Viêm tai giữa thường là nguyên nhân thứ phát sau viêm nhiễm ở đường mũi họng gây nên, nguyên nhân thường do vi khuẩn, virut gây viêm họng, viêm VA qua vòi nhĩ vào hòm tai là chủ yếu.
Viêm vòi nhĩ, làm ứ tắc đọng dịch trong hòm nhĩ bị bội nhiễm gây mủ trong tai giữa. Ðối với trẻ em suy dinh dưỡng, trẻ bị sởi, cúm, viêm VA thường dễ bị mắc. Và còn một nguyên nhân thường gặp trong mùa hè, đối với những người đi bơi ở hồ, ao, bể bơi có nguồn nước bẩn, sau khi đi bơi không vệ sinh sạch ống tai, để nước bẩn lưu giữ tại ống tai, tạp khuẩn gây viêm nhiễm tại ống tai và lan vào tai giữa. Bệnh thường diễn biến qua các giai đoạn: viêm cấp tính, viêm mạn tính dịch nhầy, viêm mạn tính mủ, viêm mạn tính mủ thối có cholesteatoma, viêm tai giữa xơ dính, viêm xương chũm,...
Giai đoạn viêm sung huyết và tiết dịch thường gặp ở người đang bị viêm mũi họng hay ở trẻ em bị sởi, kèm theo sốt cao, trẻ em thường quấy khóc hay đưa tay lên tai hay lắc đầu kèm theo kêu đau tai. Cần đưa trẻ khám chuyên khoa tai - mũi - họng soi tai thấy màng tai phồng sung huyết hay dày đục, có ngấn nước hay dịch, nếu giai đoạn muộn thường xuất hiện lỗ thủng ở màng nhĩ gây chảy mủ. Việc điều trị cần làm thuốc tai hàng ngày kèm theo điều trị mũi họng, nếu lỗ thủng màng nhĩ ở cao cần trích mở rộng màng nhĩ và nạo VA ở trẻ em nếu có viêm VA kết hợp.
Viêm tai giữa mạn tính: Là quá trình viêm tai giữa thời gian kéo dài nhiều tuần đã được điều trị nhiều lần nhưng tiến triển chậm. Thường chia làm 2 loại viêm tai giữa mạn tính dịch nhầy và viêm tai giữa chảy mủ mạn tính.
- Viêm tai giữa mạn tính dịch nhầy thường gặp ở trẻ em 3-8 tuổi, lâm sàng cho thấy tai chảy dịch nhầy như dịch mũi, nếu lâu ngày không lau tai sạch và làm thuốc tai có thể thành dịch mủ. Những trường hợp này phải tiến hành điều trị sát khuẩn tại chỗ hàng ngày kết hợp điều trị mũi xoang, hay nạo VA.
- Viêm tai giữa chảy mủ mạn tính có cholesteatoma là loại viêm tai giữa nhiễm khuẩn thường gây tổn thương hệ thống xương con trong hòm nhĩ, phá hủy mê nhĩ và có thể gây ra các biến chứng sọ não rất nặng như: viêm tắc xoang tĩnh mạch bên, nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não, áp xe tiểu não, v.v...
Về biểu hiện lâm sàng của viêm tai giữa: đầu tiên người bệnh nghe kém, chảy mủ tai thường xuyên, nhưng rất thối. Khám tai thường thấy lỗ thủng ở màng chùng phía sau trên hay lỗ thủng rộng sát thành ống tai, X quang trên phim tư thế Schuller thấy hình ảnh viền xương như hốc rỗng do phản ứng xương đặc ngà tạo nên.
- Viêm tai xương chũm cấp tính: Thường xảy ra sau viêm tai giữa cấp tính không được điều trị dứt điểm, dùng kháng sinh không đúng liều lượng, không phù hợp, nên gây ra biến chứng viêm tai xương chũm. Biểu hiện lâm sàng thường đau tai tăng lên kèm theo sốt, đau nửa đầu dữ dội. Soi tai thấy mủ đặc tai giữa, ấn vùng xương chũm đau. Chụp X quang tư thế Schuller tế bào xương chũm mờ, vách tế bào bị phá hủy.
- Viêm tai xương chũm mạn tính hồi viêm là đợt cấp của viêm tai xương chũm mạn tính, bệnh nhân có tiền sử viêm tai xương chũm đã được điều trị nhiều lần, lâm sàng tương đối ổn định, tai khô, đỡ ù tai, đột ngột xuất hiện đau tai, ù tai tăng lên, nghe kém, có thể kèm theo chóng mặt, mủ tai chảy nhiều hơn kèm theo sốt cao, ấn vùng xương chũm rất đau. Trong đợt hồi viêm rất dễ xảy ra các biến chứng nguy hiểm đến tính mạng như: liệt mặt, viêm mê nhĩ, biến chứng sọ não - áp xe ngoài màng cứng, viêm màng não, áp xe tiểu não, áp xe đại não, viêm tĩnh mạch bên và nhiễm khuẩn huyết.
Ðiều trị viêm tai xương chũm mạn tính, việc điều trị nội khoa cần được cân nhắc với mức độ tổn thương các tế bào xoang chũm và lâm sàng tại chỗ tai người bệnh để chỉ định phù hợp. Ðầu tiên là phải thường xuyên làm thuốc tai tại chỗ do các thầy thuốc tai - mũi - họng tiến hành kết hợp với kháng sinh chống nhiễm khuẩn là quan trọng, cần lựa chọn kháng sinh thích hợp và đủ liều. Ðối với viêm mạn tính, yếu tố viêm kéo dài đã gây ra sự biến đổi niêm mạc ở vùng hang chũm và hòm tai, nên việc điều trị cần tái lập điều kiện sinh lý bình thường của tai giữa và các tổ chức phụ thuộc. Vì vậy quá trình điều trị bảo tồn phải kiên trì, việc lựa chọn sử dụng kháng sinh điều trị viêm tai xương chũm hiện nay thường được dùng các nhóm penicilline - cephalosporine có phổ rộng cephalotine, cefuroxime, cefotaxime, đối với nhóm quinolone không nên dùng cho trẻ em dưới 15 tuổi.
Vấn đề điều trị ngoại khoa thường được chỉ định rộng rãi và đạt hiệu quả tốt, nếu kết hợp phẫu thuật chống viêm và tạo hình màng tai phục hồi chức năng cho người bệnh là kết quả lý tưởng nhất. Những kỹ thuật này thường được tiến hành ở các cơ sở y tế chuyên khoa.
Tóm lại, việc điều trị viêm tai giữa mạn tính có đạt kết quả tốt hay không phụ thuộc chủ yếu ở người bệnh. Trong quá trình điều trị thường kết hợp các loại kháng sinh toàn thân, chống phù nề và việc thường xuyên làm thuốc tai hàng ngày. Lưu ý: trước khi nhỏ thuốc tai phải lau sạch mủ ở tai giữa bằng dung dịch oxy già, sau đó bơm vào tai các dung dịch thuốc nhỏ tai như: effexin, oflocet auriculare, polydexa,... nên đặt meche (gạc dẫn lưu) ống tai để lưu giữ thuốc tại chỗ. Sau khi tai khô hết chảy mủ và đỡ ù, việc giữ vệ sinh tai là điều cần thiết, nên tránh bụi, nước bẩn vào tai và vệ sinh mũi họng cần được chú ý thường xuyên, để tránh tái phát viêm tai giữa.