tahaigiang

New Member
Luận văn luật: Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức Thương mại Thế giới : Luận văn ThS Luật: 5.05.12
Nhà xuất bản: Khoa Luật
Ngày: 2005
Chủ đề: Cơ chế giải quyết tranh chấp
Luật Quốc tế
Nước đang phát triển
Tổ chức thương mại thế giới
Miêu tả: 117 tr. + Đĩa mềm, tóm tắt
Hệ thống hoá những nguyên tắc, quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Phân tích thực trạng một số tranh chấp của các nước đang phát triển được giải quyết theo cơ chế của WTO trong thời gian vừa qua. Từ đó đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển theo cơ chế của WTO và rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam
Luận văn ThS Luật quốc tế -- Khoa Luật. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN.……...…………………………………………………..……………… i
LỜI CẢM ƠN.……….....…………………………………………………..……………… ii
MỤC LỤC…………………………………………………………………………….…… iii
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT………………………...……………………… v
DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ……………………………………………………… vi
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………… 1
CHƯƠNG 1 CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
4
1.1. KHÁI NIỆM CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
……………………………………………………...
4
1.1.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
…………………
4
1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Hiệp định chung về Thuế
quan và thương mại…………………………………………………….……… 8
1.1.3. Những hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT và
sự cần thiết ra đời một cơ chế giải quyết tranh chấp thiết thực và hữu
hiệu - cơ chế của WTO………………………………………………………… 16
1.2. CƠ QUAN VÀ NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ
CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ
GIỚI……………………………………………….
20
1.2.1. Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO………………………..……. 20
1.2.2. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp của
WTO…….……………..…
28
1.3. THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI
THẾ GIỚI …………………..…………………………………………………… 30
1.3.1. Giai đoạn tham vấn và hoà
giải……………………….……………….
30
1.3.2. Giai đoạn giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm
…………………
34
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiiii
1.3.3. Giai đoạn kháng cáo, phúc thẩm……………….…………………….. 40
1.3.4. Giai đoạn thi hành phán quyết và khuyến nghị……………….…… 42
CHƯƠNG 2 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA CÁC NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN THEO CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI 49
2.1. VỊ TRÍ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG
WTO…………….
49
2.2. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
THEO CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG
MẠI THẾ GIỚI……………….…………………………………………………. 54
2.3. MỘT SỐ VỤ TRANH CHẤP CỤ THỂ CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN ĐƯỢC GIẢI QUYẾT THEO CƠ CHẾ CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG
MẠI THẾ GIỚI …………………………………………………………………... 66
CHƯƠNG 3 ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ
CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT
TRIỂN -
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM
86
3.1. ĐÁNH GIÁ CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC
THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN…. 86
3.1.1. Ưu điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO……………...
87
3.1.2. Hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO………………... 92
3.2. KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM ……………….…………………………. 98
3.2.1. Xác định rõ cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO…. 98
3.2.2. Điều chỉnh chính sách, pháp luật kinh tế - thương mại cho phù
hợp với các quy định của WTO……………….……………………………… 102
3.2.3. Nghiên cứu, vận dụng thành công những ưu đãi của WTO dành
cho các nước đang phát triển……………….………………………………... 103
3.2.4. Chuẩn bị tốt về luật sư, tài liệu, tài chính và tâm lý khi theo
kiện
104
3.2.5. Tuyên truyền ý thức pháp luật thương mại quốc tế cho các
doanh nghiệp và công chúng để hạn chế xảy ra tranh chấp……………. 107iii
3.2.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước 109
3.2.7. Thực hiện tốt các cam kết quốc tế……………….…………………… 110
3.2.8. Đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi để tham gia quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế……………….…………………………………………………... 111
KẾT LUẬN……………….………………………………………………………………... 113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……….………………………………………… 116
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơ chế giải quyết tranh chấp của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được
coi là một định chế có đặc thù và là điểm nổi bật của hệ thống thương mại toàn cầu.
Cơ chế đó không chỉ đơn thuần giải quyết êm thấm các tranh chấp mà nó cũng là
công cụ bảo đảm sự tin cậy về mặt pháp lý đối với các cam kết của các chính phủ.
Nếu một nước vi phạm những quy định của WTO, nước đó có thể phải đối mặt rất
nhiều những trừng phạt thương mại.
Về mặt lý thuyết, bất kể nước thành viên nào cũng có thể đưa các tranh chấp
ra WTO để giải quyết nhưng trên thực tế, cơ chế này chủ yếu có lợi cho các nước
giàu. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO cho phép các bạn hàng đơn phương
trừng phạt các nước vi phạm. Đây chính là cơ hội để các cường quốc thương mại
thể hiện sức mạnh của mình. Mỹ, EU hay Nhật Bản có thể không sợ nếu một nước
nhỏ ở Thế giới thứ ba đe doạ trừng phạt họ, nhưng các nước đang phát triển có thể
sẽ bị mất nhiều nếu bị các cường quốc thương mại cấm vận.
Tuy nhiên, trên thực tế, một số nước đang phát triển đã thành công trong việc
thách thức các nước lớn (thí dụ điển hình là vụ Costa Rica kiện Mỹ về quy chế hạn
chế nhập khẩu hàng dệt cotton và vụ Venezuela và Brazil kiện Mỹ về quy định xăng
dầu, Argentina kiện Mỹ về các biện pháp chống bán phá giá ống dẫn dầu).
Các nước đang phát triển cũng tích cực nhờ tới cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO để giải quyết các tranh chấp thương mại giữa họ với nhau và giải thích
quy phạm của WTO. Ví dụ, các vụ kiện giữa Brazil và Philippines (về quy chế nhập
khẩu dừa khô); Guatemala và Mexico (chống bán phá giá đối với xi-măng); Ấn Độ
và Thổ Nhĩ Kỳ (hàng dệt may); Indonesia và Argentina (quy chế phòng vệ thương
may đối với hàng giày dép); Argentina và Chile (các biện pháp phòng vệ liên quan
đến sản phẩm nông nghiệp)…
Việt Nam là một nước đang phát triển và đang chủ động hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế và nỗ lực đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)2
vào cuối năm 2005. Để gia nhập WTO, Việt Nam phải nghiên cứu cơ cấu tổ chức,
chức năng của tổ chức này, các hiệp định đa phương của WTO, những quyền lợi,
nghĩa vụ, những ưu đãi mà Việt Nam phải gánh vác và được hưởng. Hơn thế nữa,
Việt Nam phải tìm hiểu kỹ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để vận dụng
nhằm giải quyết các tranh chấp khi nước ta trở thành viên của tổ chức này, đồng
thời cũng chứng minh xem cơ chế giải quyết tranh chấp này có hiệu quả không, có
đảm bảo khôi phục được quyền lợi của nước bị vi phạm hay không? Từ đó xem xét
có nên đưa các tranh chấp ra giải quyết theo cơ chế của WTO hay không và cần
phải làm gì khi tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp đó. Chính vì vậy, tác
giả đã chọn đề tài: “Các nước đang phát triển với cơ chế giải quyết tranh chấp
của tổ chức thương mại thế giới” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đánh thực trạng giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, từ đó rút ra bài học đối với Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau đây:
- Hệ thống hóa những nguyên tắc, quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
- Phân tích thực trạng một số tranh chấp của các nước đang phát triển được
giải quyết theo cơ chế của WTO trong thời gian vừa qua.
- Đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển theo
cơ chế của WTO, từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài đặt ra đối tượng nghiên cứu là những nguyên tắc, quy trình, thủ tục
giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là giới hạn trong việc phân tích, đánh giá
thực trạng giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực thương mại hàng hoá giữa các nước
đang phát triển với các nước phát triển và giữa các nước đang phát triển với nhau
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi3
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO thông qua một số vụ tranh chấp đã được
giải quyết.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp với phương pháp tổng
hợp, phân tích, đánh giá, so sánh và quy nạp.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học sau đây:
- Hệ thống hóa những nguyên tắc, quy trình, thủ tục giải quyết tranh chấp
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO.
- Đánh giá thực trạng một số tranh chấp của các nước đang phát triển được
giải quyết theo cơ chế của WTO trong thời gian vừa qua.
- Rút ra kinh nghiệm với Việt Nam trong quá trình gia nhập và trở thành
thành viên của WTO .
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế giới
Chƣơng 2: Tình hình giải quyết tranh chấp của các nước đang phát triển
theo cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức thương mại thế
giới
Chƣơng 3: Đánh giá cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức Thương
mại thế giới đối với các nước đang phát triển - kinh nghiệm
đối với Việt Nam4
CHƢƠNG 1
CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG
MẠI THẾ GIỚI
1.1. KHÁI NIỆM CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CỦA TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI
THẾ GIỚI
1.1.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại quốc tế
1.1.1.1. Tranh chấp thương mại quốc tế
Tranh chấp theo giải thích trong nhiều từ điển được hiểu là sự giành giật,
giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào, là "bất đồng, trái ngược nhau".
Thông thường khi nói đến tranh chấp, người ta hay liên tưởng đến mâu
thuẫn, bất đồng hay xung đột giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật. Nguyên nhân
cụ thể của tranh chấp có nhiều và đa dạng, phong phú như bản thân các quan hệ xã
hội của con người vậy. Tuy nhiên, nguồn gốc của hầu hết mọi tranh chấp đều có thể
được nhìn nhận dưới góc độ kinh tế. Nói cách khác, đa số các tranh chấp phát sinh
đều có mối liên hệ chặt chẽ tới lợi ích kinh tế.
Trong từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thuộc Viện khoa học Xã hội
Việt Nam xuất bản năm 1992, giải thích rõ ở điểm 2 của nghĩa từ tranh chấp là: đấu
tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin về quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập, thì bất kỳ một hiện tượng xã hội nào cũng có mâu thuẫn
tiềm ẩn. Do đó, tranh chấp là một hiện tượng khách quan và sự tồn tại của nó có
tính chất tất yếu trong mọi xã hội vốn không ngừng vận động phát triển. Cũng với
sự vận động của xã hội loài người, các tranh chấp cũng phát sinh ngày càng nhiều
hơn, đa dạng hơn, ở mọi nơi, mọi lúc, dưới mọi hình thức và trong mọi lĩnh vực.
Theo tác giả luận văn, có thể hiểu: tranh chấp là sự bất đồng về quyền lợi,
lợi ích, quan điểm mà trong đó yêu cầu hay đòi hỏi của một bên bị bên kia từ chối
hay khiếu kiện lại.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi5
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các tranh chấp không chỉ
dừng lại trong phạm vi một quốc gia, mà xuất hiện ngày càng nhiều các tranh chấp
ở phạm vi quốc tế.
Theo giáo trình luật quốc tế Ấn Độ do tiến sĩ S.K.Kapoor chủ biên tái bản
năm 1994 thì khái niệm tranh chấp quốc tế được nêu rõ [26,724]:
- Thứ nhất, là sự tranh chấp giữa các quốc gia. Trường hợp có hành vi sai trái
với một dân tộc hay với một quốc gia nào đó nhưng nếu chính phủ của quốc gia đó
không có hành vi phản ứng lại thì cũng không được coi đó là tranh chấp quốc tế.
- Thứ hai, tranh chấp phải xảy ra những hành vi cụ thể từ phía quốc gia gây sự.
- Thứ ba, sự tranh chấp phải liên quan đến các đối tượng tranh chấp cụ thể
của quốc gia bị hại.
Giáo trình về công pháp quốc tế của Mỹ xuất bản năm 1900 nêu rõ: Việc giải
quyết các tranh chấp quốc tế là việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia.
Trong thực tiễn, “tranh chấp quốc tế” được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. Theo nghĩa rộng tranh chấp quốc tế bao hàm không chỉ tranh chấp mà cả các
tình thế (trạng thái) xung đột giữa các chủ thể của luật quốc tế, mà chủ yếu là các
quốc gia; theo nghĩa hẹp thì tranh chấp quốc tế chỉ bao gồm các quan hệ xung đột
giữa các chủ thể của luật quốc tế được biểu hiện qua các bên tham gia cụ thể đối với
các đối tượng tranh chấp nhất định.
Theo Hiến chương Liên hợp quốc có hai loại tranh chấp quốc tế là: các tranh
chấp có thể đe doạ hoà bình và an ninh thế giới; và các tranh chấp khác. Tất cả các
tranh chấp đều có thể dẫn đến chiến tranh, đe dọa đến hoà bình và an ninh thế giới.
Tuy nhiên trên thực tế cho thấy các tranh chấp về biên giới lãnh thổ là loại tranh
chấp có nguy cơ đe dọa hoà bình và an ninh thế giới cao hơn. Trong khi đó, các
tranh chấp trong lĩnh vực thương mại quốc tế có ít nguy cơ gây ra chiến tranh hơn
và được xem là loại tranh chấp nằm ở nhóm thứ hai.
Như vậy, theo nhận xét ở trên, có thể kết luận tranh chấp thương mại quốc tế
là một loại tranh chấp quốc tế, phát sinh trên cơ sở xung đột về mặt quyền lợi hay
mâu thuẫn về lợi ích trong các quan hệ thương mại quốc tế.6
Chủ thể tham gia vào tranh chấp thương mại quốc tế có thể là thể nhân, pháp
nhân, các tổ chức liên chính phủ hay các quốc gia. Như vậy có thể phân chia tranh
chấp thương mại quốc tế thành 3 nhóm: thứ nhất là các tranh chấp giữa các chủ thể
của luật quốc tế (chủ yếu là các quốc gia); thứ hai là tranh chấp giữa chủ thể của luật
quốc tế với pháp nhân hay thể nhân; thứ ba là tranh chấp giữa các thể nhân và pháp
nhân với nhau. Luận văn này chỉ giới hạn ở việc xem xét tranh chấp giữa các quốc
gia thành viên của WTO (tức là tranh chấp thuộc nhóm thứ nhất) liên quan đến việc
thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo các hiệp định và thoả thuận của WTO. Điều này
cũng phù hợp với đặc điểm của WTO với tư cách là tổ chức quốc tế có các thành viên
là các quốc gia độc lập có chủ quyền, cùng nhau đàm phán, nhất trí thành lập, thông
qua hay ký các hiệp định của WTO.
Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, cũng như quá trình
toàn cầu hoá của nền kinh tế thế giới thì hoạt động của các công ty không chỉ còn
giới hạn trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, hình thành nên những công ty đa
quốc gia có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế của các nước. Bên cạnh đó, trong quá
trình này, các nước cũng muốn bảo hộ nền sản xuất trong nước, mà thực chất là các
công ty trong nước, để phát triển nền kinh tế của mình. Chính vì vậy, trên thực tế
khi xem xét về các tranh chấp thuộc nhóm thứ nhất, chúng ta có thể đi đến nhận xét
là mặc dù các Bên trong tranh chấp là các quốc gia, nhưng thực chất đó là các tranh
chấp giữa các pháp nhân với nhau.
Trong tranh chấp thương mại quốc tế, các bên có thể sử dụng rất nhiều biện
pháp khác nhau để giải quyết. Các biện pháp giải quyết tranh chấp trong Luật quốc
tế hiện đại đã được nêu rất rõ trong Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc đó là:
- Đàm phán trực tiếp, có các biện pháp hỗ trợ (môi giới, trung gian hoà giải).
- Giải quyết tranh chấp bằng các Uỷ ban điều tra và Uỷ ban hoà giải.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
- Giải quyết tranh chấp bằng toà án.
- Giải quyết tranh chấp tại các tổ chức quốc tế.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
Các biện pháp này có thể chia thành hai nhóm lớn:
Nhóm thứ nhất, gồm những biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua đàm
phán, thương lượng. Những biện pháp này chủ yếu do các bên tự thực hiện, có thể có
sự tham gia giúp đỡ của bên thứ ba không liên quan đến tranh chấp. Trong nhiều tài
liệu, các phương pháp giải quyết tranh chấp này còn được gọi là các biện pháp tuỳ
chọn.
Nhóm thứ hai, gồm những biện pháp giải quyết tranh chấp thông qua việc sử
dụng các cơ quan tư pháp. Việc giải quyết tranh chấp theo các biện pháp này phải
có sự tham gia của bên thứ ba. Những quyết định và phán xét của bên thứ ba có tính
chất bắt buộc đối với các bên trong tranh chấp.
1.1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế
Trong Đại từ điển Tiếng Việt (Nhà xuất bản Văn hoá thông tin xuất bản năm
1998) đã định nghĩa cơ chế là cách thức sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở
theo đó mà thực hiện và có đưa ví dụ: cơ chế thị trường, cơ chế điều chỉnh pháp
luật,…[15,368]. Có thể hiểu cơ chế là một cách, một hệ thống các yếu tố
làm cơ sở, đường hướng cho sự vận động của sự vật hay hiện tượng [10,58]. Nói
đến cơ chế của một sự vật hiện tượng nào đó, bao giờ cũng gồm hai mặt: bên ngoài
(thể hiện ở cách thức tổ chức nên nó) và bên trong (sự tổ chức và hoạt động ngay
trong nội tại của sự vật và hiện tượng). Nói cách khác, cơ chế là hệ thống các mối
quan hệ hữu cơ, liên quan đến cách thức tổ chức, hoạt động, cách thức tồn tại và
phát triển của sự vật, hiện tượng. Cơ chế là một quá trình, một hệ thống, là tổng thể
các yếu tố tạo nên sự hoạt động của sự vật, hiện tượng.
Trên cơ sở khái niệm cơ chế nói chung, chúng ta tìm hiểu khái niệm về cơ
chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Có thể nói cơ chế giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế là tổng hợp các yếu tố làm cơ sở, đường hướng cho việc
giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế. Khi nghiên cứu cơ chế giải quyết tranh
chấp thương mại quốc tế cần xem xét từ hai góc độ: mặt động của cơ chế (là những
trình tự, thủ tục, nguyên tắc để vận hành cơ chế); mặt tĩnh của cơ chế (là các
cách tác động vào hay còn gọi là các thiết chế, các cơ quan tham gia vào8
vận hành cơ chế đó theo những nguyên tắc, thủ tục, quy trình đã được luật định,
nhằm mục đích cuối cùng là khôi phục lại quyền và lợi ích bị vi phạm và trật tự xã
hội).
Như vậy, một tranh chấp phát sinh, dù đó là tranh chấp loại gì cũng cần được
giải quyết. Để giải quyết tranh chấp cần có cơ quan giải quyết tranh chấp (như toà án,
trọng tài chẳng hạn), các nguyên tắc giải quyết tranh chấp, phương pháp, cách thức
giải quyết tranh chấp (như thương lượng, hoà giải, phương pháp trọng tài...), các quy
trình, thủ tục giải quyết tranh chấp (như trình tự tiến hành, các giai đoạn giải quyết
tranh chấp...), các biện pháp bảo đảm thi hành quyết định về việc giải quyết tranh
chấp (như bản án, phán quyết). Tất cả những yếu tố này được thể chế hoá thành
những quy phạm pháp luật, căn cứ vào đó để tiến hành giải quyết tranh chấp.
Như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế là hệ thống các
cơ quan, các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật về phương pháp, quy trình, thủ
tục giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và bảo đảm thi hành quyết định của
cơ quan giải quyết tranh chấp.
Từ khái niệm trên, cơ chế giải quyết tranh chấp bao gồm các yếu tố cấu thành
sau:
- Các cơ quan giải quyết tranh chấp: Cơ quan giải quyết tranh chấp có thể
do Nhà nước thành lập ra, hay là do các bên tranh chấp thành lập ra để giải quyết
tranh chấp. Thiếu cơ quan giải quyết tranh chấp thì cơ chế giải quyết tranh chấp
không thể vận hành được.
- Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp: Đây là những quy tắc cơ bản, quan
trọng làm cơ sở, làm căn cứ cho việc thành lập cơ quan giải quyết tranh chấp và cho
việc ban hành các quy phạm pháp luật cụ thể điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp.
- Hệ thống các quy phạm pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp: Đó là
các quy định pháp luật về cách thức giải quyết tranh chấp, về quy trình, thủ tục tiến
hành giải quyết tranh chấp.
- Tổng thể các quy phạm pháp luật về đảm bảo thi hành quyết định giải
quyết tranh chấp: Đây là những quy định pháp luật về các biện pháp, cách thức đảm
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
bảo thi hành phán quyết, quyết định giải quyết tranh chấp do cơ quan giải quyết
tranh chấp đưa ra.
1.1.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp trong Hiệp định chung về Thuế quan và
Thƣơng mại
1.1.2.1. Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại - GATT
GATT là một trong những công cụ thương mại đa phương có quy mô lớn
đầu tiên trên thế giới, có các thành viên là các quốc gia và vùng lãnh thổ. Phạm vi
của GATT chỉ bao gồm các vấn đề liên quan đến thương mại hàng hoá, hướng tới
việc cắt giảm thuế quan đối với hoạt động thương mại quốc tế. GATT ra đời đã
đánh dấu một sự thay đổi lớn trong quan hệ kinh tế toàn cầu, thúc đẩy và đảm bảo
cho quá trình tự do hoá thương mại thế giới. Đồng thời GATT cũng đã tạo cơ sở
cho sự ra đời của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), một tổ chức quốc tế có quy
mô lớn về cơ cấu tổ chức và phạm vi điều chỉnh.
Năm 1944, trong khi cuộc Chiến tranh thế giới Thứ hai vẫn diễn ra ác liệt,
các phái đoàn của các quốc gia đồng minh cùng nhau họp tại Bretton Woods, New
Hampshire (Mỹ) để bàn bạc việc hình thành một hệ thống kinh tế quốc tế mới sau
khi chiến tranh kết thúc. Các cuộc họp này đã quyết định thành lập Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB). Cả hai tổ chức quốc tế này đều không có
chức năng giải quyết các vấn đề thương mại quốc tế.
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Mỹ chủ động thành lập một tổ chức
quốc tế quy định nội quy thương mại quốc tế (các hoạt động thương mại của Mỹ
vào thời điểm này chiếm một nửa giá trị thương mại thế giới). Đây là đề xuất thành
lập Tổ chức thương mại quốc tế (ITO) trực thuộc Liên hợp quốc. Một bản hiến
chương chi tiết được gọi là Hiến chương ITO được soạn thảo và đã được các nước
đàm phán sửa đổi qua các hội nghị quốc tế tổ chức luân phiên tại London, New
York, Geneva và Havana từ năm 1946 đến năm 1947. Dự thảo cuối cùng được hoàn
thiện tại La Havana (Cuba) có tên gọi là “Hiến chương La Havana”. Hiến chương
La Havana về việc thành lập ITO đã được 53 nước ký, chủ yếu là các quốc gia
giành được độc lập sau chiến tranh, trừ các nước Đức, Italia và Nhật Bản.10
Mặc dù Hiến chương ITO đã được nhất trí, nhưng việc phê chuẩn Hiến
chương này ở một số nước đã không thực hiện được. Phản ứng phát triển nhất là từ phía
Quốc hội Mỹ do sự chỉ trích trong nội bộ nước Mỹ, mặc dù Chính phủ Mỹ là một
trong các Chính phủ tham gia tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện Hiến
chương này. Vì vậy, việc một số quốc gia (trong đó có Mỹ) không phê chuẩn Hiến
chương này nên trên thực tế ITO không được thành lập.
Khi nhận thấy việc xây dựng Hiến chương ITO là không thể thành công, Mỹ
lại một lần nữa đặt ra kế hoạch đàm phán một Hiệp định tạm thời để làm cơ sở cho
các đàm phán về thuế quan và các nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế. Có 23
quốc gia tham gia cuộc đàm phán này, và kết quả là một hiệp định gọi là Hiệp định
chung về Thuế quan và Thương mại (gọi tắt là GATT) được hình thành vào năm
1947. Do vậy, GATT được coi như một Hiệp định tạm thời chỉ có hiệu lực cho đến
khi Hiến chương ITO được phê chuẩn. Tuy nhiên, Hiến chương ITO không bao giờ
trở thành hiện thực và GATT đã có hiệu lực cho đến tận cuối năm 1994. Trong
khoảng gần 50 năm, GATT vẫn được coi như là một Hiệp định "tạm thời".
Mục đích ngay từ ngày đầu của GATT là từng bước xoá bỏ các rào cản thuế
quan và phi thuế quan cho sự lưu chuyển của hàng hoá (những thoả thuận này chỉ
là tạm thời trong khi ITO chưa ra đời). Việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi
thuế quan của GATT được thực hiện thông qua lộ trình thoả thuận giữa các quốc
gia. GATT thiết lập nên các nghĩa vụ đa phương cho thương mại hàng hoá, bao gồm
đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia, tính công khai, chống phá giá và thuế đối
kháng, các biện pháp tự vệ,...
Không giống như phần lớn các hiệp định có hiệu lực pháp lý bắt buộc khác,
GATT không phải là một hiệp định đơn nhất. GATT bao gồm hàng loạt các Thoả
thuận khác nhau, trong đó có Hiệp định chung, các Nghị định thư, Thoả thuận kết
nạp các thành viên mới và các Bộ luật của GATT được thông qua tại các vòng đàm
phán Kennedy và Tokyo.
GATT được xây dựng dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là: nguyên tắc Đãi ngộ
tối huệ quốc (MFN) được quy định tại Điều I của GATT; nguyên tắc Đãi ngộ quốc
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
gia (NT) được quy định tại Điều III của GATT. Hai nguyên tắc này đã đóng vai trò
quan trọng và trở thành các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thương mại quốc tế.
Việc sử dụng hai nguyên tắc này nhằm mục đích xoá bỏ sự phân biệt đối xử đã
được áp dụng lâu dài trong quan hệ thương mại quốc tế. Chính vì vậy chúng đã
được tiếp tục sử dụng làm nguyên tắc cơ bản của WTO.
Ngoài những qui định về sự không phân biệt đối xử nêu ở trên, trong GATT
còn có nhiều điều khoản khác về quy chế tối huệ quốc và nguyên tắc không phân
biệt đối xử, liên quan đến các quy định về số lượng hàng hoá nội địa (Điều III,
khoản 7), phim ảnh nghệ thuật (Điều IV (b)), quá cảnh hàng hoá (Điều V, khoản 5
và 6), nhãn hiệu xuất xứ hàng hoá (Điều IX, khoản 1), hạn chế về số lượng hàng
hoá (Điều XIII khoản 1), doanh nghiệp thương mại nhà nước (Điều XVII, khoản 1),
khuyến khích của nhà nước trong việc thành lập các ngành công nghiệp đặc biệt
(Điều XVIII, khoản 20), và các biện pháp cần thiết đối với việc nhập khẩu và phân
phối các loại hàng hoá khan hiếm (Điều 20, mục (j)).
Trong quá trình tồn tại của mình, GATT đã tổ chức 8 cuộc đàm phán quốc
tế, trong đó nổi bật là Vòng đàm phán Kennedy (1962-1967), Vòng đàm phán
Tokyo (1973-1979), Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994). Sự hoàn thiện của
GATT trong quá trình hoạt động của mình là một kết quả đáng kể. Vòng đàm phán
Kennedy (62 nước tham gia) đã giải quyết được việc giảm thuế cho 30.000 loại sản
phẩm và mức giảm thuế trung bình là 35%. Vòng đàm phán Tokyo (102 nước) giải
quyết vấn đề hàng rào mậu dịch phi thuế quan và vấn đề giảm thuế và đã ký kết một
số hiệp định thương mại quan trọng, bao gồm Hiệp định chống phá giá, Hiệp định
trợ giá và thuế đối kháng, Hiệp định hàng rào kỹ thuật trong thương mại, Hiệp định
về định giá Hải quan, Hiệp định về mua bán chính phủ. Còn kết quả của Vòng đàm
phán Uruguay là việc hình thành tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Vòng
Uruguay (123 nước) đàm phán về hầu hết tất cả các khía cạnh: từ những nội dung
truyền thống như cắt giảm thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, cải cách hệ
thống pháp lý của GATT, cho đến những vấn đề hoàn toàn mới như thương mại
dịch vụ (GATS), bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) và các biện pháp đầu tư liên12
quan đến thương mại (TRIMs). Một trong những thành tựu quan trọng nhất mà
vòng đàm phán Uruguay đã đạt được chính là Hiệp định về việc thành lập một tổ
chức mới - Tổ chức thương mại thế giới (WTO) - một phiên bản mới của Tổ chức
thương mại quốc tế (ITO).
1.1.2.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT
GATT quy định dù nước lớn hay nước nhỏ, khi thấy quyền lợi của mình bị
nước thành viên khác đe doạ gây tổn hại hay gây tổn hại, có thể yêu cầu GATT
giải quyết tranh chấp một cách công bằng.
Cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT là một cơ chế giải quyết tranh chấp
thương mại quốc tế, được thiết lập nhằm mục đích giải quyết tranh chấp, tìm kiếm
các cuộc đàm phán mang tính tương hỗ, làm cho hai bên tranh chấp kiềm chế, hiểu
biết và thông cảm với nhau, tìm ra biện pháp giải quyết mà hai bên đều có thể chấp
nhận được và bảo đảm một phán quyết phải được đồng ý của Hội đồng chung.
Cơ chế giải quyết tranh chấp chung trong GATT được quy định chủ yếu
trong Điều XXII (thông qua tháng 11 năm 1958) và Điều XXIII của GATT (thông
qua tháng 5 năm 1966) và các Điều XIX, XXV và XXVIII. Điều XXII quy định về
thủ tục tham vấn giữa các bên liên quan đến việc thực thi GATT, đòi hỏi Hồi đồng
chung ( thay mặt là Ban thư ký) tham vấn cùng với mỗi thành viên trong các sự kiện
tranh chấp có liên quan đến bất kỳ một vấn đề nào có ảnh hưởng tới hoạt động của
GATT và đưa ra sự quan tâm đặc biệt tới lời phản kháng của mỗi bên. Hội đồng
chung theo yêu cầu của mỗi bên, sẽ hỗ trợ việc tham vấn. Điều XXIII đưa ra cơ chế
hoà giải giữa các bên trong trường hợp: “lợi ích có được một cách trực tiếp hay
gián tiếp theo Hiệp định này bị vô hiệu hay bị suy giảm hay việc đạt được bất kỳ
mục tiêu nào của Hiệp định này bị cản trở...”. Như vậy, GATT không quy định một
cơ quan thường trực, một cơ chế pháp lý hoàn chỉnh có chức năng giải quyết tranh
chấp giữa các nước thành viên.
Tiến trình giải quyết tranh chấp theo Hiệp định GATT được thực hiện theo
các bước như sau:
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
Bước 1: Thương lượng
Các nước ký kết Hiệp định chung tuyên bố quyết tâm tăng cường, cải tiến
trình tự thương lượng, bảo đảm hưởng ứng kịp thời yêu cầu thương lượng, có tinh
thần tích cực để thương lượng kết thúc nhanh chóng và đi tới kết luận thoả đáng đối
với cả hai bên. Trong trường hợp các bên tranh chấp không nhất trí với nhau thì
tranh chấp sẽ được chuyển sang bước tiếp theo.
Bước 2: Trình vụ kiện
Chỉ có các quốc gia thành viên (chứ không phải là các cá nhân hay các công
ty có tranh chấp liên quan) mới được trình vụ kiện ra GATT. Nước khiếu nại cần
chỉ ra các lợi ích có được hợp lý theo Hiệp định đã bị vô hiệu hay suy giảm bởi
hành động của nước bị kiện. Nếu vi phạm được chỉ ra, GATT sẽ coi như là có sự vô
hiệu hoá và suy giảm, nhưng nếu sau đó GATT tìm thấy không phải sự vô hiệu hóa
hay suy giảm thì GATT sẽ bác bỏ điều giả định của bên khiếu nại - tức là, nếu sự vi
phạm Hiệp định chưa được khẳng định thì bên khiếu nại sẽ không có quyền áp dụng
bất kỳ biện pháp trừng phạt nào đối với bên kia.
Bước 3: Tham vấn
Tham vấn được đề cập trong Điều XXII và Điều XXIII của Hiệp định GATT
và là một phần vô cùng quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp trong Hiệp
định GATT. Rất nhiều vụ kiện được giải quyết theo cách này trước khi được đưa đến
các bên ký kết. Tham vấn có thể rút ngắn được thời gian giải quyết tranh chấp và tiết
kiệm công sức của các bên. Tham vấn phải được lập ra bằng văn bản cùng với lý do
của tham vấn. Bản giải thích Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra một số thời hạn trong
giai đoạn này. Trước đây, các bên ký kết sẽ trả lời yêu cầu tham vấn "ngay lập tức"
và cố gắng kết luận chúng một cách nhanh chóng. Về sau, các bên ký kết trả lời yêu
cầu tham vấn trong vòng 10 ngày và tham gia vào quá trình tham vấn liên quan tới
vấn đề khiếu nại trong vòng 30 ngày kể từ ngày yêu cầu đầu tiên của bên khiếu nại.
Thất bại trong việc tuân thủ thời hạn này sẽ cho phép bên khiếu nại quyền đề nghị
thành lập Ban hội thẩm mà không cần duy trì quá trình tham vấn. Nếu cả hai bên
đồng ý rằng, biện pháp tham vấn là không thích hợp thì bên khiếu nại có thể yêu cầu14
thành lập một Ban hội thẩm. Nếu vấn đề khẩn cấp (bao gồm những tình huống có liên
quan đến hàng hoá dễ hỏng đang đi trên đường), thì theo Hiệp định GATT các bên
phải tham gia quá trình tham vấn trong vòng 10 ngày và một Ban hội thẩm có thể
được yêu cầu thành lập sau 20 ngày nếu như không có thoả thuận nào đạt được.
Bước 4: Hoà giải và trọng tài
Nếu quá trình tham vấn không đem lại một giải pháp tích cực cho các bên
tranh chấp, GATT sẽ cung cấp biện pháp hoà giải từ bên thứ ba. GATT cho phép
bất kỳ bên tranh chấp nào đều có thể tìm kiếm sự hoà giải của bên thứ ba. Bản tuyên
bố của các Bộ trưởng GATT năm 1982 đã chỉ rõ rằng bất kỳ một nước nào cũng có
thể yêu cầu vai trò hoà giải của Tổng giám đốc trong việc giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế, phần lớn các bên tranh chấp không phải sử dụng đến biện pháp hoà
giải của bên thứ ba.
Trong trường hợp tham vấn thất bại, GATT đưa ra biện pháp trọng tài dựa
trên sự đồng ý sử dụng bên thứ ba như ở trên. Việc sử dụng trọng tài là hoàn toàn
phụ thuộc vào sự đồng ý của các bên tranh chấp và phải được thông báo cho tất cả
các bên ký kết Hiệp định GATT.
Bước 5: Thành lập Ban hội thẩm hay Nhóm công tác
Khi biện pháp tham vấn hay hoà giải bị thất bại thì bên khiếu nại có thể đưa
vấn đề ra trước Hội đồng GATT. Bên khiếu nại phải đệ trình yêu cầu bằng văn bản,
chuyển vấn đề tới Nhóm công tác hay Ban hội thẩm. Bên khiếu nại sẽ yêu cầu
Nhóm công tác hay đặc biệt hơn là Ban hội thẩm (sự lựa chọn được hiểu là phụ
thuộc vào bên khiếu nại). Ban hội thẩm phải được thành lập muộn nhất vào cuộc
họp tiếp theo của Chương trình nghị sự.
Việc cơ cấu Ban hội thẩm phải được sự đồng ý của các bên tranh chấp. Tổng
giám đốc GATT có thể thành lập Ban hội thẩm nếu thời hạn không được đáp ứng
nhưng chỉ sau khi đã tham khảo ý kiến cả hai bên. Bản giải thích vòng đàm phán
Uruguay cho phép Tổng giám đốc sau khi tham khảo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng
chung được thành lập Ban hội thẩm nếu các thành viên không đạt được sự đồng ý
trong vòng 20 ngày kể từ thời điểm đáng lý nó phải được thành lập.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
Sau khi được thành lập, Ban hội thẩm sẽ đưa ra lịch làm việc hay kế hoạch
cho các vụ kiện để khuyến khích các bên tranh chấp ngay lập tức đáp ứng thời hạn.
Sau đó, Ban hội thẩm thu thập các thông tin về vụ tranh chấp. Ban hội thẩm không
phụ thuộc toàn bộ vào thông tin về vụ tranh chấp mà họ nhận được từ các bên tranh
chấp. Bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào cũng có thể được hỏi về các thông tin,
hay thậm chí về các lời khuyên mang tính chất kỹ thuật.
Ban hội thẩm cũng sẽ yêu cầu các bản đệ trình phải được lập bằng văn bản,
đầu tiên từ bên nguyên đơn sau đó đến bên bị đơn và từ các bên thứ ba có liên quan.
Bên nguyên đơn sẽ thường xuyên được yêu cầu đưa ra bản đệ trình ban đầu, để bên
bị đơn có sự chuẩn bị tốt cho vụ kiện mà nó phải đối mặt. Trên thực tế, Ban hội
thẩm đặt vấn đề tranh chấp trước cả hai bên và mong muốn cả hai bên tranh luận
một cách mạnh mẽ và triệt để. Cuối cùng, vào cuối phiên họp, Ban hội thẩm sẽ nghe
các bên làm sáng rõ các bản tường trình, đôi khi, các bên bị đơn không thể tiến hành
bào chữa cho đến lần đối chất thứ hai. Trên thực tế, nguyên nhân của sự trì hoãn
thường là sự chậm chạp của các bên tranh cãi.
Ban hội thẩm phải đệ trình bản báo cáo không được quá 6 tháng (không được
quá 3 tháng trong trường hợp khẩn cấp) kể từ khi được thành lập hay từ khi các
điều khoản tham chiếu được đồng ý. Nếu Ban hội thẩm tiến hành nhiều hơn thời
gian cho phép, thì phải thông báo cho Hội đồng bằng văn bản nêu rõ lý do của sự trì
hoãn, đồng thời đoán khi nào Ban hội thẩm sẽ hoàn thành trách nhiệm.
Khi đủ thông tin cần thiết, Ban hội thẩm chỉ thị cho Ban thư ký để bắt đầu
soạn thảo bản báo cáo mà không có mặt các bên tranh chấp. Báo cáo này sẽ được sử
dụng như một nền tảng cho bản báo cáo cuối cùng tới các bên ký kết. Ban hội thẩm
sẽ đánh giá một cách khách quan về những thực tế và việc các bên có tuân theo
Hiệp định hay không. Trước khi Ban hội thẩm gửi Báo cáo tới các bên ký kết, bản
phác thảo của các phần phải được thông báo tới các bên tranh chấp để xin ý kiến
bằng văn bản. Sau đó, bản phác thảo của toàn bộ báo cáo bao gồm các quy tắc giải
quyết tranh chấp phải được thông báo cho các bên tranh chấp để xin ý kiến thêm.
Mục đích là các bên tranh chấp phải được biết tới Báo cáo của Ban hội thẩm và các16
bên tranh chấp phải đạt được một giải pháp thoả đáng trước khi bản báo cáo được
trình lên các bên ký kết. Nếu không có sự phản đối nào thì Báo cáo của Ban hội
thẩm được chuyển tới các bên ký kết thông qua Hội đồng. Hội đồng tiến hành xem
xét bản báo cáo ngay sau đó, mặc dù nó có thể trì hoãn quá trình xem xét cho tới
chương trình nghị sự kế tiếp của Hội đồng nếu một bên tranh chấp yêu cầu như vậy.
Như vậy Báo cáo của Ban hội thẩm chưa có giá trị pháp lý ngay. Theo thông lệ, Báo
cáo của Ban hội thẩm phải được chấp nhận trên cơ sở đồng thuận, có nghĩa là Báo
cáo sẽ trở thành "quyết định" chỉ khi không có một bên ký kết nào phản đối.
Bước 6: Thực thi phán quyết
Các quy tắc giải quyết tranh chấp của Hội đồng sẽ hướng dẫn các bên ký kết
loại bỏ hay điều chỉnh biện pháp nếu biện pháp không hợp pháp theo Hiệp định
GATT, hay tiến hành các hành động khác để duy trì sự cân bằng của các nhượng
bộ nếu biện pháp tìm thấy là hợp pháp theo Hiệp định GATT nhưng đã làm vô hiệu
hoá những lợi ích được trông đợi một cách hợp lý từ Hiệp định GATT.
Thông thường, bên khiếu nại có trách nhiệm bảo đảm các vấn đề tranh chấp
phải có sự tham gia đều đặn của Hội đồng. Trong vòng 30 ngày kể từ ngày chấp
nhận Báo cáo, bên tranh chấp phải thông báo ngay cho Hội đồng về dự định của họ
có liên quan đến việc thực thi các quy tắc và phán quyết trong một thời hạn hợp lý
dành cho thành viên vi phạm phụ thuộc vào sự đồng ý của Hội đồng, hay các bên
tranh chấp, hay sẽ được quyết định bởi trọng tài. Thời hạn hợp lý này thông
thường không vượt quá 15 tháng kể từ khi chấp nhận bản báo cáo của Ban hội thẩm.
Sáu tháng sau khi đưa ra một khoảng thời hạn hợp lý cho việc thực thi, vấn
đề sẽ tự động được đưa vào chương trình nghị sự của Hội đồng và tiếp tục được duy
trì trong chương trình nghị sự của Hội đồng cho đến khi giải quyết ít nhất là 10
ngày trước mỗi cuộc họp của Hội đồng, thành viên vi phạm phải thông báo bằng
văn bản tới Hội đồng về tiến triển trong việc thực thi phán quyết.
1.1.3. Những hạn chế của cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT và sự cần thiết
ra đời một cơ chế giải quyết tranh chấp thiết thực và hữu hiệu - cơ chế của WTO
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
Không thể phủ nhận rằng hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT đã có
đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển của hệ thống giải quyết tranh chấp
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, thực tế áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT
cũng cho thấy những hạn chế làm giảm tính hiệu quả và hiệu lực của nó, thể hiện:
- Trước hết, tiến trình giải quyết tranh chấp của GATT không ổn định, không
rõ ràng, dễ bị trì hoãn ở mọi giai đoạn. Một số quy định như sự vô hiệu hoá và suy
giảm hầu như không thể sử dụng được cho mục tiêu giải quyết tranh chấp. Nhiều quy
định của GATT về giải quyết tranh chấp chỉ mang tính quy tắc, hướng dẫn cho các
bên khi tham gia vào tiến trình trên. Kết quả là bên vi phạm không thực hiện hoặc
thực hiện nhưng không phù hợp với các phán quyết trong Báo cáo của Ban hội thẩm.
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp theo quy định của GATT chỉ được tiến
hành ở một cấp, tức là chỉ được xem xét thông qua Ban hội thẩm. Các bên tranh
chấp không có quyền kháng cáo, GATT không có Cơ quan phúc thẩm để xem xét
lại vụ tranh chấp một cách thoả đáng. Do vậy, tính chính xác trong việc giải quyết
tranh chấp giữa các bên không được đảm bảo.
- Thứ ba, toàn bộ hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT được đặt trên cơ
sở ra quyết định đồng thuận, nghĩa là cần đạt được sự nhất trí của bên bị khiếu
nại trước khi tiến hành các quy trình thành lập Ban hội thẩm, xác định những điều
kiện tham chiếu, chỉ định thành viên Ban hội thẩm, thông qua phán quyết và cho
quyền trả đũa. Đây là nguyên nhân gây chậm trễ hay bế tắc trong việc thông qua
Báo cáo của Ban hội thẩm, bởi bất kỳ một bên ký kết nào (kể cả bên tranh chấp)
cũng có thể phản đối hay trì hoãn những việc làm này. Việc chấp nhận bản báo cáo
và thực thi cũng có thể bị ngăn chặn ở mọi bước bởi sự phản đối kiên quyết của các
bên tranh chấp. Và do vậy có thể gây thiệt hại cho quốc gia bị hại do thời gian giải
quyết tranh chấp kéo dài. Suy cho cùng, GATT vẫn là tổ chức dựa trên sự đồng
thuận và những biện pháp giải quyết tranh chấp chẳng khác gì gợi ý làm thế nào để
giải quyết tranh chấp nhanh chóng hơn. Do vậy, đây được xem là là nhược điểm lớn
nhất trong cơ chế giải quyết tranh chấp của GATT.
số lượng lớn các doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được với thói quen ỷ
lại, trông chờ vào sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Vì vậy trước xu thế của quá trình hội
nhập, các doanh nghiệp này rất lúng túng và chưa tạo được thể chủ động để tham
gia vào quá trình hội nhập kinh tế này.
Từ những nhận định trên, Việt Nam cần tìm cách để hạn chế tối đa khả
năng xảy ra tranh chấp. Khi tranh chấp xảy ra, chúng ta cần có những phương
sách thích hợp để phát huy những kinh nghiệm giải quyết tranh chấp quốc tế của
Việt Nam để giải quyết nhanh chóng các tranh chấp trong WTO, tránh được những
tổn thất kinh tế đáng tiếc và bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình.
3.2.6. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nƣớc
Hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước cần được tăng cường, đặc biệt
là về trình độ cũng như ý thức tôn trọng pháp luật. Hiện nay tình trạng pháp luật của
Nhà nước không được thực hiện một cách thống nhất từ trung ương đến địa phương
là một vấn đề nổi cộm, làm ảnh hưởng rất lớn đến môi trường đầu tư. Vì vậy yêu
cầu này cần được tập trung giải quyết trong giai đoạn tới, góp phần đảm bảo
tính minh bạch của hệ thống pháp luật, hạn chế tối đa khả năng xảy ra tranh chấp.
Bên cạnh đó, những yêu cầu của quá trình hội nhập cũng đòi hỏi hệ thống
các cơ quan tài phán cần được củng cố nâng cao trình độ, năng lực. Hiện nay,
những hiểu biết về kinh tế quốc tế của đội ngũ thẩm phán nhìn chung còn yếu, công
tác đào tạo, phổ biến về những yêu cầu của các tổ chức kinh tế quốc tế cho đội ngũ
cán bộ này chưa được thực hiện. Tình trạng này cũng xảy ra tương tự đối với đội
ngũ trọng tài viên. Do đó, khả năng giải quyết những tranh chấp kinh tế quốc tế
phức tạp bằng toà án hay trọng tài sẽ rất hạn chế, điều đó đã được chứng minh trong
thực tiễn thời gian qua. Vì vậy việc đào tạo đội ngũ thẩm phán, trọng tài viên
chuyên trách có trình độ cao về chuyên môn pháp lý và kinh tế quốc tế là rất cần
thiết và phải được thực hiện càng sớm càng tốt.
3.2.7. Thực hiện tốt các cam kết quốc tế116
Với vai trò là cơ chế làm rõ các quy định của WTO, cơ chế giải quyết tranh
chấp đang được sử dụng hiệu quả cho các nước biết được các cam kết của mình
trong WTO là thế nào. Chính vì vậy, khi cân nhắc đưa ra các cam kết quốc tế và đi
cùng với đó là nghĩa vụ bảo đảm thực thi các cam kết này trong hệ thống pháp luật
thì Việt Nam không thể không nhìn vào các phán quyết và quyết định giải quyết
tranh chấp của WTO. Hệ quả là các quy định pháp luật trong nước khi được điều
chỉnh không thể chỉ bám vào lời văn của quy định mà cần tính đến việc giải thích
của WTO về quy định này.
Để đảm bảo được sự tham gia chủ động vào cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO, trước hết chúng ta cần nắm vững các yêu cầu cũng như lợi ích mà Việt
Nam có được khi gia nhập WTO. Trên cơ sở đó chúng ta cần thực hiện nghiêm
chỉnh các yêu cầu của WTO, từ đó sẽ hạn chế tối đa các nguy cơ xảy ra tranh chấp.
Chúng ta cần hiểu rõ mặc dù WTO là quan hệ thương mại đa phương nhưng trong
tranh chấp lại là các quan hệ song phương. Vì vậy chúng ta cần phát huy triệt
để những biện pháp giải quyết tranh chấp truyền thống cuả công pháp quốc tế như
thương lượng, trung gian, hoà giải. Đó cũng là điểm mạnh của Việt Nam trong quá
khứ cần được khai thác triệt để.
3.2.8. Đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi để tham gia quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Cùng với quá trình hội nhập, các hoạt động kinh tế ngày càng phát triển sẽ
dẫn đến sự gia tăng của các tranh chấp thương mại quốc tế. Đồng thời trong lúc này
đối tác làm ăn của chúng ta thường là những người rất am hiểu về pháp luật thương
mại quốc tế, chặt chẽ và sòng phẳng về mặt pháp lý. Do đó, ngoài những công việc
nêu trên, để tham gia một cách chủ động vào cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO, Việt Nam cần có sự đầu tư thích đáng vào việc xây dựng được một đội
ngũ cán bộ có kiến thức chuyên sâu về từng lĩnh vực trong WTO. Đội ngũ cán bộ
này sẽ là xương sống của quá trình giải quyết các tranh chấp của Việt Nam phát
sinh trong khuôn khổ WTO nói riêng và thương mại quốc tế nói chung.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi117
Khi có tranh chấp phát sinh mà một bên là Việt Nam thì chính đội ngũ
chuyên gia này sẽ là những người trực tiếp chuẩn bị hồ sơ, bằng chứng, lập luận và
tham gia vào việc giải quyết tranh chấp tại Ban hội thẩm hay Cơ quan phúc thẩm.
Không những thế, đội ngũ chuyên gia này sẽ kiến nghị các biện pháp để thi hành
phán quyết của DSB sao cho có lợi nhất cho Việt Nam. Mặt khác, các chuyên gia
này sẽ đóng góp những ý kiến tư vấn cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc
soạn thảo và ban hành các chính sách, biện pháp thương mại sao cho tương thích
với các quy định của các hiệp định quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Nếu không
đào tạo bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia giỏi thì khi tranh chấp phát sinh chúng ta
buộc phải thuê chuyên gia nước ngoài với một khoản phí rất cao và khi thiếu đội
ngũ chuyên gia giỏi thì chúng ta cũng không mạnh dạn đưa vụ tranh chấp ra giải
quyết theo cơ chế của WTO.
Tham gia vào các tranh chấp trong WTO sẽ chắc chắn xảy ra đối với Việt
Nam (có thể với tư cách bên khởi kiện hay bị kiện), vì vậy chúng ta cần có
một đội ngũ chuyên gia được đào tạo có chất lượng, hiểu biết sâu về WTO để đảm
đương công việc mỗi khi có tranh chấp liên quan đến Việt Nam. Trong trường hợp
bị khiếu kiện, chúng ta cần có giải pháp thoả đáng để hạn chế tối đa thiệt hại có thể
xảy ra.
Như vậy, tham gia vào WTO đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị kỹ về chính
sách, pháp luật, đội ngũ luật sư và chuyên gia giỏi. Đó là đòi hỏi đối với bất cứ quốc
gia thành viên WTO nào. Bên cạnh đó, để tham gia vào cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO một cách hiệu quả, Việt Nam cũng cần nghiên cứu nhằm phát huy triệt để
những biện pháp giải quyết tranh chấp truyền thống của công pháp quốc tế như
thương lượng, trung gian, hoà giải, nghiên cứu các vụ tranh chấp thực tế và học hỏi
kinh nghiệm của các quốc gia khác nhằm bảo vệ quyền lợi của mình trong trường
hợp khiếu nại hay bị khiếu nại. Trên đây là một số đề xuất của tác giả với mong
muốn góp phần thúc đẩy Việt Nam chủ động tham gia hội nhập vào WTO nói
chung, vào cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO nói riêng.118
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi119
KẾT LUẬN
Tổ chức thương mại thế giới ra đời đã đánh dấu một xu thế phát triển tất yếu
của nền kinh tế thế giới trong thế kỷ 20. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, việc xảy ra
tranh chấp, xung đột về lợi ích kinh tế là điều khó tránh khỏi. Do vậy, nhiệm vụ của
các tổ chức quốc tế (các tổ chức liên chính phủ) là phải xây dựng được cơ chế hiệu
quả để giải quyết tranh chấp, xung đột phát sinh giữa các quốc gia. Lịch sử phát
triển thương mại quốc tế đã cho thấy cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả là chất
xúc tác cho sự vận hành trôi chảy của hệ thống thương mại. Nhận thức rõ tầm quan
quan trọng đó, WTO đã xây dựng cho mình cơ chế giải quyết tranh chấp trên cơ sở
kế thừa và phát triển hệ thống giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ Hiệp định
chung về thương mại và thuế quan năm 1947 (GATT). Cơ chế giải quyết tranh chấp
của WTO không chỉ bao gồm Điều XXII và XXIII của GATT mà còn có cả Thoả
thuận về các Quy tắc và Thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp (DSU) với 27
điều và 4 phụ lục và các hiệp định đặc biệt hay bổ sung được quy định tại một số
hiệp định liên quan được liệt kê tại Phụ lục 2 của DSU (đối với các tranh chấp liên
quan đến một số vấn đề thương mại cụ thể).
Khác với cơ chế giải quyết tranh chấp mang tính adhoc của GATT nơi chỉ có
duy nhất một cơ quan giải quyết tranh chấp là Ban hội thẩm, cơ chế giải quyết tranh
chấp của WTO mang tính thường trực, được giải quyết thông qua Cơ quan giải
quyết tranh chấp (DSB), Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm, hoạt động theo các
quy định của DSU. Phạm vi áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp không chỉ giới
hạn trong lĩnh vực thương mại hàng hoá mà đã mở rộng sang cả lĩnh vực thương
mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ.
Quá trình giải quyết tranh chấp của WTO bắt đầu khi nước thành viên có
khiếu nại yêu cầu tham vấn với nước bị khiếu nại. Nếu sau 60 ngày, việc tham vấn
giữa các bên thất bại thì bên nguyên đơn có quyền yêu cầu thành lập Ban hội thẩm
để xem xét giải quyết tranh chấp theo quy định của WTO. Trên cơ sở đề nghị của
bên nguyên đơn, DSB sẽ nhóm họp để xem xét đề nghị này và tiến hành thành lập
Ban hội thẩm. Ban hội thẩm có trách nhiệm xem xét, đánh giá khách quan vấn đề120
tranh chấp và lập Báo cáo cuối cùng đệ trình lên DSB để thông qua. Các bên tranh
chấp có quyền kháng cáo Báo cáo của Ban hội thẩm, kháng cáo này được chuyển
tới Cơ quan phúc thẩm để xem xét lại. Báo cáo của Cơ quan phúc thẩm được DSB
thông qua trở thành phán quyết của DSB và buộc các bên tranh chấp phải thi hành.
Các phán quyết của DSB có giá trị bắt buộc và được DSB giám sát thi hành.
Nếu bên thua kiện không thi hành hay thi hành không đúng với phán quyết của
DSB thì bên thắng kiện có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại hay đề nghị DSB
cho phép áp dụng biện pháp trả đũa. Mức độ của biện pháp trả đũa phải tương
đương với thiệt hại do hành vi vi phạm của bên kia gây ra.
Toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp kéo dài không quá 15 tháng kể từ
ngày DSB thành lập Ban hội thẩm, không quá 18 tháng trong trường hợp Ban hội
thẩm hay Cơ quan phúc thẩm kéo dài thời hạn đưa ra báo cáo (trừ khi các bên
tranh chấp thoả thuận đây là trường hợp ngoại lệ).
Với thủ tục giải quyết tranh chấp mang tính cố định và bắt buộc của cơ chế
giải quyết tranh chấp của WTO, các nước trên thế giới dù lớn hay nhỏ, dù là nước
phát triển hay đang phát triển cũng đều phải tuân thủ "luật chơi chung" của hệ thống
thương mại quốc tế. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mặc dù còn xa để cho
là hoàn hảo nhưng được đánh giá chung là một trong những cơ chế giải quyết tranh
chấp thương mại hiệu quả nhất. Sự tín nhiệm này một phần lớn là do các quy tắc và
thủ tục của nó hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi, khách quan để các nước, kể cả các
nước nhỏ có thể bảo vệ quyền lợi của mình trước các nước lớn. Chỉ sau 10 năm kể
từ khi ra đời, đã có 332 vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết theo cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO, trong đó có 210 vụ do các nước phát triển yêu cầu và 122 vụ
được yêu cầu từ các nước đang phát triển. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO
cũng quy định những điều khoản với những ưu đãi dành riêng cho thành viên là
nước đang phát triển.
Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới, việc gia nhập WTO là tất yếu đối với nước ta. Kể từ khi nộp đơn xin gia nhập
WTO năm 1995 đến nay, Việt Nam đang hoàn thiện những bước đi cuối cùng để
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi121
gia nhập WTO trong thời gian sớm nhất có thể. Hiệp định thương mại giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ được ký ngày 13/7/2000, có hiệu lực ngày 10/12/2001 như một nỗ
lực quan trọng thúc đẩy và củng cố việc nhập vào thị trường thế giới cũng như sửa
đổi hệ thống pháp luật để tiếp cận với luật pháp thương mại quốc tế và WTO. Song
song với các nỗ lực trên, việc tìm hiểu và nắm bắt cơ chế giải quyết tranh chấp của
WTO có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn bởi đây là cơ chế hiệu quả
giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại quốc tế giữa 150 nước thành viên
của WTO. WTO là sân chơi vì quyền lợi kinh tế, thương mại nên các nước sẽ không
ngần ngại khởi kiện Việt Nam khi họ thấy quyền lợi của họ bị vi phạm và ngược lại,
Việt Nam cũng cần nhanh chóng học hỏi các kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết để
cũng khởi kiện các nước khi quyền lợi của Việt Nam bị vi phạm.
Là nước đi sau và tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế vào thời điểm khi
các quy tắc và chuẩn mực của pháp luật thương mại quốc tế, kể cả các quy định về
giải quyết tranh chấp đã được định hình. Hơn nữa, cho dù được coi là cơ chế hiệu
quả giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và có những quy định ưu đãi cho các
nước đang phát triển, nhưng Việt Nam không nên quá dựa vào những ưu đãi mà
DSU quy định cho các nước đang phát triển. Điều quan trọng là chúng ta phải
nghiên cứu kỹ quy tắc và thủ tục của cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, hiểu
đúng các nghĩa vụ của mình, nhận biết xu thế phát triển của pháp luật thương mại
quốc tế hiện đại, hoàn thiện hệ thống pháp luật và hệ thống quản lý Nhà nước,
chuẩn bị các điều kiện cần thiết, trong đó không thể thiếu việc nhanh chóng xây
dựng một đội ngũ chuyên gia pháp luật thương mại quốc tế giỏi về chuyên môn
nghiệp vụ. Bên cạnh đó cần có sự chuẩn bị tốt về tâm lý và các điều kiện vật chất
mỗi khi tham gia vào các tranh chấp thương mại quốc tế. Đây cũng chính là công
việc rất phức tạp đang đặt ra đối với Việt Nam trong quá trình chuẩn bị gia nhập
WTO.
Tác giả hy vọng luận văn này có thể đóng góp một phần vào việc nghiên cứu
về luật pháp của Tổ chức thương mại thế giới nói chung, về cơ chế giải quyết tranh122
chấp của Tổ chức thương mại thế giới nói riêng. Từ đó góp phần thúc đẩy quá trình
hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới một cách hiệu quả
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
H Cơ hội và thách thức của sự phát triển thương mại điện tử đối với các nước đang phát triển Luận văn Kinh tế 0
L Thương mại điện tử toàn cầu và các nước đang phát triển Luận văn Kinh tế 2
Q Công tác kiểm kê đất đang quản lý sử dụng của các tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo chỉ thị 31/2007/CT- TTg ngày 14/12/2007 Luận văn Kinh tế 0
H Ở nước đang phát triển, trong khi các quan chức chính phủ mong đợi thu hút đầu tư nước ngoài thì nhà chính trị lại tỏ ra dè dặt lo ngại Luận văn Kinh tế 0
N Vai trò của lao động với phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển và trong điều kiện Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
N Vai trò của vốn với phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển và trong điều kiện Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
L Xây dựng chính sách phát triển thương mại điện tử ở các nước đang phát triển Luận văn Kinh tế 0
Z Các giải pháp nhằm đem lại lợi ích cao hơn cho các nước đang phát triển Luận văn Kinh tế 0
M Thu hút vốn nước ngoài ở các nước đang phát triển và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Luận văn Sư phạm 0
W Sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia của các nước đang phát triển Châu Á - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top