Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Luận văn ThS. Chủ nghĩa xã hội khoa học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010
Hệ thống hóa, khái quát hóa những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ trong gia đình. Đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam. Đề xuất các phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm tiến tới bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XXI với những tiến bộ vượt bậc về khoa học, kỹ thuật và công
nghệ mà đặc điểm nổi bật là tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và
sự toàn cầu hóa về kinh tế, đang kéo theo nhiều biến đổi quan trọng trọng đời
sống xã hội, sinh hoạt văn hóa và tinh thần. Con người được giải phóng và vai
trò cá thể được đề cao. Tuy nhiên, vấn đề bình đẳng nam nữ một cách toàn
diện, đầy đủ vẫn là lý tưởng mà nhân loại đã, đang và sẽ theo đuổi.
Dù thế giới đã có nhiều biến đổi to lớn; song, vấn đề bình đẳng giới vẫn
chưa thực sự diễn ra như mong muốn của chúng ta. Ngay ở những nước phát
triển dù đời sống cao, trình độ học vấn cao, nhận thức vấn đề nhạy bén, tư duy
thoáng đạt nhưng sự bất bình đẳng giữa nam và nữ vẫn còn tồn tại. Ở những
nước chậm, kém phát triển do điều kiện kinh tế khó khăn; trình độ học vấn
thấp; tư duy cổ hủ, trì trệ; phong tục tập quán, thói quen lạc hậu còn tồn tại
nhiều, cho nên tình trạng bất bình đẳng giới diễn ra khá phổ biến, thường
xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi, mọi thành phần trong xã hội. Sự bất bình
đẳng nam nữ đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của kinh tế thế giới
nói chung, đặc biệt là sự phát triển của các nước chậm, kém phát triển nói
riêng, như nền kinh tế càng ngày càng tụt hậu xa hơn so với các nước khác,
chất lượng cuộc sống thấp, đời sống người dân khổ cực, bệnh tật, đói
cùng kiệt gia tăng; phụ nữ, trẻ em không được quan tâm đúng mức nên tỷ lệ tử
vong cao... Do đó, đấu tranh vì bình đẳng giới đã và đang trở thành một
phong trào rộng khắp trên phạm vi thế giới cả về phương diện lý thuyết và
phương diện thực tiễn.
Việt Nam vốn đi lên từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ, manh
mún đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập với nền
kinh tế thế giới. Để hội nhập kinh tế đòi hỏi phải phát huy mọi nguồn lực
trong xã hội, đặc biệt là người phụ nữ - nguồn lực vốn chưa được chú ý nhiều
từ trước tới nay. Ở Việt Nam phụ nữ chiếm hơn nửa dân số cả nước cho nên
nguồn lực này tương đối dồi dào; nếu được sử dụng đúng mục đích, đúng khả
năng nguồn nhân lực này thì sẽ tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ cho đất
nước. Người phụ nữ Việt Nam trong gia đình luôn là người vợ đảm đang,
người mẹ hiền tảo tần, hết lòng chăm sóc, e sợ cho chồng con, gia đình của
mình. Ngoài xã hội họ lại là những người lao động hăng say, tạo ra nhiều của
cải vật chất và tinh thần hữu ích.
Trước đây, những cống hiến lớn lao của phụ nữ chưa được xã hội, gia
đình thừa nhận một cách thỏa đáng. Họ chịu nhiều thiệt thòi, bị đối xử bất
công. Hiện nay, do điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, nhận thức của con
người đã cao hơn, tư duy đã đổi mới, cho nên việc công nhận, tạo điều kiện
cho khả năng, trình độ của người phụ nữ Việt Nam có cơ hội phát huy vai trò
của mình đã tiến bộ đáng kể. Ngày nay có nhiều phụ nữ hạnh phúc trong cuộc
sống gia đình và thành đạt trong sự nghiệp. Họ giữ cương vị cao trong các cơ
quan, bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương, trong các doanh nghiệp
lớn, nhỏ khắp cả nước. Mặc dù vậy, trong thực tế sự bất bình đẳng giới giữa
nam và nữ vẫn đang diễn ra trong xã hội Việt Nam và có xu hướng gia tăng.
Nhiều người phụ nữ còn phải chịu thiệt thòi ngay chính trong gia đình của
mình. Sự thiệt thòi ấy thể hiện rõ trong lĩnh vực kinh tế, phân công lao động,
giáo dục và đào tạo, việc chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là ở vấn đề bạo lực gia
đình. Chính vì vậy, cần thúc đẩy quá trình bình đẳng giữa nam và nữ
trong gia đình để nâng cao vị thế, vai trò của người phụ nữ trong gia đình nói
riêng và ngoài xã hội nói chung. Thực hiện bình đẳng nam nữ (hay còn gọi là
bình đẳng giới) là vấn đề mang tính cấp bách và lâu dài. Việc làm này sẽ góp
phần tạo ra sự phát triển toàn diện cho đất nước về mọi mặt như kinh tế, văn
hóa, chính trị, xã hội... góp phần giải phóng và phát triển người phụ nữ, để
phụ nữ làm tốt hơn vai trò người vợ, người mẹ, người công dân. Với lý do đó,
chúng tui đã quyết định chọn đề tài: “Bình đẳng giới trong gia đình ở Việt
Nam” cho luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải phóng phụ nữ, về bình
đẳng nam – nữ đã du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Luận cƣơng chính
trị của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930 là văn bản chính trị đầu tiên ở
nước ta nêu rõ mục tiêu đấu tranh cho sự bình đẳng nam – nữ và nâng cao vị thế
của phụ nữ. Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) và những Hiến pháp sửa đổi sau này
(1959, 1980, 1992) đều khẳng định phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới về
mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
Hiện nay ở nước ta đã hình thành khoảng hơn 10 cơ sở nghiên cứu và
giảng dạy về giới. Đó là các trung tâm nghiên cứu, khoa, bộ môn thuộc Chính
phủ và phi chính phủ như:
- Viện Gia đình và giới thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
- Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ, Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ
Chí Minh.
- Khoa Xã hội học - Đại học Mở bán công thành phố Hồ Chí Minh.
- Bộ môn Nghiên cứu giới thuộc Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Ban Lý luận dân tộc và Giới thuộc Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh...
Ngoài ra một số viện nghiên cứu, trường đại học, một số bộ cũng có các
chương trình nghiên cứu có liên quan đến giới như: Viện Nghiên cứu thanh
niên, Viện Xã hội học, Trung tâm Tư vấn và Phát triển, Chương trình Việt
Nam – Hà Lan thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Ủy ban quốc
gia về dân số, Bộ Y tế, Ủy ban phòng chống AIDS quốc gia, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và đào tạo, Ủy ban bảo vệ trẻ em, Bộ
Tư pháp... Các cơ quan, chương trình nghiên cứu này đã không chỉ cuốn hút
phụ nữ mà còn có cả nam giới, không chỉ các nhà khoa học trong nước mà
còn cả các nhà khoa học nước ngoài tham gia.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Luận văn ThS. Chủ nghĩa xã hội khoa học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010
Hệ thống hóa, khái quát hóa những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ trong gia đình. Đánh giá thực trạng bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam. Đề xuất các phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm tiến tới bình đẳng giới trong gia đình ở Việt Nam
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế kỷ XXI với những tiến bộ vượt bậc về khoa học, kỹ thuật và công
nghệ mà đặc điểm nổi bật là tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và
sự toàn cầu hóa về kinh tế, đang kéo theo nhiều biến đổi quan trọng trọng đời
sống xã hội, sinh hoạt văn hóa và tinh thần. Con người được giải phóng và vai
trò cá thể được đề cao. Tuy nhiên, vấn đề bình đẳng nam nữ một cách toàn
diện, đầy đủ vẫn là lý tưởng mà nhân loại đã, đang và sẽ theo đuổi.
Dù thế giới đã có nhiều biến đổi to lớn; song, vấn đề bình đẳng giới vẫn
chưa thực sự diễn ra như mong muốn của chúng ta. Ngay ở những nước phát
triển dù đời sống cao, trình độ học vấn cao, nhận thức vấn đề nhạy bén, tư duy
thoáng đạt nhưng sự bất bình đẳng giữa nam và nữ vẫn còn tồn tại. Ở những
nước chậm, kém phát triển do điều kiện kinh tế khó khăn; trình độ học vấn
thấp; tư duy cổ hủ, trì trệ; phong tục tập quán, thói quen lạc hậu còn tồn tại
nhiều, cho nên tình trạng bất bình đẳng giới diễn ra khá phổ biến, thường
xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi, mọi thành phần trong xã hội. Sự bất bình
đẳng nam nữ đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của kinh tế thế giới
nói chung, đặc biệt là sự phát triển của các nước chậm, kém phát triển nói
riêng, như nền kinh tế càng ngày càng tụt hậu xa hơn so với các nước khác,
chất lượng cuộc sống thấp, đời sống người dân khổ cực, bệnh tật, đói
cùng kiệt gia tăng; phụ nữ, trẻ em không được quan tâm đúng mức nên tỷ lệ tử
vong cao... Do đó, đấu tranh vì bình đẳng giới đã và đang trở thành một
phong trào rộng khắp trên phạm vi thế giới cả về phương diện lý thuyết và
phương diện thực tiễn.
Việt Nam vốn đi lên từ một nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ lẻ, manh
mún đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập với nền
kinh tế thế giới. Để hội nhập kinh tế đòi hỏi phải phát huy mọi nguồn lực
trong xã hội, đặc biệt là người phụ nữ - nguồn lực vốn chưa được chú ý nhiều
từ trước tới nay. Ở Việt Nam phụ nữ chiếm hơn nửa dân số cả nước cho nên
nguồn lực này tương đối dồi dào; nếu được sử dụng đúng mục đích, đúng khả
năng nguồn nhân lực này thì sẽ tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ cho đất
nước. Người phụ nữ Việt Nam trong gia đình luôn là người vợ đảm đang,
người mẹ hiền tảo tần, hết lòng chăm sóc, e sợ cho chồng con, gia đình của
mình. Ngoài xã hội họ lại là những người lao động hăng say, tạo ra nhiều của
cải vật chất và tinh thần hữu ích.
Trước đây, những cống hiến lớn lao của phụ nữ chưa được xã hội, gia
đình thừa nhận một cách thỏa đáng. Họ chịu nhiều thiệt thòi, bị đối xử bất
công. Hiện nay, do điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, nhận thức của con
người đã cao hơn, tư duy đã đổi mới, cho nên việc công nhận, tạo điều kiện
cho khả năng, trình độ của người phụ nữ Việt Nam có cơ hội phát huy vai trò
của mình đã tiến bộ đáng kể. Ngày nay có nhiều phụ nữ hạnh phúc trong cuộc
sống gia đình và thành đạt trong sự nghiệp. Họ giữ cương vị cao trong các cơ
quan, bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương, trong các doanh nghiệp
lớn, nhỏ khắp cả nước. Mặc dù vậy, trong thực tế sự bất bình đẳng giới giữa
nam và nữ vẫn đang diễn ra trong xã hội Việt Nam và có xu hướng gia tăng.
Nhiều người phụ nữ còn phải chịu thiệt thòi ngay chính trong gia đình của
mình. Sự thiệt thòi ấy thể hiện rõ trong lĩnh vực kinh tế, phân công lao động,
giáo dục và đào tạo, việc chăm sóc sức khỏe, đặc biệt là ở vấn đề bạo lực gia
đình. Chính vì vậy, cần thúc đẩy quá trình bình đẳng giữa nam và nữ
trong gia đình để nâng cao vị thế, vai trò của người phụ nữ trong gia đình nói
riêng và ngoài xã hội nói chung. Thực hiện bình đẳng nam nữ (hay còn gọi là
bình đẳng giới) là vấn đề mang tính cấp bách và lâu dài. Việc làm này sẽ góp
phần tạo ra sự phát triển toàn diện cho đất nước về mọi mặt như kinh tế, văn
hóa, chính trị, xã hội... góp phần giải phóng và phát triển người phụ nữ, để
phụ nữ làm tốt hơn vai trò người vợ, người mẹ, người công dân. Với lý do đó,
chúng tui đã quyết định chọn đề tài: “Bình đẳng giới trong gia đình ở Việt
Nam” cho luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải phóng phụ nữ, về bình
đẳng nam – nữ đã du nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Luận cƣơng chính
trị của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930 là văn bản chính trị đầu tiên ở
nước ta nêu rõ mục tiêu đấu tranh cho sự bình đẳng nam – nữ và nâng cao vị thế
của phụ nữ. Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) và những Hiến pháp sửa đổi sau này
(1959, 1980, 1992) đều khẳng định phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới về
mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
Hiện nay ở nước ta đã hình thành khoảng hơn 10 cơ sở nghiên cứu và
giảng dạy về giới. Đó là các trung tâm nghiên cứu, khoa, bộ môn thuộc Chính
phủ và phi chính phủ như:
- Viện Gia đình và giới thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
- Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ, Viện Khoa học Xã hội tại thành phố Hồ
Chí Minh.
- Khoa Xã hội học - Đại học Mở bán công thành phố Hồ Chí Minh.
- Bộ môn Nghiên cứu giới thuộc Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
- Ban Lý luận dân tộc và Giới thuộc Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh...
Ngoài ra một số viện nghiên cứu, trường đại học, một số bộ cũng có các
chương trình nghiên cứu có liên quan đến giới như: Viện Nghiên cứu thanh
niên, Viện Xã hội học, Trung tâm Tư vấn và Phát triển, Chương trình Việt
Nam – Hà Lan thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Ủy ban quốc
gia về dân số, Bộ Y tế, Ủy ban phòng chống AIDS quốc gia, Bộ Lao động,
Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và đào tạo, Ủy ban bảo vệ trẻ em, Bộ
Tư pháp... Các cơ quan, chương trình nghiên cứu này đã không chỉ cuốn hút
phụ nữ mà còn có cả nam giới, không chỉ các nhà khoa học trong nước mà
còn cả các nhà khoa học nước ngoài tham gia.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links