Chia sẻ miễn phí cho các bạn tài liệu
“Anh/Chị hãy trình bày các chức năng cơ bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam? Liên hệ về tình hình thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam và chính sách điều hành tiền tệ từ đầu năm 2008 đến nay và dự báo cho năm 2010”
Lời mở đầu :
Công cuộc đổi mới nền kinh tế của nước ta đã đạt được nhiều thành công, các chỉ số kinh tế cơ bản như GDP, xuất nhập khẩu, đầu tư, thu chi ngân sách nhà nước đều đạt được cao và tương đối bền vững, tệ nạn xã hội được đẩy lùi, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đạt được những kết quả đó, ngoài sự đóng góp chung của cả nước phải kể đến ngành Ngân hàng. Thực tế, ngành Ngân hàng đã có nhiều đóng góp tích cực cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế Việt Nam,
Ngành Ngân hàng Việt Nam phải nỗ lực không ngừng thực hiện mục tiêu “đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Đối với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã trải qua những thăng trầm, vượt qua nhiều khó khăn cũng như tận dụng được những cơ hội quý báu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng: NHNN đã đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu tổ chức, thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, tạo nền tảng pháp lý tương đối đồng bộ cho các tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động an toàn và hiệu quả; Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện tốt chức năng của NHTW, điều hành chính sách tiền tề, chính sách tỷ giá và chính sách ngoại hối theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Đồng thời, NHNN thực hiện tốt vai trò trung tâm thanh toán quốc gia, tạo được lòng tin của dân chúng đối với hệ thống tiền tệ quốc gia; Và ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phấn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.Vậy nhiệm vụ và chức năng cơ bản của NHNN là gì ?
A - Chức năng cơ bản của Ngân Hàng Nhà Nước :
I- Khái niệm :
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tại Việt Nam. Đây là cơ quan đảm trách việc phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ và tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam như: phát hành tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, soạn thảo các dự thảo luật về kinh doanh ngân hàng và các tổ chức tín dụng, xem xét việc thành lập các ngân hàng và tổ chức tín dụng, quản lý các ngân hàng thương mại nhà nước.. .
II- Chức năng cơ bản :
1. Ngân hàng trung ương là ngân hàng độc quyền phát hành tiền
Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi, ngân hàng trung ương trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp ngân hàng trung ương điều tiết mức cung ứng tiền tổng hợp.
Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được lượng tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để tăng lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế.
2. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian
a. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các ngân hàng trung gian.
Vì các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở tài khoản và kí quỹ tại ngân hàng trung ương nên hoàn toàn thực hiện được vai trò điều tiết thanh toán giữa các ngân hàng giống như những thân chủ mua bán lẫn nhau cùng có một tài khoản ở một ngân hàng. Vai trò này giúp ngân hàng trung ương kiểm soát, theo dõi, quản lý hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính trong nước. Mặt khác có thể quản lý được lượng tín dụng ra vào trong hệ thống tài chính vào những thời điểm nhất định.
b. Ngân hàng trung ương là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng trung gian.
Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt trên tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên phải lưu lại trong kho tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại ngân hàng trung ương, không được cho vay hết.
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược lại. Bằng cách việc quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc , ngân hàng trung ương quản lý một cách chặt chẽ tốc độ và cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng trung gian.
c. Ngân hàng trung ương là cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng trung gian.
Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung gian vay với cách gọi là cho vay chiết khấu. Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất của sự cho vay này là lãi suất chiết khấu. Ngân hàng trung ương là ngân hàng duy nhất không thể vỡ nợ hay kẹt tiền mặt, đơn giản vì nó mất rất ít thời gian để in tiền mới. Cho nên nó có thể cho ngân hàng trung gian vay khi có yêu cầu.
Ngân hàng trung gian có thể cho vay hết dự trữ bắt buộc , vì khi cần thiết nó có thể vay ngân hàng trung ương với lãi suất cũng giống như vay của nhân dân để thanh toán cho nhân dân.
Như vậy khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ làm giảm lượng cung tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là giảm lượng cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế và ngược lại.
Trong vai trò cứu cánh cuối cùng với lãi suất do mình quy định, ngân hàng trung ương dùng lãi suất chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của hệ thống ngân hàng trung gian và của nền kinh tế. Qua đây ta thấy được đây là một công cụ giúp chính phủ quản lý nền kinh tế một cách vĩ mô.
3. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ
a. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của chính phủ
Chính phủ VN ủy quyền cho bộ tài chính hay kho bạc đứng tên và làm chủ tài khoản ở ngân hàng trung ương. Hàng quý, hàng năm, tiền thuế thu được và những khoản thu khác của ngân sách được gửi vào ngân hàng trung ương để ngân hàng trung ương sử dụng và trả lãi. Khi chính phủ cần, bộ tài chính hay kho bạc cũng phải làm thủ tục để rút tiền gửi từ ngân hàng trung ương như một khách hàng bình thường.
Khi chính phủ thâm hụt ngân sách, chính phủ có nhiều cách bù vào như: vay của dân bằng cách phát hành công trái, vay của nước ngoài, vay ứng trước thuế, …, và vay của ngân hàng trung ương. Nếu vay của ngân hàng trung ương thì về nguyên tắc có thể thế chấp bằng các loại tài sản mà chính phủ có như: chứng thư chủ quyền tài sản, chứng khoán, vàng…
Trong trường hợp chính phủ vay mà không thế chấp thì ngân hàng có quyền từ chối. Nếu ngân hàng trung ương không từ chối được thì nó đành phát hành tiền mặt ngoài dự kiến cho chính phủ làm cho tổng cung về tiền tăng lên và nền kinh tế cũng sẽ biến động theo.
Thông qua vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ với nghiệp vụ là cho vay, ngân hàng trung ương làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế, nghĩa là can thiệp vào những biến động của kinh tế vĩ mô.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
“Anh/Chị hãy trình bày các chức năng cơ bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam? Liên hệ về tình hình thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam và chính sách điều hành tiền tệ từ đầu năm 2008 đến nay và dự báo cho năm 2010”
Lời mở đầu :
Công cuộc đổi mới nền kinh tế của nước ta đã đạt được nhiều thành công, các chỉ số kinh tế cơ bản như GDP, xuất nhập khẩu, đầu tư, thu chi ngân sách nhà nước đều đạt được cao và tương đối bền vững, tệ nạn xã hội được đẩy lùi, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Đạt được những kết quả đó, ngoài sự đóng góp chung của cả nước phải kể đến ngành Ngân hàng. Thực tế, ngành Ngân hàng đã có nhiều đóng góp tích cực cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế Việt Nam,
Ngành Ngân hàng Việt Nam phải nỗ lực không ngừng thực hiện mục tiêu “đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Đối với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã trải qua những thăng trầm, vượt qua nhiều khó khăn cũng như tận dụng được những cơ hội quý báu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng: NHNN đã đổi mới mạnh mẽ về cơ cấu tổ chức, thực hiện tốt vai trò quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, tạo nền tảng pháp lý tương đối đồng bộ cho các tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động an toàn và hiệu quả; Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện tốt chức năng của NHTW, điều hành chính sách tiền tề, chính sách tỷ giá và chính sách ngoại hối theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Đồng thời, NHNN thực hiện tốt vai trò trung tâm thanh toán quốc gia, tạo được lòng tin của dân chúng đối với hệ thống tiền tệ quốc gia; Và ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phấn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.Vậy nhiệm vụ và chức năng cơ bản của NHNN là gì ?
A - Chức năng cơ bản của Ngân Hàng Nhà Nước :
I- Khái niệm :
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tại Việt Nam. Đây là cơ quan đảm trách việc phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ và tham mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam như: phát hành tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, soạn thảo các dự thảo luật về kinh doanh ngân hàng và các tổ chức tín dụng, xem xét việc thành lập các ngân hàng và tổ chức tín dụng, quản lý các ngân hàng thương mại nhà nước.. .
II- Chức năng cơ bản :
1. Ngân hàng trung ương là ngân hàng độc quyền phát hành tiền
Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi, ngân hàng trung ương trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ cung ứng tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp ngân hàng trung ương điều tiết mức cung ứng tiền tổng hợp.
Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được lượng tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để tăng lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế.
2. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian
a. Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các ngân hàng trung gian.
Vì các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở tài khoản và kí quỹ tại ngân hàng trung ương nên hoàn toàn thực hiện được vai trò điều tiết thanh toán giữa các ngân hàng giống như những thân chủ mua bán lẫn nhau cùng có một tài khoản ở một ngân hàng. Vai trò này giúp ngân hàng trung ương kiểm soát, theo dõi, quản lý hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính trong nước. Mặt khác có thể quản lý được lượng tín dụng ra vào trong hệ thống tài chính vào những thời điểm nhất định.
b. Ngân hàng trung ương là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân hàng trung gian.
Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt trên tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên phải lưu lại trong kho tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại ngân hàng trung ương, không được cho vay hết.
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược lại. Bằng cách việc quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc , ngân hàng trung ương quản lý một cách chặt chẽ tốc độ và cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng trung gian.
c. Ngân hàng trung ương là cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân hàng trung gian.
Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung gian vay với cách gọi là cho vay chiết khấu. Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất của sự cho vay này là lãi suất chiết khấu. Ngân hàng trung ương là ngân hàng duy nhất không thể vỡ nợ hay kẹt tiền mặt, đơn giản vì nó mất rất ít thời gian để in tiền mới. Cho nên nó có thể cho ngân hàng trung gian vay khi có yêu cầu.
Ngân hàng trung gian có thể cho vay hết dự trữ bắt buộc , vì khi cần thiết nó có thể vay ngân hàng trung ương với lãi suất cũng giống như vay của nhân dân để thanh toán cho nhân dân.
Như vậy khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ làm giảm lượng cung tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là giảm lượng cung tiền trong toàn bộ nền kinh tế và ngược lại.
Trong vai trò cứu cánh cuối cùng với lãi suất do mình quy định, ngân hàng trung ương dùng lãi suất chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của hệ thống ngân hàng trung gian và của nền kinh tế. Qua đây ta thấy được đây là một công cụ giúp chính phủ quản lý nền kinh tế một cách vĩ mô.
3. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ
a. Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của chính phủ
Chính phủ VN ủy quyền cho bộ tài chính hay kho bạc đứng tên và làm chủ tài khoản ở ngân hàng trung ương. Hàng quý, hàng năm, tiền thuế thu được và những khoản thu khác của ngân sách được gửi vào ngân hàng trung ương để ngân hàng trung ương sử dụng và trả lãi. Khi chính phủ cần, bộ tài chính hay kho bạc cũng phải làm thủ tục để rút tiền gửi từ ngân hàng trung ương như một khách hàng bình thường.
Khi chính phủ thâm hụt ngân sách, chính phủ có nhiều cách bù vào như: vay của dân bằng cách phát hành công trái, vay của nước ngoài, vay ứng trước thuế, …, và vay của ngân hàng trung ương. Nếu vay của ngân hàng trung ương thì về nguyên tắc có thể thế chấp bằng các loại tài sản mà chính phủ có như: chứng thư chủ quyền tài sản, chứng khoán, vàng…
Trong trường hợp chính phủ vay mà không thế chấp thì ngân hàng có quyền từ chối. Nếu ngân hàng trung ương không từ chối được thì nó đành phát hành tiền mặt ngoài dự kiến cho chính phủ làm cho tổng cung về tiền tăng lên và nền kinh tế cũng sẽ biến động theo.
Thông qua vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ với nghiệp vụ là cho vay, ngân hàng trung ương làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế, nghĩa là can thiệp vào những biến động của kinh tế vĩ mô.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links