................................................................61
2.2.2. Một số vấn đề còn tồn tại.............................................................................64
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG
CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẬP TRUNG..............................................................................................89
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật chứng khoán trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp
trên thị trường chứng khoán ....................................................................89
3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế ........................................................89
3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu phát triển thị trường chứng khoán.............................90
3.2. Các đề xuất cụ thể......................................................................................91
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư không chuyên
nghiệp trên TTCKTT ....................................................................................91
3.2.2. Các đề xuất nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong việc bảo vệ
nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên TTCKTT .......................................102
KẾT LUẬN ............................................................................................................118
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................119
PHỤ LỤC...............................................................................................................124DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTCK: Công ty chứng khoán
IFC: Tổ chức tài chính quốc tế
NĐT: Nhà đầu tư
TTCKTT: Thị trường chứng khoán tập trung
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà nước
VSD: Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam.
WB: Ngân hàng thế giới
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thị trường chứng khoán ra đời như một tất yếu khách quan của nền kinh tế
thị trường và giữ vai trò đặc biệt quan trọng với nền kinh tế. Phát triển và đảm bảo
sự ổn định của thị trường chứng khoán luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc
gia trên thế giới bởi thị trường chứng khoán giúp khơi thông các nguồn vốn trong
xã hội và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn này vào những dự án đầu tư mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
Hiện nay trên thế giới các học giả cũng như các nhà quản lý kinh tế có những
quan điểm rất khác nhau về việc làm thế nào để tổ chức và quản lý thị trường chứng
khoán một cách tối ưu, tuy nhiên họ đều thống nhất nhau ở một điểm là các nhà đầu
tư luôn phải được coi là trọng tâm của thị trường. Một thị trường chứng khoán
không thể là kênh huy động và phân bổ vốn có hiệu quả khi mà các nhà đầu tư
không có niềm tin vào thị trường này, hay nói cách khác là khi quyền và lợi ích hợp
pháp của họ không được bảo vệ.
Tại Việt nam, thị trường chứng khoán tập trung được chính thức đi vào hoạt
động bằng hoạt động tại hai trung tâm giao dịch chứng khoán: TTGDCK Hồ Chí
Minh (2000) và TTGDCK Hà nội (2005). Tuy đã có 14 năm phát triển, song đây
vẫn là một thị trường chứng khoán non trẻ, các định chế hỗ trợ cho sự phát triển của
thị trường vẫn chưa được hình thành một cách đầy đủ và toàn diện, nhiều vấn đề
vẫn còn tồn tại, trong đó có vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư. Theo đánh giá của
WB trong Báo cáo Doing Business hàng năm, thì Việt Nam luôn bị xếp hạng khá
thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới về môi trường kinh doanh. Báo
cáo năm 2012, Việt Nam đứng thứ 98/185 quốc gia, nền kinh tế. Báo cáo năm 2013
Việt nam đứng thứ 99/183 quốc gia, nền kinh tế [Xem thêm phụ lục 1]. Thứ hạng
thấp này một phần lớn là do mức độ bảo vệ nhà đầu tư của chúng ta, tuy đã có ít
nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện chính sách, luật pháp liên quan, nhưng về cơ bản,
vẫn đứng ở vị trí rất thấp trên thế giới. Báo cáo năm 2012, Việt nam đứng thứ2
169/185 quốc gia, nền kinh tế về bảo vệ nhà đầu tư; báo cáo năm 2014, Việt nam
đứng thứ 160/189 quốc gia, nền kinh tế [Xem thêm Phụ lục 2]
Điều đó cho thấy pháp luật Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ
nhà đầu tư, tuy nhiên các quyền và lợi ích của nhóm đối tượng này vẫn chưa thật sự
được đảm bảo. Đặc biệt trên thị trường chứng khoán hiện nay chiếm một bộ phận
không nhỏ là các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, thiếu hiểu biết đầy đủ về chứng
khoán và thị trường chứng khoán, quyền lợi dễ bị xâm phạm. Thực tế, qua 14 năm
phát triển của thị trường chứng khoán Việt nam cho thấy vấn đề quyền và lợi ích
của những nhà đầu tư này chưa được coi trọng đúng mức ở nhiều phương diện,
trong đó pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn nhiều bất cập, tạo
lỗ hổng nảy sinh những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của những nhà đầu
tư. Vì vậy, vấn đề bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng
khoán tập trung ở nước ta là vô cùng cấp thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của chính các nhà đầu tư - một chủ thể quan trọng, song yếu thế trên thị
trường, tạo được niềm tin trên thị trường, đồng thời đảm bảo sự vận hành thị trường
chứng khoán một cách công bằng, hiệu quả; nâng cao thứ hạng quốc tế và cải thiện
hình ảnh của Việt Nam trước con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, học viên đã chọn đề tài “Bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán
tập trung theo pháp luật Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tính hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nói chung là vấn đề
được nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu như “Báo cáo về môi trường kinh
doanh” ra hàng năm của Ngân hàng Thế giới, luận văn thạc sĩ luật học của Phạm
Thanh Tú về "Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam" (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2006); Luận văn “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán tập trung theo quy định của pháp luật chứng khoán” của Trần
Thị Hà Trang (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội, 2008), bài nghiên cứu của tác
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
giả Hoàng Thị Quỳnh Chi về "Hoàn thiện các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư chứng
khoán", đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 19 năm 2006, bài nghiên cứu của tác giả
Phạm Thị Giang Thu về “Bàn về bảo vệ nhà đầu tư theo Luật chứng khoán và vấn
đề bảo đảm thực hiện” trên Tạp chí Luật học, số 8/2006… và nhiều bài viết khác
trên các báo, tạp chí.
Phần lớn các bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học về bảo vệ nhà đầu tư
trong đó có nhà đầu tư không chuyên nghiệp liên quan đến việc bảo vệ nhà đầu tư
trên thị trường phi tập trung. Một số bài viết liên quan đến nhà đầu tư trên thị trường
tập trung nhưng các bài viết nói trên mới dừng ở mức độ nêu ra tình huống nhà đầu tư
bị thiệt hại và dẫn chiếu lại các quy định của pháp luật Việt Nam để xác định trong
những tình huống đó thì nhà đầu tư nên làm gì để bảo vệ quyền lợi cho mình và trách
nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước cần làm đến đâu để bảo vệ quyền lợi cho nhà
đầu tư. Cũng có một số công trình nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trên
TTCKTT, song cách tiếp cận của các công trình nghiên cứu này chủ yếu tập trung
vào các quyền của nhà đầu tư với tư cách là cổ đông của tổ chức phát hành, tổ chức
niêm yết, quyền lợi của tất cả các nhà đầu tư nói chung, hay tập trung vào đối tượng
nhà đầu tư chứng khoán cá nhân theo pháp luật chứng khoán 2006 và các văn bản
hướng dẫn thời điểm đó. Luận văn tiếp cận theo hướng khác, nghiên cứu về việc bảo
vệ quyền và lợi ích của đối tượng là nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường
chứng khoán tập trung qua các quy định của pháp luật chứng khoán hiện hành, phân
tích đánh giá các quy định đó để tìm ra những kết quả đã đạt được và những tồn tại
cần hoàn thiện, qua đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dùng phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh và phương pháp phân tích từ các quy định của pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt nam trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp, đánh giá việc áp dụng các quy
định đó qua thực tiễn.4
Luận văn sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu với pháp luật của
một số nước, từ đó thấy được những điểm hợp lý hay còn bất cập trong việc
điều chỉnh cơ chế bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng
khoán. Từ đó, có thể đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các quy
định đối với vấn đề này.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, tư duy khoa học,
khách quan và thực tiễn để thu thập thông tin tư liệu, tài liệu tham khảo nghiên cứu
chọn lọc kinh nghiệm các nước với đề xuất những định hướng nhằm bảo vệ tốt hơn
các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp
4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn của các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo vệ nhà đầu tư không
chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung. Trên cơ sở đó, luận văn đề
xuất các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư
không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung, góp phần vào việc đáp
ứng tốt hơn yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng
khoán tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu những quy định pháp lý và thực tiễn việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị
trường chứng khoán tập trung ở Việt nam theo quy định tại Luật Chứng khoán số
70/QH11 năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành
hiện nay, trong đó tập trung chủ yếu vào nghiên cứu các quy định công nhận quyền
và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp. Các quyền của nhà đầu tư
với tư cách là cổ đông của công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp và
các văn bản hướng dẫn thi hành không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương
Chương 1: Khái quát chung về thị trường chứng khoán tập trung và bảo vệ
quyền nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán
không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung trong pháp luật chứng
khoán Việt nam
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật
chứng khoán trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán không
chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung.6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ
KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẬP TRUNG
1.1 . Khái niệm, đặc điểm, bản chất của thị trường chứng khoán tập trung
Thị trường chứng khoán tập trung có thể được hiểu một cách chung nhất là:
một thị trường mà trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại
địa điểm cố định về mặt địa lý. Địa điểm này được gọi là sàn giao dịch chứng
khoán, là nơi mà các thành viên thị trường tiến hành các giao dịch với chứng khoán
được phép niêm yết và giao dịch tại thị trường [35, tr.125]. TTCKTT được tổ chức
bởi sở giao dịch hay trung tâm giao dịch chứng khoán. Các tổ chức này không sở
hữu chứng khoán, không mua bán các loại chứng khoán mà chỉ cung cấp các dịch
vụ kỹ thuật, tạo điều kiện cho hoạt động mua bán chứng khoán, giám sát các hoạt
động giao dịch để bảo đảm các hoạt động mua bán chứng khoán diễn ra trong
khuôn khổ pháp luật.
Ở Việt nam thời kỳ đầu của sự phát triển TTCK, khái niệm thị trường chứng
khoán tập trung hầu như được đồng nhất với khái niệm thị trường chứng khoán.
Nghị định số 48/1998/NĐ-CP quy định về chứng khoán và TTCK định nghĩa “giao
dịch chứng khoán là việc mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập
trung” [13, Điều 2]. Điều này không đúng về bản chất vì việc giao dịch chứng
khoán bất kể nó được diễn ra tại một địa điểm hay hệ thống thông tin tập trung hay
không thì đó vẫn là giao dịch chứng khoán. Ở đây đã có sự nhầm lẫn giữa hành vi
giao dịch chứng khoán và cách tổ chức cho việc diễn ra hành vi đó. Luật
chứng khoán hiện hành không đưa ra định nghĩa thị trường chứng khoán tập trung
mà chỉ có khái niệm thị trường giao dịch chứng khoán, theo đó “Thị trường giao
dịch chứng khoán là địa điểm hay hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh
mua bán và giao dịch chúng khoán” [29, Điều 18]. Theo định nghĩa này thị trường
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
giao dịch chứng khoán bao gồm thị trường tập trung và phi tập trung. Xét về mặt
hình thức khái niệm này có thể đúng, tuy nhiên xét về mặt bản chất thì chưa hoàn
toàn chính xác. Thị trường giao dịch chứng khoán có thể là thị trường tập trung
hay phi tập trung. Khi các lệnh giao dịch (lệnh mua và lệnh bán) được tập trung tại
địa điểm nhất định thì đó chính là dấu hiệu đặc thù của thị trường giao dịch tập
trung. Ở thị trường giao dịch phi tập trung (thị trường OTC) thì ngược lại, các lệnh
giao dịch không được tập trung và không được thực hiện tại địa điểm nhất định mà
thông qua hệ thống trao đổi thông tin do nhà tổ chức thị trường tạo lập ra. Điều đó
có nghĩa thị trường giao dịch có thể được tổ chức tại địa điểm giao dịch nhất định
hay không tại địa điểm giao dịch nhất định (thông qua hệ thống trao đổi thông tin
chứ không phải bản thân thị trường giao dịch là địa điểm hay hình thức trao đổi
thông tin). Đây chỉ là những cách thức tổ chức của thị trường mà thôi. Như vậy, có
thể hiểu một cách chung nhất, thị trường chứng khoán tập trung là một thị trường
mà trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại địa điểm cố
định về mặt địa lý.
Thị trường chứng khoán tập trung có một số đặc điểm chính sau:
Một là: là thị trường có địa điểm giao dịch cố định. Địa điểm giao dịch cố
định ở đây là sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch chứng khoán.
Hai là: cách giao dịch chủ yếu là đấu giá hay ghép lệnh để hình
thành nên giá cả cạnh tranh tốt nhất trong các phiên giao dịch.
Ba là: Hàng hóa giao dịch tại thị trường là những hàng hóa có chất lượng
cao. Đây là những chứng khoán đã được kiểm định, đủ điều kiện niêm yết và giao
dịch, thường là chứng khoán của những công ty lớn, có danh tiếng, và đã qua thử
thách của thị trường. Các điều kiện về niêm yết do sở giao dịch chứng khoán, trung
tâm giao dịch chứng khoán ban hành này được coi như bộ lọc để lọc những chứng
khoán kém chất lượng, thông qua đó bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và góp phần giúp
thị trường hoạt động hiệu quả, phát triển bền vững. Các tiêu chuẩn niêm yết thường
chú trọng đến thâm niên hoạt động, thành tích lợi nhuận, quy mô cổ phần, và lượng
cổ đông. Người đầu tư chứng khoán, dù mạo hiểm vì tính rủi ro vốn có của thị8
trường chứng khoán, nhưng khi mua chứng khoán trên TTCKTT đã được xem như
là họ được bảo vệ tối đa so với mua ở các thị trường chứng khoán khác, vì chứng
khoán ở đây đã được sàng lọc
Bốn là: là thị trường có tính tổ chức cao. Thành viên tham gia thị trường có
giới hạn, bao gồm các chủ thể tham gia quản lý, điều hành và các định chế trung
gian, đây đều là những tổ chức chuyên nghiệp và phải đạt đủ năng lực, điều kiện,
được cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và TTCKTT cấp phép
thành viên mới được tham gia thị trường. Các chủ thể khi tham gia thị trường đều
phải đảm bảo tuân thủ những quy định và nguyên tắc nhất định và đều được điều
chỉnh thống nhất bằng hệ thống các quy định pháp luật, quy chế của Sở giao dịch
chứng khoán nhằm tạo nên một quá trình hợp tác hiệu quả, thông suốt.
Năm là: là thị trường được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật chặt chẽ.
Với tính chất là một thị trường nhạy cảm, nhiều rủi ro và có khả năng tác động, ảnh
hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế-xã hội của mọi quốc gia, TTCKTT đòi hỏi phải
có sự quản lý chặt chẽ và minh bạch. Vì vậy để điều hành quản lý TTCKTT Nhà
nước đã ban hành một hệ thống đầy đủ các văn bản pháp luật mà tất cả các chủ thể
tham gia thị trường đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Mọi hành vi vi phạm đều có
những chế tài thích hợp. Đó là sự điều chỉnh của pháp luật đặc thù –pháp luật chứng
khoán, sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp về các vấn đề tổ chức và phân chia lợi
nhuận, sự điều chỉnh của pháp luật khác về các vấn đề có liên quan. Ngoài ra
TTCKTT còn chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của UBCKNN với tư cách cơ
quan quản lý nhà nước về chuyên ngành.
Sáu là: là thị trường hoạt động dựa trên nguyên tắc trung gian. Đây là đặc
điểm nổi bật của TTCKTT so với các thị trường khác. Nguyên tắc trung gian
nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực, đảm
bảo lợi ích nhà đầu tư, và để TTCKTT hoạt động lành mạnh, liên tục, hợp pháp
và phát triển. Theo nguyên tắc này thì mọi giao dịch tên thị trường đều phải được
thực hiện qua trung gian là các thành viên thị trường. Các nhà đầu tư không được
đặt lệnh mua, bán trực tiếp mà phải gián tiếp thông qua các trung gian là thành
viên của thị trường này.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
Thị trường chứng khoán tập trung hoạt động theo nguyên tắc công bằng,
minh bạch, công khai thông tin, tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh dịch vụ
chứng khoán của tổ chức, cá nhận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
1.2 . Các chủ thể trên thị trường chứng khoán tập trung
Chủ thể phát hành: Chủ thể phát hành là các tổ chức thực hiện huy động
vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là Chính phủ, chính
quyền địa phương, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác như quỹ đầu tư, tổ
chức tài chính trung gian...
Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các loại chứng
khoán: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, tín phiếu
kho bạc; nhằm huy động tiền bù đắp thâm hụt ngân sách, thực hiện những công
trình quốc gia lớn, hay để huy động tiền đầu tư cho các công trình hay chương
trình kinh tế, xã hội của địa phương.
Các công ty là chủ thể phát hành trái phiếu hay cổ phiếu công ty để huy
động vốn đầu tư phát triển sản xuất
Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ hưởng thụ...phục vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp với
đặc thù hoạt động của họ theo Luật định [36, tr.24]
Nhà đầu tư: Chủ thể đầu tư là những tổ chức, cá nhân có tiền, thực hiện việc
mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận.
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán: là các định chế tài chính trung gian
làm nhiệm vụ thực hiện các giao dịch chứng khoán, là cầu nối giữa tổ chức phát
hành và nhà đầu tư, bao gồm công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại.
Công ty chứng khoán: Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là
bảo lãnh phát hành, tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu
tư chứng khoán.
Các ngân hàng thương mại: Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn
để đầu tư chứng khoán nhưng chỉ được trong giới hạn rất định và phải thành lập
công ty chuyên biệt kinh doanh chứng khoán để bảo vệ ngân hàng trước những biến
động của giá chứng khoán.10
Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán: bao gồm cơ quan quản
lý nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Cơ quan quản lý nhà nước: Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức
năng quản lý, giám sát của nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Cơ quan quản
lý, giám sát thị trường chứng khoán được hình thành dưới nhiều mô hình, hoạt động
khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực
thuộc chính phủ, nhưng có nước lại kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và nhà
nước. Nhưng nhìn chung, cơ quan quản lý này do Chính phủ của các nước thành lập
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và bảo đảm cho thị trường chứng
khoán hoạt động lành mạnh, suôn sẻ và phát triển vững chắc. Cơ quan này có những
tên gọi khác nhau, tuỳ từng nước. Tại Trung Quốc có Cơ quan Giám quản chứng
khoán của Quốc vụ viện Trung Quốc [53]. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán
(SIB- Securities Investment Board). Ủy ban này là một tổ chức được thừa nhận
trong đạo luật về các dịch vụ tài chính ban hành năm 1986. Tại Mỹ, Uỷ ban chứng
khoán và Giao dịch chứng khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) là
một cơ quan của liên bang có tư cách pháp lý thực hiện việc kiểm soát thị trường
chứng khoán. Ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng
khoán (ESC - Exchange Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992 và
đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency, có chức năng cơ
bản là tiến hành điều tra và xử lý các giao dịch gian lận trên thị trường chứng
khoán, do Bộ tài chính Nhật Bản đảm nhiệm. Tại Hàn Quốc có Ủy ban chứng
khoán và giao dịch chứng khoán (ESC-Securities and Exchange Commission) và
Ban Giám sát chứng khoán (SSB – Securities Supervise Board) được đặt dưới sự
giám sát của Bộ Kinh tế- Tài chính. Và ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà
nước được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996.
Sở giao dịch chứng khoán: Sở giao dịch chứng khoán thực hiện việc vận
hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục
vụ các hoạt động trên sở giao dịch. Ngoài ra Sở cũng ban hành những quy định điều
chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên sở, phù hợp các quy định của luật
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
pháp và Ủy ban chứng khoán. Xét về hình thức sở hữu, hiện nay trên thế giới sở
giao dịch chứng khoán có thể có các hình thức sở hữu sau đây: Hình thức sở hữu
nhà nước (ví dụ:Sở giao dịch chứng khoán Warsaw, Istanbul..), hình thức sở hữu cổ
phần, có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên, ngân hàng thương mại, công
ty bảo hiểm và các tổ chức khác (ví dụ: Sở giao dịch chứng khoán Australia), hình
thức sở hữu thành viên, do thành viên là các công ty chứng khoán sở hữu (ví dụ: Sở
giao dịch chứng khoán Hàn Quốc, New York, Tokyo, Thái Lan,..) [35, tr.128].
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: Hiệp hội các nhà kinh doanh
chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác
hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích
cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung.
Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau: khuyến khích hoạt động đầu tư và
kinh doanh chứng khoán; ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở
các quy định pháp luật về chứng khoán; điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các
thành viên; tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.
Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: tổ chức lưu ký và thanh
toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp
vụ thanh toán bù trừ.
1.3 . Khái niệm, phân loại nhà đầu tư chứng khoán
1.3.1. Khái niệm nhà đầu tư chứng khoán
Hiểu một cách chung nhất, nhà đầu tư chứng khoán là những cá nhân, tổ
chức, bỏ vốn để sở hữu chứng khoán vì mục đích kiếm lời. Lợi nhuận kỳ vọng của
nhà đầu tư có hai dạng:
Một là, nhà đầu tư có được lợi tức do chứng khoán mang lại. Khoản tiền này
do tổ chức phát hành chứng khoán chi trả dưới dạng cổ tức hay lãi trái phiếu;
Hai là, nhà đầu tư có thể có được thu nhập từ chênh lệch mua đi, bán lại
chứng khoán trên thị trường.
Khác với các chủ thể tham gia mua bán hàng hóa ở các thị trường hàng hóa
thông thường, nhà đầu tư trên TTCKTT vừa đóng vai trò là người mua vừa là người12
bán các loại chứng khoán trên thị trường. Trên TTCKTT nhà đầu tư mua các loại
chứng khoán không nhằm mục đích tiêu thụ hay sử dụng các loại chứng khoán mà
họ mua về mà nhằm đầu tư thực hiện việc mua đi, bán lại các loại chứng khoán giao
dịch trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời từ việc mua bán của mình.
Định nghĩa về nhà đầu tư chứng khoán trong quy định của pháp luật Việt
Nam cũng có những sự khác nhau nhất định. Về khái niệm nhà đầu tư nói chung,
Điều 3.4, Luật đầu tư cũng qui định “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt
động đầu tư…” theo đó có “bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hay vô hình để
hình thành tài sản…” [28, Điều 3, Khoản 4]. Về khái niệm nhà đầu tư chứng khoán
cũng được nhắc đến trong các văn bản pháp luật về chứng khoán, tại nghị định
48/1998/NĐ-CP quy định “Người đầu tư là người sở hữu chứng khoán, người mua
hay dự kiến mua chứng khoán” [13, Điều 2, Khoản 22]. Theo khái niệm này thì
nhà đầu tư chứng khoán có thể bao gồm những người đã mua chứng khoán, và đang
nắm giữ chúng hay những người có ý định mua chúng. Nghị định 144/2003/NĐ-
CP không đưa ra định nghĩa về nhà đầu tư [14]. Đến luật Chứng khoán 2006 có đưa
ra khái niệm nhà đầu tư chứng khoán như sau “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt
nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán”
[29, Điều 6, Khoản 10]. Với quy định như trên khái niệm nhà đầu tư trên TTCK
Việt nam đã được mở rộng và có nội dung đầy đủ hơn. Theo quy định của Luật
chứng khoán nhà đầu tư trên TTCK Việt nam bao gồm cả tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước có sở hữu tham gia mua bán các loại chứng khoán trên TTCK Việt nam.
Với quy định này, Luật chứng khoán đã quy định đầy đủ hơn về các đối tượng được
phép mua bán chứng khoán trên TTCK Việt nam. Các tổ chức, cá nhân mua bán
chứng khoán ở đây không còn đơn giản là các cá nhân, các tổ chức đơn thuần mà nó
còn được hiểu là các công ty quản lý quỹ, các công ty đầu tư, các quỹ đầu tư...
Nhưng đây chỉ là một khái niệm chung chung, mới chỉ ra được các đối tượng có thể
trở thành nhà đầu tư mà chưa chỉ ra được bản chất thực sự của một nhà đầu tư. Còn
trong cuốn sách Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường
chứng khoán của Ủy ban chứng khoán nhà nước, có đưa ra một khái niệm nhà đầu
tư chứng khoán như sau “Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứ
Vì vậy, giải pháp hiện nay để giúp nhà đầu tư không chuyên, là khẩn trương
xây dựng và hoàn thiện Nghị định về thành lập doanh nghiệp định mức tín nhiệm,
để giúp cho nhà đầu tư nói chung, nhà đầu tư không chuyên nghiệp nói riêng có
thêm một công cụ hiệu quả trong việc đánh giá đầu tư, để có quyết định đầu tư đúng
đắn trước trái phiếu các công ty niêm yết tại Sở Giao dịch. Chúng ta có thể tham
khảo mô hình CRA của một số nước trên thế giới, để xây dựng mô hình CRA cho
phù hợp với hoàn cảnh của đất nước hình [Xem phụ lục 8]118
KẾT LUẬN
Báo cáo về môi trường kinh doanh toàn cầu của Công ty Tài chính Quốc tế
(IFC) năm 2013 đánh giá Việt Nam ở vị trí thứ 157 về bảo vệ nhà đầu tư. Kết quả
này, tuy có cải thiện 12 bậc so với năm 2012 (vị trí 169), nhưng vẫn thuộc hàng
“đội sổ” trên bản đồ thế giới. Như vậy, mặc dù đã rất nỗ lực trong việc cải thiện môi
trường đầu tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật, minh bạch và giảm thiểu các thủ tục
hành chính, nhưng kết quả vẫn chưa được như chúng ta mong đợi. Bảo vệ nhà đầu
tư là bảo vệ thị trường. Đây là một nguyên tắc đơn giản trên lý thuyết. Nhưng để
thực hiện được trên thực tế quả là còn nhiều khó khăn.
Nhà đầu tư không chuyên với những đặc điểm của mình, luôn ở vị thế yếu hơn
các nhà đầu tư chuyên nghiệp, quyền lợi của họ càng dễ bị xâm hại hơn, đây là đối
tượng chiếm số lượng phần lớn trên TTCK và cũng là đối tượng cần được bảo vệ
nhất. Nhà nước đặt ra các quy định của pháp luật, bảo vệ chủ thể này bằng cách công
nhận các quyền tham gia thị trường, quyền được cung cấp thông tin về thị trường,
quyền được bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản đầu tư của họ, thực hiện việc thanh
tra kiểm tra và xử lý vi phạm khi có các hành vi xâm phạm quyền lợi của họ.
Việc tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư không chuyên nghiệp thực hiện
các quyền này, cũng như là nâng cao các biện pháp thanh tra, xử lý vi phạm để bảo
vệ tối đa các quyền này của nhà đầu tư là yêu cầu bắt buộc đối với hệ thống pháp
luật về chứng khoán và TTCK, nhằm tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, một
kênh huy động vốn dồi dào tạo động lực phát triển cho nền kinh tế. Luận văn này
với việc phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về TTCK trong việc bảo vệ
nhà đầu tư nghiệp dư, đưa ra và phân tích một số khía cạnh thực tế trong hoạt động
kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, tác giả
luận văn còn mong muốn đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật để bảo vệ nhóm nhà đầu tư này, nhằm mục đích tăng tính
khả thi và phát huy được tối đa hiệu quả củ
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nhà xuất bản: Khoa Luật
Ngày: 2014
Miêu tả: Luận văn ThS. Luật Kinh Tế -- Khoa Luật. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014
Định dạng: 130 tr. + CD-ROM + Tóm tắt
Bảo hiểm: Thư viện nhà C1T Xuân Thủy – Cầu Giấy – Hà Nội
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẬP TRUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG ....................................6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất của thị trường chứng khoán tập trung................6
1.2. Các chủ thể trên thị trường chứng khoán tập trung................................9
1.3. Khái niệm, phân loại nhà đầu tư chứng khoán ......................................11
1.3.1. Khái niệm nhà đầu tư chứng khoán.............................................................11
1.3.2. Phân loại ......................................................................................................13
1.3.3. Khái niệm, đặc điểm nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp.......15
1.4. Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư không chuyên
nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung ......................................19
1.4.1. Khái niệm ....................................................................................................19
1.4.2. Nội dung pháp luật về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung ..........21
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG TRONG PHÁP LUẬT
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.....................................................................40
2.1. Quy định của pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư không chuyên
nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung ......................................40
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi2.1.1. Các quy định công nhận quyền của nhà đầu tư không chuyên nghiệp ...........41
2.1.2. Các quy định về quản lý và xử lý vi phạm ..................................................50
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc bảo vệ nhà đầu tư không
chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung .........................61
2.2.1. Thành quả đạt được .....................................................................................61
2.2.2. Một số vấn đề còn tồn tại.............................................................................64
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT CHỨNG KHOÁN TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NHÀ ĐẦU TƯ KHÔNG
CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẬP TRUNG..............................................................................................89
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật chứng khoán trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp
trên thị trường chứng khoán ....................................................................89
3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu hội nhập quốc tế ........................................................89
3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu phát triển thị trường chứng khoán.............................90
3.2. Các đề xuất cụ thể......................................................................................91
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư không chuyên
nghiệp trên TTCKTT ....................................................................................91
3.2.2. Các đề xuất nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong việc bảo vệ
nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên TTCKTT .......................................102
KẾT LUẬN ............................................................................................................118
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................119
PHỤ LỤC...............................................................................................................124DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTCK: Công ty chứng khoán
IFC: Tổ chức tài chính quốc tế
NĐT: Nhà đầu tư
TTCKTT: Thị trường chứng khoán tập trung
UBCKNN: Ủy ban chứng khoán Nhà nước
VSD: Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam.
WB: Ngân hàng thế giới
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thị trường chứng khoán ra đời như một tất yếu khách quan của nền kinh tế
thị trường và giữ vai trò đặc biệt quan trọng với nền kinh tế. Phát triển và đảm bảo
sự ổn định của thị trường chứng khoán luôn là mối quan tâm hàng đầu của các quốc
gia trên thế giới bởi thị trường chứng khoán giúp khơi thông các nguồn vốn trong
xã hội và phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn này vào những dự án đầu tư mang lại
hiệu quả kinh tế cao.
Hiện nay trên thế giới các học giả cũng như các nhà quản lý kinh tế có những
quan điểm rất khác nhau về việc làm thế nào để tổ chức và quản lý thị trường chứng
khoán một cách tối ưu, tuy nhiên họ đều thống nhất nhau ở một điểm là các nhà đầu
tư luôn phải được coi là trọng tâm của thị trường. Một thị trường chứng khoán
không thể là kênh huy động và phân bổ vốn có hiệu quả khi mà các nhà đầu tư
không có niềm tin vào thị trường này, hay nói cách khác là khi quyền và lợi ích hợp
pháp của họ không được bảo vệ.
Tại Việt nam, thị trường chứng khoán tập trung được chính thức đi vào hoạt
động bằng hoạt động tại hai trung tâm giao dịch chứng khoán: TTGDCK Hồ Chí
Minh (2000) và TTGDCK Hà nội (2005). Tuy đã có 14 năm phát triển, song đây
vẫn là một thị trường chứng khoán non trẻ, các định chế hỗ trợ cho sự phát triển của
thị trường vẫn chưa được hình thành một cách đầy đủ và toàn diện, nhiều vấn đề
vẫn còn tồn tại, trong đó có vấn đề bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư. Theo đánh giá của
WB trong Báo cáo Doing Business hàng năm, thì Việt Nam luôn bị xếp hạng khá
thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới về môi trường kinh doanh. Báo
cáo năm 2012, Việt Nam đứng thứ 98/185 quốc gia, nền kinh tế. Báo cáo năm 2013
Việt nam đứng thứ 99/183 quốc gia, nền kinh tế [Xem thêm phụ lục 1]. Thứ hạng
thấp này một phần lớn là do mức độ bảo vệ nhà đầu tư của chúng ta, tuy đã có ít
nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện chính sách, luật pháp liên quan, nhưng về cơ bản,
vẫn đứng ở vị trí rất thấp trên thế giới. Báo cáo năm 2012, Việt nam đứng thứ2
169/185 quốc gia, nền kinh tế về bảo vệ nhà đầu tư; báo cáo năm 2014, Việt nam
đứng thứ 160/189 quốc gia, nền kinh tế [Xem thêm Phụ lục 2]
Điều đó cho thấy pháp luật Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ
nhà đầu tư, tuy nhiên các quyền và lợi ích của nhóm đối tượng này vẫn chưa thật sự
được đảm bảo. Đặc biệt trên thị trường chứng khoán hiện nay chiếm một bộ phận
không nhỏ là các nhà đầu tư không chuyên nghiệp, thiếu hiểu biết đầy đủ về chứng
khoán và thị trường chứng khoán, quyền lợi dễ bị xâm phạm. Thực tế, qua 14 năm
phát triển của thị trường chứng khoán Việt nam cho thấy vấn đề quyền và lợi ích
của những nhà đầu tư này chưa được coi trọng đúng mức ở nhiều phương diện,
trong đó pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn nhiều bất cập, tạo
lỗ hổng nảy sinh những hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của những nhà đầu
tư. Vì vậy, vấn đề bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng
khoán tập trung ở nước ta là vô cùng cấp thiết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của chính các nhà đầu tư - một chủ thể quan trọng, song yếu thế trên thị
trường, tạo được niềm tin trên thị trường, đồng thời đảm bảo sự vận hành thị trường
chứng khoán một cách công bằng, hiệu quả; nâng cao thứ hạng quốc tế và cải thiện
hình ảnh của Việt Nam trước con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài.
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, học viên đã chọn đề tài “Bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán
tập trung theo pháp luật Việt Nam” để làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tính hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nói chung là vấn đề
được nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu như “Báo cáo về môi trường kinh
doanh” ra hàng năm của Ngân hàng Thế giới, luận văn thạc sĩ luật học của Phạm
Thanh Tú về "Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị trường
chứng khoán tập trung theo pháp luật Việt Nam" (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2006); Luận văn “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán tập trung theo quy định của pháp luật chứng khoán” của Trần
Thị Hà Trang (Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà nội, 2008), bài nghiên cứu của tác
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
giả Hoàng Thị Quỳnh Chi về "Hoàn thiện các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư chứng
khoán", đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 19 năm 2006, bài nghiên cứu của tác giả
Phạm Thị Giang Thu về “Bàn về bảo vệ nhà đầu tư theo Luật chứng khoán và vấn
đề bảo đảm thực hiện” trên Tạp chí Luật học, số 8/2006… và nhiều bài viết khác
trên các báo, tạp chí.
Phần lớn các bài nghiên cứu trên các tạp chí khoa học về bảo vệ nhà đầu tư
trong đó có nhà đầu tư không chuyên nghiệp liên quan đến việc bảo vệ nhà đầu tư
trên thị trường phi tập trung. Một số bài viết liên quan đến nhà đầu tư trên thị trường
tập trung nhưng các bài viết nói trên mới dừng ở mức độ nêu ra tình huống nhà đầu tư
bị thiệt hại và dẫn chiếu lại các quy định của pháp luật Việt Nam để xác định trong
những tình huống đó thì nhà đầu tư nên làm gì để bảo vệ quyền lợi cho mình và trách
nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước cần làm đến đâu để bảo vệ quyền lợi cho nhà
đầu tư. Cũng có một số công trình nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trên
TTCKTT, song cách tiếp cận của các công trình nghiên cứu này chủ yếu tập trung
vào các quyền của nhà đầu tư với tư cách là cổ đông của tổ chức phát hành, tổ chức
niêm yết, quyền lợi của tất cả các nhà đầu tư nói chung, hay tập trung vào đối tượng
nhà đầu tư chứng khoán cá nhân theo pháp luật chứng khoán 2006 và các văn bản
hướng dẫn thời điểm đó. Luận văn tiếp cận theo hướng khác, nghiên cứu về việc bảo
vệ quyền và lợi ích của đối tượng là nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường
chứng khoán tập trung qua các quy định của pháp luật chứng khoán hiện hành, phân
tích đánh giá các quy định đó để tìm ra những kết quả đã đạt được và những tồn tại
cần hoàn thiện, qua đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dùng phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp tổng hợp,
phương pháp so sánh và phương pháp phân tích từ các quy định của pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt nam trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp, đánh giá việc áp dụng các quy
định đó qua thực tiễn.4
Luận văn sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu với pháp luật của
một số nước, từ đó thấy được những điểm hợp lý hay còn bất cập trong việc
điều chỉnh cơ chế bảo vệ nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng
khoán. Từ đó, có thể đề ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các quy
định đối với vấn đề này.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, tư duy khoa học,
khách quan và thực tiễn để thu thập thông tin tư liệu, tài liệu tham khảo nghiên cứu
chọn lọc kinh nghiệm các nước với đề xuất những định hướng nhằm bảo vệ tốt hơn
các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp
4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn của các quy định pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo vệ nhà đầu tư không
chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung. Trên cơ sở đó, luận văn đề
xuất các phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư
không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung, góp phần vào việc đáp
ứng tốt hơn yêu cầu hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng
khoán tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu những quy định pháp lý và thực tiễn việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị
trường chứng khoán tập trung ở Việt nam theo quy định tại Luật Chứng khoán số
70/QH11 năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành
hiện nay, trong đó tập trung chủ yếu vào nghiên cứu các quy định công nhận quyền
và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp. Các quyền của nhà đầu tư
với tư cách là cổ đông của công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp và
các văn bản hướng dẫn thi hành không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
5. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương
Chương 1: Khái quát chung về thị trường chứng khoán tập trung và bảo vệ
quyền nhà đầu tư không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung
Chương 2: Thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán
không chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung trong pháp luật chứng
khoán Việt nam
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật
chứng khoán trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư chứng khoán không
chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán tập trung.6
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ
KHÔNG CHUYÊN NGHIỆP TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẬP TRUNG
1.1 . Khái niệm, đặc điểm, bản chất của thị trường chứng khoán tập trung
Thị trường chứng khoán tập trung có thể được hiểu một cách chung nhất là:
một thị trường mà trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại
địa điểm cố định về mặt địa lý. Địa điểm này được gọi là sàn giao dịch chứng
khoán, là nơi mà các thành viên thị trường tiến hành các giao dịch với chứng khoán
được phép niêm yết và giao dịch tại thị trường [35, tr.125]. TTCKTT được tổ chức
bởi sở giao dịch hay trung tâm giao dịch chứng khoán. Các tổ chức này không sở
hữu chứng khoán, không mua bán các loại chứng khoán mà chỉ cung cấp các dịch
vụ kỹ thuật, tạo điều kiện cho hoạt động mua bán chứng khoán, giám sát các hoạt
động giao dịch để bảo đảm các hoạt động mua bán chứng khoán diễn ra trong
khuôn khổ pháp luật.
Ở Việt nam thời kỳ đầu của sự phát triển TTCK, khái niệm thị trường chứng
khoán tập trung hầu như được đồng nhất với khái niệm thị trường chứng khoán.
Nghị định số 48/1998/NĐ-CP quy định về chứng khoán và TTCK định nghĩa “giao
dịch chứng khoán là việc mua bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập
trung” [13, Điều 2]. Điều này không đúng về bản chất vì việc giao dịch chứng
khoán bất kể nó được diễn ra tại một địa điểm hay hệ thống thông tin tập trung hay
không thì đó vẫn là giao dịch chứng khoán. Ở đây đã có sự nhầm lẫn giữa hành vi
giao dịch chứng khoán và cách tổ chức cho việc diễn ra hành vi đó. Luật
chứng khoán hiện hành không đưa ra định nghĩa thị trường chứng khoán tập trung
mà chỉ có khái niệm thị trường giao dịch chứng khoán, theo đó “Thị trường giao
dịch chứng khoán là địa điểm hay hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh
mua bán và giao dịch chúng khoán” [29, Điều 18]. Theo định nghĩa này thị trường
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
giao dịch chứng khoán bao gồm thị trường tập trung và phi tập trung. Xét về mặt
hình thức khái niệm này có thể đúng, tuy nhiên xét về mặt bản chất thì chưa hoàn
toàn chính xác. Thị trường giao dịch chứng khoán có thể là thị trường tập trung
hay phi tập trung. Khi các lệnh giao dịch (lệnh mua và lệnh bán) được tập trung tại
địa điểm nhất định thì đó chính là dấu hiệu đặc thù của thị trường giao dịch tập
trung. Ở thị trường giao dịch phi tập trung (thị trường OTC) thì ngược lại, các lệnh
giao dịch không được tập trung và không được thực hiện tại địa điểm nhất định mà
thông qua hệ thống trao đổi thông tin do nhà tổ chức thị trường tạo lập ra. Điều đó
có nghĩa thị trường giao dịch có thể được tổ chức tại địa điểm giao dịch nhất định
hay không tại địa điểm giao dịch nhất định (thông qua hệ thống trao đổi thông tin
chứ không phải bản thân thị trường giao dịch là địa điểm hay hình thức trao đổi
thông tin). Đây chỉ là những cách thức tổ chức của thị trường mà thôi. Như vậy, có
thể hiểu một cách chung nhất, thị trường chứng khoán tập trung là một thị trường
mà trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại địa điểm cố
định về mặt địa lý.
Thị trường chứng khoán tập trung có một số đặc điểm chính sau:
Một là: là thị trường có địa điểm giao dịch cố định. Địa điểm giao dịch cố
định ở đây là sở giao dịch chứng khoán hay trung tâm giao dịch chứng khoán.
Hai là: cách giao dịch chủ yếu là đấu giá hay ghép lệnh để hình
thành nên giá cả cạnh tranh tốt nhất trong các phiên giao dịch.
Ba là: Hàng hóa giao dịch tại thị trường là những hàng hóa có chất lượng
cao. Đây là những chứng khoán đã được kiểm định, đủ điều kiện niêm yết và giao
dịch, thường là chứng khoán của những công ty lớn, có danh tiếng, và đã qua thử
thách của thị trường. Các điều kiện về niêm yết do sở giao dịch chứng khoán, trung
tâm giao dịch chứng khoán ban hành này được coi như bộ lọc để lọc những chứng
khoán kém chất lượng, thông qua đó bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và góp phần giúp
thị trường hoạt động hiệu quả, phát triển bền vững. Các tiêu chuẩn niêm yết thường
chú trọng đến thâm niên hoạt động, thành tích lợi nhuận, quy mô cổ phần, và lượng
cổ đông. Người đầu tư chứng khoán, dù mạo hiểm vì tính rủi ro vốn có của thị8
trường chứng khoán, nhưng khi mua chứng khoán trên TTCKTT đã được xem như
là họ được bảo vệ tối đa so với mua ở các thị trường chứng khoán khác, vì chứng
khoán ở đây đã được sàng lọc
Bốn là: là thị trường có tính tổ chức cao. Thành viên tham gia thị trường có
giới hạn, bao gồm các chủ thể tham gia quản lý, điều hành và các định chế trung
gian, đây đều là những tổ chức chuyên nghiệp và phải đạt đủ năng lực, điều kiện,
được cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực chứng khoán và TTCKTT cấp phép
thành viên mới được tham gia thị trường. Các chủ thể khi tham gia thị trường đều
phải đảm bảo tuân thủ những quy định và nguyên tắc nhất định và đều được điều
chỉnh thống nhất bằng hệ thống các quy định pháp luật, quy chế của Sở giao dịch
chứng khoán nhằm tạo nên một quá trình hợp tác hiệu quả, thông suốt.
Năm là: là thị trường được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật chặt chẽ.
Với tính chất là một thị trường nhạy cảm, nhiều rủi ro và có khả năng tác động, ảnh
hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế-xã hội của mọi quốc gia, TTCKTT đòi hỏi phải
có sự quản lý chặt chẽ và minh bạch. Vì vậy để điều hành quản lý TTCKTT Nhà
nước đã ban hành một hệ thống đầy đủ các văn bản pháp luật mà tất cả các chủ thể
tham gia thị trường đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Mọi hành vi vi phạm đều có
những chế tài thích hợp. Đó là sự điều chỉnh của pháp luật đặc thù –pháp luật chứng
khoán, sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp về các vấn đề tổ chức và phân chia lợi
nhuận, sự điều chỉnh của pháp luật khác về các vấn đề có liên quan. Ngoài ra
TTCKTT còn chịu sự quản lý và giám sát chặt chẽ của UBCKNN với tư cách cơ
quan quản lý nhà nước về chuyên ngành.
Sáu là: là thị trường hoạt động dựa trên nguyên tắc trung gian. Đây là đặc
điểm nổi bật của TTCKTT so với các thị trường khác. Nguyên tắc trung gian
nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực, đảm
bảo lợi ích nhà đầu tư, và để TTCKTT hoạt động lành mạnh, liên tục, hợp pháp
và phát triển. Theo nguyên tắc này thì mọi giao dịch tên thị trường đều phải được
thực hiện qua trung gian là các thành viên thị trường. Các nhà đầu tư không được
đặt lệnh mua, bán trực tiếp mà phải gián tiếp thông qua các trung gian là thành
viên của thị trường này.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
Thị trường chứng khoán tập trung hoạt động theo nguyên tắc công bằng,
minh bạch, công khai thông tin, tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh dịch vụ
chứng khoán của tổ chức, cá nhận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
1.2 . Các chủ thể trên thị trường chứng khoán tập trung
Chủ thể phát hành: Chủ thể phát hành là các tổ chức thực hiện huy động
vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là Chính phủ, chính
quyền địa phương, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác như quỹ đầu tư, tổ
chức tài chính trung gian...
Chính phủ và chính quyền địa phương là chủ thể phát hành các loại chứng
khoán: trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, tín phiếu
kho bạc; nhằm huy động tiền bù đắp thâm hụt ngân sách, thực hiện những công
trình quốc gia lớn, hay để huy động tiền đầu tư cho các công trình hay chương
trình kinh tế, xã hội của địa phương.
Các công ty là chủ thể phát hành trái phiếu hay cổ phiếu công ty để huy
động vốn đầu tư phát triển sản xuất
Các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ hưởng thụ...phục vụ cho mục tiêu huy động vốn và phù hợp với
đặc thù hoạt động của họ theo Luật định [36, tr.24]
Nhà đầu tư: Chủ thể đầu tư là những tổ chức, cá nhân có tiền, thực hiện việc
mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận.
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán: là các định chế tài chính trung gian
làm nhiệm vụ thực hiện các giao dịch chứng khoán, là cầu nối giữa tổ chức phát
hành và nhà đầu tư, bao gồm công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại.
Công ty chứng khoán: Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là
bảo lãnh phát hành, tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu
tư chứng khoán.
Các ngân hàng thương mại: Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn
để đầu tư chứng khoán nhưng chỉ được trong giới hạn rất định và phải thành lập
công ty chuyên biệt kinh doanh chứng khoán để bảo vệ ngân hàng trước những biến
động của giá chứng khoán.10
Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán: bao gồm cơ quan quản
lý nhà nước, sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
Cơ quan quản lý nhà nước: Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức
năng quản lý, giám sát của nhà nước đối với thị trường chứng khoán. Cơ quan quản
lý, giám sát thị trường chứng khoán được hình thành dưới nhiều mô hình, hoạt động
khác nhau, có nước do các tổ chức tự quản thành lập, có nước cơ quan này trực
thuộc chính phủ, nhưng có nước lại kết hợp quản lý giữa các tổ chức tự quản và nhà
nước. Nhưng nhìn chung, cơ quan quản lý này do Chính phủ của các nước thành lập
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của người đầu tư và bảo đảm cho thị trường chứng
khoán hoạt động lành mạnh, suôn sẻ và phát triển vững chắc. Cơ quan này có những
tên gọi khác nhau, tuỳ từng nước. Tại Trung Quốc có Cơ quan Giám quản chứng
khoán của Quốc vụ viện Trung Quốc [53]. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán
(SIB- Securities Investment Board). Ủy ban này là một tổ chức được thừa nhận
trong đạo luật về các dịch vụ tài chính ban hành năm 1986. Tại Mỹ, Uỷ ban chứng
khoán và Giao dịch chứng khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) là
một cơ quan của liên bang có tư cách pháp lý thực hiện việc kiểm soát thị trường
chứng khoán. Ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng
khoán (ESC - Exchange Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992 và
đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency, có chức năng cơ
bản là tiến hành điều tra và xử lý các giao dịch gian lận trên thị trường chứng
khoán, do Bộ tài chính Nhật Bản đảm nhiệm. Tại Hàn Quốc có Ủy ban chứng
khoán và giao dịch chứng khoán (ESC-Securities and Exchange Commission) và
Ban Giám sát chứng khoán (SSB – Securities Supervise Board) được đặt dưới sự
giám sát của Bộ Kinh tế- Tài chính. Và ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà
nước được thành lập theo Nghị định số 75/CP ngày 28/11/1996.
Sở giao dịch chứng khoán: Sở giao dịch chứng khoán thực hiện việc vận
hành thị trường thông qua bộ máy tổ chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục
vụ các hoạt động trên sở giao dịch. Ngoài ra Sở cũng ban hành những quy định điều
chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên sở, phù hợp các quy định của luật
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
pháp và Ủy ban chứng khoán. Xét về hình thức sở hữu, hiện nay trên thế giới sở
giao dịch chứng khoán có thể có các hình thức sở hữu sau đây: Hình thức sở hữu
nhà nước (ví dụ:Sở giao dịch chứng khoán Warsaw, Istanbul..), hình thức sở hữu cổ
phần, có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên, ngân hàng thương mại, công
ty bảo hiểm và các tổ chức khác (ví dụ: Sở giao dịch chứng khoán Australia), hình
thức sở hữu thành viên, do thành viên là các công ty chứng khoán sở hữu (ví dụ: Sở
giao dịch chứng khoán Hàn Quốc, New York, Tokyo, Thái Lan,..) [35, tr.128].
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán: Hiệp hội các nhà kinh doanh
chứng khoán là tổ chức của các công ty chứng khoán và một số thành viên khác
hoạt động trong ngành chứng khoán, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích
cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung.
Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau: khuyến khích hoạt động đầu tư và
kinh doanh chứng khoán; ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở
các quy định pháp luật về chứng khoán; điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các
thành viên; tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.
Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán: tổ chức lưu ký và thanh
toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp
vụ thanh toán bù trừ.
1.3 . Khái niệm, phân loại nhà đầu tư chứng khoán
1.3.1. Khái niệm nhà đầu tư chứng khoán
Hiểu một cách chung nhất, nhà đầu tư chứng khoán là những cá nhân, tổ
chức, bỏ vốn để sở hữu chứng khoán vì mục đích kiếm lời. Lợi nhuận kỳ vọng của
nhà đầu tư có hai dạng:
Một là, nhà đầu tư có được lợi tức do chứng khoán mang lại. Khoản tiền này
do tổ chức phát hành chứng khoán chi trả dưới dạng cổ tức hay lãi trái phiếu;
Hai là, nhà đầu tư có thể có được thu nhập từ chênh lệch mua đi, bán lại
chứng khoán trên thị trường.
Khác với các chủ thể tham gia mua bán hàng hóa ở các thị trường hàng hóa
thông thường, nhà đầu tư trên TTCKTT vừa đóng vai trò là người mua vừa là người12
bán các loại chứng khoán trên thị trường. Trên TTCKTT nhà đầu tư mua các loại
chứng khoán không nhằm mục đích tiêu thụ hay sử dụng các loại chứng khoán mà
họ mua về mà nhằm đầu tư thực hiện việc mua đi, bán lại các loại chứng khoán giao
dịch trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời từ việc mua bán của mình.
Định nghĩa về nhà đầu tư chứng khoán trong quy định của pháp luật Việt
Nam cũng có những sự khác nhau nhất định. Về khái niệm nhà đầu tư nói chung,
Điều 3.4, Luật đầu tư cũng qui định “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt
động đầu tư…” theo đó có “bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hay vô hình để
hình thành tài sản…” [28, Điều 3, Khoản 4]. Về khái niệm nhà đầu tư chứng khoán
cũng được nhắc đến trong các văn bản pháp luật về chứng khoán, tại nghị định
48/1998/NĐ-CP quy định “Người đầu tư là người sở hữu chứng khoán, người mua
hay dự kiến mua chứng khoán” [13, Điều 2, Khoản 22]. Theo khái niệm này thì
nhà đầu tư chứng khoán có thể bao gồm những người đã mua chứng khoán, và đang
nắm giữ chúng hay những người có ý định mua chúng. Nghị định 144/2003/NĐ-
CP không đưa ra định nghĩa về nhà đầu tư [14]. Đến luật Chứng khoán 2006 có đưa
ra khái niệm nhà đầu tư chứng khoán như sau “Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt
nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán”
[29, Điều 6, Khoản 10]. Với quy định như trên khái niệm nhà đầu tư trên TTCK
Việt nam đã được mở rộng và có nội dung đầy đủ hơn. Theo quy định của Luật
chứng khoán nhà đầu tư trên TTCK Việt nam bao gồm cả tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước có sở hữu tham gia mua bán các loại chứng khoán trên TTCK Việt nam.
Với quy định này, Luật chứng khoán đã quy định đầy đủ hơn về các đối tượng được
phép mua bán chứng khoán trên TTCK Việt nam. Các tổ chức, cá nhân mua bán
chứng khoán ở đây không còn đơn giản là các cá nhân, các tổ chức đơn thuần mà nó
còn được hiểu là các công ty quản lý quỹ, các công ty đầu tư, các quỹ đầu tư...
Nhưng đây chỉ là một khái niệm chung chung, mới chỉ ra được các đối tượng có thể
trở thành nhà đầu tư mà chưa chỉ ra được bản chất thực sự của một nhà đầu tư. Còn
trong cuốn sách Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường
chứng khoán của Ủy ban chứng khoán nhà nước, có đưa ra một khái niệm nhà đầu
tư chứng khoán như sau “Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứ
Vì vậy, giải pháp hiện nay để giúp nhà đầu tư không chuyên, là khẩn trương
xây dựng và hoàn thiện Nghị định về thành lập doanh nghiệp định mức tín nhiệm,
để giúp cho nhà đầu tư nói chung, nhà đầu tư không chuyên nghiệp nói riêng có
thêm một công cụ hiệu quả trong việc đánh giá đầu tư, để có quyết định đầu tư đúng
đắn trước trái phiếu các công ty niêm yết tại Sở Giao dịch. Chúng ta có thể tham
khảo mô hình CRA của một số nước trên thế giới, để xây dựng mô hình CRA cho
phù hợp với hoàn cảnh của đất nước hình [Xem phụ lục 8]118
KẾT LUẬN
Báo cáo về môi trường kinh doanh toàn cầu của Công ty Tài chính Quốc tế
(IFC) năm 2013 đánh giá Việt Nam ở vị trí thứ 157 về bảo vệ nhà đầu tư. Kết quả
này, tuy có cải thiện 12 bậc so với năm 2012 (vị trí 169), nhưng vẫn thuộc hàng
“đội sổ” trên bản đồ thế giới. Như vậy, mặc dù đã rất nỗ lực trong việc cải thiện môi
trường đầu tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật, minh bạch và giảm thiểu các thủ tục
hành chính, nhưng kết quả vẫn chưa được như chúng ta mong đợi. Bảo vệ nhà đầu
tư là bảo vệ thị trường. Đây là một nguyên tắc đơn giản trên lý thuyết. Nhưng để
thực hiện được trên thực tế quả là còn nhiều khó khăn.
Nhà đầu tư không chuyên với những đặc điểm của mình, luôn ở vị thế yếu hơn
các nhà đầu tư chuyên nghiệp, quyền lợi của họ càng dễ bị xâm hại hơn, đây là đối
tượng chiếm số lượng phần lớn trên TTCK và cũng là đối tượng cần được bảo vệ
nhất. Nhà nước đặt ra các quy định của pháp luật, bảo vệ chủ thể này bằng cách công
nhận các quyền tham gia thị trường, quyền được cung cấp thông tin về thị trường,
quyền được bảo vệ quyền sở hữu đối với tài sản đầu tư của họ, thực hiện việc thanh
tra kiểm tra và xử lý vi phạm khi có các hành vi xâm phạm quyền lợi của họ.
Việc tạo điều kiện thuận lợi để nhà đầu tư không chuyên nghiệp thực hiện
các quyền này, cũng như là nâng cao các biện pháp thanh tra, xử lý vi phạm để bảo
vệ tối đa các quyền này của nhà đầu tư là yêu cầu bắt buộc đối với hệ thống pháp
luật về chứng khoán và TTCK, nhằm tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, một
kênh huy động vốn dồi dào tạo động lực phát triển cho nền kinh tế. Luận văn này
với việc phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về TTCK trong việc bảo vệ
nhà đầu tư nghiệp dư, đưa ra và phân tích một số khía cạnh thực tế trong hoạt động
kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, tác giả
luận văn còn mong muốn đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật để bảo vệ nhóm nhà đầu tư này, nhằm mục đích tăng tính
khả thi và phát huy được tối đa hiệu quả củ
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: ĐỀ TÀI: PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NHÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN Chương 2: Thực trạng, nguyên nhân vi phạm quyền lợi nhà đầu tư chứng khoán và kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư chứng khoán 2.1. Thực trạng, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán việt nam, Bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán tập trung theo quy định của pháp luật chứng khoán ở Việt Nam, tại sao quỹ bảo vệ nhà đầu tư vẫn chưa được thành lập, bất cập trong pháp luật về giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư
Last edited by a moderator: