Cổ phần hóa là một quá trình chuyển đổi về hình thức sở có của một doanh nghề hay một tổ chức nào đó có tiềm năng áp dụng mô hình tổ chức và hoạt động kiểu doanh nghiệp
Mục tiêu của cổ phần hóa
Mục tiêu hàng đầu của chuyện cổ phần hóa là để các cơ sở được cổ phần hóa có được cơ chế lành mạnh, phù hợp với thông lệ quốc tế và khai thác được tối (nhiều) đa tiềm năng hoạt động hiệu quả của cơ sở đó.
Với lớn đa số các cơ sở xuất phát từ công hữu, trước khi chuyển đổi bị thua lỗ triền miên, sống bằng bầu sữa nhà nước; khi chuyển đổi sang cổ phần vừa lập tức hoạt động có hiệu quả; thậm chí lãi lớn. Pháp vừa tiến hành tư nhân hóa hãng Air France vốn thua lỗ triền miên, Pháp (chưa được viết)">Công ty Điện lực Pháp (EDF). Từ mấy năm qua Air France vừa sinh lời và sáp nhập cả Hãng hàng bất KLM của Hà Lan.
Thông thường nhà nước là nơi lập chính sách, thi hành nó nên nhà nước bất nên làm kinh doanh: vừa đá bóng thì bất nên thổi còi và ngược lại. Hơn thế nữa, thực tế cho thấy nhà nước làm kinh doanh luôn kém nên vai trò đó nên chuyển cho khu vực tư nhân.
Việc cổ phần hóa vừa làm giảm tải mạnh mẽ áp lực về trước mặt và chiếm dụng các tài nguyên quốc gia. Ngân sách bớt gánh nặng, trong khi lại có nguồn thu từ thuế và các khoản khác đem lại. Trong trường hợp này, có thể nói hiệu quả nhân lên nhiều lần.
Ba loại hình cổ phần hóa
Theo các công trình nghiên cứu chuyên ngành về vấn đề này, cổ phần hóa có ba loại, đó là: (1) cổ phần hóa là tư nhân hóa một doanh nghề nhà nước (privatization); (2) tư nhân hóa một phần tài sản của một cơ sở công lập (equitization - bất kể có phải là doanh nghề ahy không) và (3) công ty hóa một hay một số bộ phận hoạt động của một cơ sở vốn thuộc sở có nhà nước (corporatization).
Tư nhân hóa:
Cách làm này thích hợp nhất cho các doanh nghề nhà nước cỡ vừa và nhỏ. Cách làm này là sự chuyển đổi triệt để một doanh nghề về mặt hình thức sở hữu.
Tư nhân hóa một phần tài sản:
Loại hình chuyển đổi sở có này được vận dụng rất phổ biến ở Việt Nam.
Công ty hóa:
Thực hiện phổ biến ở nhiều nước phát triển, đặc biệt là trong các công ty dịch vụ công ích (kiểu BBC), dịch vụ nước như các ngành kinh doanh hạ tầng giao thông, điện, nước, viễn thông và có cả một số viện nghiên cứu, trường lớn học, bệnh viện công lập.
Cổ phần hóa ở Việt Nam
Quá trình cổ phần hóa kiểu này đến 2008, vừa thực hiện ở khoảng trên 3.000 doanh nghề nhà nước vừa và nhỏ được cổ phần hóa. Trong giai đoạn sau đó, còn khoảng 2.000 doanh nghề nhà nước vừa và lớn như BIDV, Vietinbank, VMS-MobiFone, Vinaphone... dự trù sẽ cổ phần hóa đến năm 2010.
Chính phủ Việt Nam cũng khẳng định quyết tâm cổ phần hóa các trường lớn học. Các cơ sở giáo dục ở Việt Nam muốn tránh nguy cơ bị biến dạng do đưa các hoạt động giáo dục thành các dịch vụ đơn thuần, mang nặng tính thương mại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sứ mệnh và mục tiêu của trường nên sẽ có quá trình tách bạch và phân định rõ các bộ phận thương mại hay bay thương mại hóa.
Các ngành như thể thao vốn chưa từng biết đến cổ phần hóa cũng vừa bắt đầu quá trình này[6], song song với chuyện ra đời một loạt các cơ sở thể thao cố phần hay tư nhân từ đầu.
Lịch sử của vấn đề
Các nước theo nền kinh tế thị trường, chuyện cổ phần hóa các doanh nghề và tổ chức luôn được đặt ra lập tức khi nó hoạt động bất có hiệu quả. BBC là một dẫn chứng điển hình của chuyện này.
Lịch sử đổi mới các cơ sở kinh doanh và theo mô hình kinh doanh được bắt đầu lần đầu tiên ở các nước Trung và Đông Âu vốn theo chủ nghĩa cộng sản với nền kinh tế hầu như chỉ có công hữu. Bắt đầu từ khoảng năm 1989, các nước này trong quá trình xây dựng cơ chế kinh tế thị trường và tiến hành cổ phần hóa khá nhanh chóng.
Tiếp theo, tiến trình này được thực hiện tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, do sự vận động của Ngân hàng Thế giới và Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Chính Trung Quốc thực hiện chuyện này khá muộn.
Các nguy cơ từ quá trình cổ phần hóa
Quá trình cổ phần hóa có thể nảy sinh rất nhiều nguy cơ. Việc cổ phần hóa một cách ồ ạt các công ty nhà nước ở nước Nga và các nước Đông Âu vừa làm một số người vốn là không sản vừa giàu lên nhanh chóng, trở thành các tỷ phú tầm cỡ thứ giới như Khodorovsky, Roman Abramovich, Berezevsky...
Việc đánh giá giá trị doanh nghề thấp xa và rất xa dưới mức giá trị của nó là chuyện phổ biến. Một số công ty con còn biến mất khỏi danh sách đưa đi cổ phần hóa. Việt Nam bất phải là ngoại lệ.
Ba sai phạm khi cổ phần hóa ở Việt Nam là:
Trong quá trình kiểm kê phân loại tài sản, một số đơn vị thực hiện kiểm kê, phân loại bất đúng với thực tế sử dụng. Sổ sách tài chính cũng bị bóp méo theo hướng có lợi cho một số người có quyền mua lớn.
Việc bán cổ phần ưu đãi cho cán bộ, công nhân viên chức sai nhiều như "các công ty vừa bán cổ phần ưu đãi cho người lao động chưa đủ điều kiện về thời (gian) gian làm chuyện tại công ty hay những người vừa chuyển sang làm chuyện tại đơn vị khác, bất có tên trong danh sách thường xuyên. Thậm chí có những đơn vị bán cổ phần cho người ngoài công ty theo giá sàn, vi phạm các quy định về thực hiện chính sách đối với người lao động khi chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần".
Sai phạm thứ ba về định giá tài sản doanh nghề sai. "Nhiều doanh nghề áp dụng đơn giá để xác định giá trị nhà cửa, kiến trúc bất đúng theo suất đầu tư do Viện Kinh tế, Bộ Xây dựng ban hành. Việc xác định tỉ lệ còn lại của nhà cửa, vật kiến trúc cũng áp dụng sai quy định của Nhà nước".
Thứ tư là nhiều đơn vị chậm nộp trước về Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghề theo quy định.
Liên quan đến quản lý, sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp, "một số đơn vị (tổng công ty hay công ty) thường bất mở tài khoản riêng, hằng năm bất xây dựng kế hoạch thu chi báo cáo Bộ Tài chính; các tổng công ty hay công ty thường dùng quỹ để cho các đơn vị thành viên vay với lãi suất ưu đãi gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước"
Theo điều 77 Luật Doanh nghề 2005 (của Việt Nam), công ty cổ phần được định nghĩa như sau:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và bất hạn chế số lượng tối đa;
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghề trong phạm vi số vốn vừa góp vào doanh nghiệp;
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này.
Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
Theo điều 78 Luật Doanh nghề 2005 (của Việt Nam), các loại cổ phần bao gồm:
Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông. Người sở có cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông.
Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở có cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi. Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây:
Cổ phần ưu đãi biểu quyết;
Cổ phần ưu đãi cổ tức;
Cổ phần ưu đãi trả lại;
Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
Trong các loại cổ phần ưu đãi trên thì cổ phần ưu đãi biểu quyết chịu một số ràng buộc như:
chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết.
Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời (gian) hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ phần phổ thông.
Người được quyền mua cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi trả lại và cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định hay do Đại hội cùng cổ đông quyết định.
Các cổ phần còn lại (ưu đãi cổ tức, ưu đãi trả lại và ưu đãi khác) thường tuân theo các quy tắc do Đại hội cùng cổ đông quyết định.
Ngoài ra, cổ phần phổ thông bất thể chuyển đổi thành cổ phần ưu đãi; trong khi cổ phần ưu đãi có thể chuyển thành cổ phần phổ thông theo quyết định của Đại hội cùng cổ đông. Mỗi cổ phần của cùng một loại đều làm ra (tạo) cho người sở có nó các quyền, nghĩa vụ và lợi ích ngang nhau.
VnEcon - Kênh tiếp cận khách hàng mới của bạn
Liên hệ quảng cáo trên http://VnEcon.com
Call: 093 777 7963 (Mr Tâm)
nguyenmautam (at) vnecon [dot] com
gal_register('gal_4_13305', '1', '3', '0', '0', '0');