Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
CƠ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là một cách chủ yếu và là xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh tế thế giới hiện nay. Trong xu thế này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới nói chung và các thành phần trong nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng cường các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và các cấp độ liên kết khu vực. Bởi vậy xu thế này đang chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện ở các biện pháp mở cửa thị trường, tự do hoá nền kinh tế của một quốc gia hay việc tham gia của quốc gia này vào các cam kết thoả thuận hợp tác kinh tế thương mại song phương (giữa hai nước với nhau), khu vực (tham gia vào một tổ chức hợp tác giữa các nước trong cùng một khu vực địa lý như khu vực Đông Nam á – ASEAN…), đa phương ở phạm vi toàn cầu như tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới - WTO. Mục tiêu bao trùm, lớn nhất và nhất quán của việc hội nhập kinh tế quốc tế, dù ở cấp độ đơn phương của một quốc gia hay tham gia các định chế khu vực và toàn cầu đều hướng tới việc tự do hoá thương mại, đầu tư ở tầm quốc gia, khu vực và thế giới.
Nắm bắt được xu thế khách quan của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới, Việt Nam đã tiến hành các chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa và cải cách nền kinh tế. Đối với nước ta, Đảng đã khẳng định: "Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Điều này chứng tỏ rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những quan điểm chiến lược, là con đường tất yếu đất nước phải trải qua để tiến nhanh trở thành nước công nghiệp hoá hiện đại, là con đường cả nước ta phải chủ động bước vào với quyết tâm chính trị cao nhất. Bởi hội nhập kinh tế đặt các quốc gia, các nền kinh tế vào tình huống phải vận động, phải năng động, đây vừa thách thức và cũng là thời cơ lớn, nếu không tận dụng được thì đất nước tiếp tục lạc hậu, đói nghèo. Do vậy, tất yếu đòi hỏi Việt Nam phải xử lý thành công mọi thách thức và nắm lấy mọi cơ hội trên con đường hội nhập vào xu thế vận động của kinh tế thế giới ngày nay.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế chung trên toàn cầu, một thị trường thế giới chung. Quá trình này vận động trên nền tảng của nền kinh tế tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh càng phát triển, thì thị trường của nền kinh tế thế giới càng rộng, càng tự do. Thị trường càng rộng, càng thông thoáng thì những nước mạnh về vỗn, giàu kinh nghiệm quản lý, nhạy bén trong việc vận dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến càng có nhiều lợi thế, phần bất lợi thuộc về những nước đang phát triển, yếu về vốn, hạn chế về kinh nghiệm quản lý và nhất là không tận dụng được những lợi thế do toàn cầu hoá và cách mạng khoa học công nghệ mang lại.
Đối với các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng, hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra nhiều cơ hội và cũng đặt ra không ít thách thức phải vượt qua. Những nước phát triển và các tập đoàn kinh tế của họ đang chi phối quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển. Hố ngăn cách giữa nước giàu với nước nghèo, giữa người giàu và người cùng kiệt có nguy cơ ngày càng sâu rộng; giá trị bản sắc văn hoá dân tộc ngày càng bị xói mòn; tính phụ thuộc một chiều của các nước cùng kiệt vào các nước giàu ngày càng gia tăng nếu quốc gia đó không phát huy được hiệu quả nội lực và tận dụng tốt các nguồn lực bên ngoài, .v.v.
Sau 11 năm nộp đơn, chuẩn bị các điều kiện và thực hiện đàm pháp gia nhập WTO, mới đây Việt Nam đã kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ, quốc gia cuối cùng trên con đường Việt Nam gia nhập WTO và nước ta sẽ chính thức trở thành thành viên của Tổ chức kinh tế lớn nhất toàn cầu này trong một tương lai rất gần.Việc gia nhập WTO thể hiện sự nỗ lực tổng hợp của nước ta, đồng thời cũng thể hiện nước ta đã hoàn tất bước đi cuối cùng của quá trình chuẩn bị để tham gia vào toàn bộ các thể chế hiện hành của kinh tế quốc tế.
Có thể nói rằng vấn đề chung nhất, tổng quát nhất, quan trọng nhất trong hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay là làm thế nào để hội nhập có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sức cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu chung là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
I. Những vấn đề chung của hội nhập kinh tế quốc tế
Tiến trình hội nhập của nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới đang đi vào chiều sâu với việc thực hiện trên diện rộng các cam kết quốc tế mà nước ta phải thực hiện. Xét trên bình diện kinh tế quốc tế, hội nhập là thước đo hiệu quả của mọi nền kinh tế, nó đặt ra những chuẩn mực thương mại ngày càng cao hơn và tác động mạnh mẽ tới diện mạo thương mại thế giới nói chung và bức tranh kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Những diện mạo đó biểu hiện ở cả trạng thái “động” lẫn trạng thái “tĩnh” và điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh của mỗi nền kinh tế và cách tham gia của các chủ thể. Có thể thấy rằng việc đổi mới chủ trương, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước là một trong nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, nhưng đồng thời thực tiễn những năm vừa qua cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề cần phân tích lý giải. Dưới đây là một số vấn đề cơ bản của hội nhập kinh tế đang đặt ra cho nước ta đòi hỏi sự đồng lòng, quyết tâm cao của Nhà nước nói chung, của doanh nghiệp nói riêng,…để giải quyết tốt những vấn đề đang đặt ra và có thể nảy sinh nhằm góp phần thành công vào tiến trình hội nhập kinh tế:
1. Vấn đề hoàn thiện thế chế thương mại
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải chấp nhận "luật chơi" và "cách chơi" của các sân chơi khác nhau như: WTO, ASEAN, APEC..., song cho tới nay cơ chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại của nước ta vẫn còn nhiều bất cập mặc dù đã có những điều chỉnh bổ sung tích cực. Bởi hiện nay, cơ chế, hệ thống pháp luật chúng ta đang áp dụng vẫn còn có những yếu tố, những điều khoản chưa phù hợp với "luật chơi" của WTO, ASEAN, APEC (chẳng hạn như chính sách thuế của nước ta chưa thể hiện được như một công cụ kích thích và điều tiết sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế) trong khi những biện pháp, chính sách mà được các tổ chức trên thừa nhận tạo lợi thế cho kinh tế và thương mại thì chúng ta lại chưa có. Đây là một điểm yếu mà Việt Nam cần lưu ý khắc phục.
Thể chế thương mại là những luật lệ, hình thức, các định chế và chế tài quy định luật chơi và cách chơi đối với các chủ thể tham gia trên thị trường. Nền kinh tế thương mại thế giới hiện nay đang vận động trong bối cảnh của quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá diễn ra rất sâu sắc, nhanh chóng. Khái niệm về ranh giới giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài đã bị thay đổi theo hướng đan xen với nhiều hình thức quan hệ đa dạng, phức tạp. Các chiến lược phát triển hướng vào xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu không còn giữ nguyên ý nghĩa cổ điển của nó, bởi vì thị trường của mỗi quốc gia đều phải "mở cửa" thông qua việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Các cuộc chiến tranh thương mại nhằm giành giật thị trường giữa hàng nội và hàng ngoại ngày một trở nên quyết liệt hơn.
Do đó, để đảm bảo một sân chơi cạnh tranh theo đúng chuẩn mực và thông lệ quốc tế đòi hỏi nước ta phải hoàn thiện thể chế thương mại theo hướng phù hợp với những nguyên tắc và thông lệ thương mại quốc tế. Đây là vấn đề đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với nước ta bởi nước ta là một quốc gia đang chuyển đổi nền kinh tế, việc tổng kết thực tiễn phát triển cũng như dự báo kinh tế quốc tế còn hạn chế dẫn đến những khó khăn có tính chất cơ sở trong việc hoàn thiện thể chế thương mại sao cho vừa phải phù hợp với những chuẩn mực và thông lệ thương mại quốc tế, vừa phải phù hợp với thực tiễn và bối cảnh cụ thể của nước ta.
2. Vấn đề về nâng cao năng lực cạnh tranh
Ngày nay, cạnh tranh là một quy luật tất yếu và là động lực phát triển nền kinh tế thị trường. Trong thương mại quốc tế, cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền kinh tế thị trường tự do dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả mãn được các nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh, không một chính phủ nào cần quy định các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì với số lượng, chất lượng và giá cả thế nào. Cạnh tranh trực tiếp quy định những vấn đề đó với các doanh nghiệp. Theo nhà kinh tế học Alan V. Deardorff, khái niệm “năng lực cạnh tranh” thường dùng để nói đến các đặc tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách có hiệu quả với các hãng khác nhờ có chi phí thấp hay sự vượt trội về công nghệ trong so sánh quốc tế.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, tính đến thời điểm hiện tại, nền sản xuất hàng hoá của Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, trình độ phát triển chung còn thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp còn yếu, sản phẩm của các doanh nghiệp làm ra mẫu mã cùng kiệt nàn, bao bì, nhãn mác xấu, thiếu các kênh phân phối, tiếp thị chưa bài bản, chi phí đầu vào cao, nguyên liệu cho sản xuất có đến 80% phải nhập khẩu vừa làm giảm lợi nhuận vừa dễ xảy ra rủi ro do giao hàng chậm vì không chủ động nguyên liệu, trong khi đó hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi tính cạnh tranh ngày càng cao, ngày càng hốc liệt. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của doanh nghiệp nói riêng trong tiến trình hội nhập là yêu cầu sống còn đối với nước ta nếu không muốn bị thua ngay trên "sân nhà" nói riêng, trên thương trường quốc tế nói chung. Do đó, đây vừa là một vấn đề, vừa là một nội dung quan trọng trong bối cảnh mở cửa toàn diện nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (gồm năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ) là nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại trong hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Bởi xây dựng một nền kinh tế thị trường năng động thì cạnh tranh được coi là công cụ hữu hiệu để thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả và chất lượng, tạo dựng nên những doanh nghiệp thành đạt, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Nói cách khác một nền kinh tế thị trường hiện đại là một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế đó. Điều này có nghĩa là để sức cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng cao, chúng ta phải có một cơ cấu kinh tế hiện đại và thích ứng với cơ cấu kinh tế thế giới hôm nay. Thực tế cho thấy sức cạnh tranh của nền kinh tế của ta còn thấp, doanh nghiệp của ta còn yếu, trong khi đó hội nhập thì chúng ta phải mở cửa thị trường để hàng hoá nước ngoài vào và điều này sẽ gây khó khăn cho nền kinh tế và doanh nghiệp nước ta. Do đó, nếu không có những giải pháp đồng bộ, nếu không xây dựng được một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao hơn thì sẽ kéo theo nạn thất nghiệp gia tăng, xã hội sẽ phức tạp và chúng ta sẽ là người tụt hậu, chúng ta sẽ ở lại cùng với sự đói nghèo, trong lúc những người chiến thắng bứt lên phía trước.
2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Doanh nghiệp đóng vai trò chủ yếu tạo ra sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. Để đáp ứng đòi hỏi của thị trường và yêu cầu hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, vấn đề đặt ra là cần tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thực trạng hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn thể hiện ở những bất cập sau đòi hỏi phải được khắc phục ngay:
Thứ nhất, khả năng cạnh tranh yếu về mặt tài chính. Quy mô vốn và năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều doanh nghiệp còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững.
Thứ hai, khả năng cạnh tranh yếu về quản lý. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế.
Thứ ba, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu của của hàng hoá, dịch vụ và các doanh nghiệp nước ta. Vấn đề này đã được nhiều nhà chuyên môn phân tích khi so sánh giữa sản phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines.
Thứ tư, nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Một số khá lớn doanh nghiệp nước ta còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu công nghiệp. Tình trạng các doanh nghiệp bị các cơ quan chức năng phàn nàn, thậm chí “thổi còi” vì vi phạm các chế độ về thuế, tài chính còn khá phổ biến. Một trong những nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận thức, hiểu biết của doanh nghiệp về luật pháp còn nhiều hạn chế.
Để vượt qua những hạn chế nêu trên, con đường phát triển duy nhất là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ của nước ta. Vì nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ chính là nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành. Tuy nhiên vấn đề này cũng còn phụ thuộc vào cả chính sách quốc gia.
3. Vấn đề xây dựng và quảng bá thương hiệu trong bối cảnh hội nhập
Trong thời đại mở cửa, hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, rõ ràng không ai là không biết đến các giá trị của thương hiệu. Cụm từ "thương hiệu" được nói đến đầu tiên khi lý giải về sự thành công của một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ hay một doanh nghiệp nào đó. Thậm chí, một ca sĩ tên tuổi được mời biểu diễn liên tục nhiều nơi, một diễn viên được mời đóng nhiều phim người ta cũng đánh giá là do...."có thương hiệu".
Ngày nay, một quốc gia mạnh về kinh tế là quốc gia sở hữu những doanh nghiệp mạnh và năng động. Một doanh nghiệp mạnh là doanh nghiệp sở hữu những thương hiệu mạnh phục vụ cho mục tiêu quốc gia. Một thương hiệu tầm cỡ quốc tế không chỉ đơn thuần là tài sản của bản thân doanh nghiệp mà chính là niềm kiêu hãnh của cả một quốc gia, là niềm cảm hứng cho các thương hiệu khác vươn lên mạnh mẽ.
Tầm quan trọng của thương hiệu hầu như không còn được bàn cãi nữa. Nhưng trên thực tế, thực trạng xây dựng và quảng bá thương hiệu ở các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu và chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho việc xây dựng và quản bá thương hiệu Việt Nam. Do đó mà yêu cầu cấp thiết đang đặt ra cho Việt Nam là làm gì để khẳng định và quảng bá thương hiệu trong bối cảnh hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế. Đặc biệt, khi thương hiệu đã trở thành tài sản của doanh nghiệp, thì một yêu cầu bức xúc lại đặt ra là làm thế nào để bảo vệ thương hiệu của mình trước nạn xâm phạm thương hiệu đang xảy ra ngày càng nhiều trên thị trường. Thương hiệu thành công là phải tạo được cảm giác thân quen với người tiêu dùng.
3.1. Xây dựng thương hiệu
Trong bối cảnh hội nhập và mở cửa nền kinh tế, không ai có thể phủ nhận giá trị của thương hiệu trong kinh doanh và câu chuyện thương hiệu đã trở thành một vấn đề thời sự trong kinh doanh, song nhiều doanh nghiệp và các tập đoàn kinh tế Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến việc đầu tư cho thương hiệu của mình, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập như hiện nay.Tuy nhiên, việc đầu tư để xây dựng một thương hiệu tầm cỡ cũng đang là vấn đề đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi tập đoàn kinh tế và mỗi doanh nghiệp của nước ta.
3.2. Đăng ký thương hiệu hàng hoá
Hội nhập, thương hiệu hàng hoá phải trở thành tài sản quan trọng của mỗi doanh nghiệp, phát triển thương hiệu là quá trình tạo lập uy tín đối với người tiêu dùng và giúp cho doanh nghiệp thực hiện được kinh doanh lợi nhuận. Như vậy, Thương hiệu sản phẩm đã trở thành tài sản vô hình có giá trị rất lớn (trong đa số trường hợp còn lớn hơn tài sản hữu hình) và không thể thiếu của các doanh nghiệp vì giá trị của tài sản phụ thuộc vào uy tín và quy mô thương hiệu được sử dụng, nó sẽ là một công cụ đắc lực cho kinh doanh, và sẽ là nguồn vốn rất có giá trị khi doanh nghiệp thực hiện việc chuyển nhượng, bán li-xăng hay liên doanh. Vì thế, thương hiệu hàng hoá khi đã được xây dựng, các doanh nghiệp cần đăng ký trong tiến trình hội nhập vào thị trường thế giới.
3.3. Bảo hộ thương hiệu bằng luật pháp
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và quyền lợi chính đáng của nhà sản xuất, Nhà nước cần ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế. Đồng thời, Luật nhãn hiệu hàng hoá phải có hiệu lực và hiệu quả trong việc ngăn chặn không cho phép bên thứ 3 sử dụng hàng hoá trùng sản phẩm cùng loại với nhãn hiệu đã được đăng ký, mà còn ngăn chặn cả việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá tương tự cho các sản phẩm tương tự, nếu việc sử dụng này gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá.
II. Một số vấn đề cơ bản của hội nhập khu vực và gia nhập WTO
1. Khu vực ASEAN
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. Các tranh chấp thương mại quốc tế dưới nhiều hình thức sẽ ngày càng phổ biến. Đối với ASEAN,việc thực hiện trên diện rộng các cam kết cắt giảm thuế trong khuôn khổ ASEAN (AFTA) vào năm nay(2006), Việt Nam sẽ đưa 96% số dòng của biểu thuế với khoảng trên 10.000 mặt hàng về mức 0-5% đồng thời bắt đầu lộ trình cắt giảm thuế đối với các mặt hàng thuộc diện “nhạy cảm”. Các sản phẩm của Việt Nam, đặc biệt là hàng tiêu dùng, sẽ đứng trước sức ép cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN.
Bên cạnh sức ép cạnh tranh với hàng hoá của các nước trong khối ASEAN thì việc xây cộng đồng ASEAN vững mạnh còn là một trong những nhiệm vụ cơ bản của nước ta. Bởi nước ta là một thành viên quan trọng của Hiệp hội Đông Nam Á. Ngoài hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta phải góp phần củng cố ASEAN thành cộng đồng vững mạnh, đây là nhiệm vụ quốc tế quan trọng không chỉ riêng Việt Nam mà còn tất cả các thành viên trong khối. Bởi một điều chắc chắn rằng, Đông Nam á cho đến nay vẫn là vùng đệm, vùng tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế mà nước ta ở vào vị trí quan trọng, được các nước lớn quan tâm. ASEAN trở thành cộng đồng vững mạnh với vai trò ngày càng tăng của nước ta sẽ tạo ra lợi thế quan trọng cho ASEAN, trong đó tất nhiên có Việt Nam, quan hệ bình đẳng và thu hút được nhiều hơn nguồn lực từ các nước lớn. Một khi ASEAN bị phân rã, các nước lớn có cơ hội dùng chính sách "chia để trị". Do vậy, nước ta cần đóng vai trò tích cực hơn trong tiến trình củng cố cộng đồng ASEAN. Chúng ta phải vượt lên những tính toán kinh tế vì ý nghĩa chính trị to lớn của ASEAN, vì vị thế của ASEAN cũng như của nước ta trước những toan tính chiến lược của các nước lớn.
2. Việc gia nhập WTO
2.1. Vài nét về WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thành lập ngày 01-01-1995 với tư cách là thể chế pháp lý điều tiết các mối quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế mang tính toàn cầu. WTO ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả các nguyên tắc, luật lệ của tổ chức tiền thân đã tồn tại gần 50 năm trước đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).
2.1.1. WTO có các chức năng cơ bản sau:
- Quản lý việc thực hiện các hiệp ước của WTO
- Diễn đàn đàm phán về thương mại
- Giải quyết các tranh chấp về thương mại
- Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia
- Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
2.1.2. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO
WTO hoạt động dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới là:
- Thương mại không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia);
- Thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán);
- Dễ đoán (tức có thể đoán trước được) nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch;
- Tạo ra (nhằm thúc đẩy) môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn;
- Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế (bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển nhất).
(1). Thương mại không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):
"Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước (được) ưu đãi nhất", "nước (được) ưu tiên nhất".
Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc WTO quy định rằng, các quốc gia không được phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: mỗi thành viên của WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được "ưu tiên nhất". Và như vậy, kết quả là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác thương mại nào.
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT):
"Đối xử quốc gia" nghĩa là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa.
Nội dung của nguyên tắc này là hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc nêu trên như sau: Nếu nguyên tắc "tối huệ quốc" nhằm mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhà xuất khẩu hàng hoá, cung cấp dịch vụ... của các nước A, B, C...khi xuất khẩu vào một nước X nào đó thì nguyên tắc "đãi ngộ quốc gia" nhằm tới mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước X trên thị trường nước X, sau khi hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A đã thâm nhập (qua hải quan, đã trả thuế và các chi phí khác tại cửa khẩu) vào thị trường nước X.
(2). Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm phán)
Để thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế, hạn ngạch, giấy phép...). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO đã cho thấy đó chính là lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan, rồi bao trùm cả đàm phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, rồi dần dần mở rộng sang đàm phán cả những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền kinh tế trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị trường là khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị trường không chỉ có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước. Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với quy định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.
(3). Dễ đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch
Đây là nguyên tắc quan trọng của WTO. Mục tiêu của nguyên tắc này là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của họ. Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Đây là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên của WTO tạo ra một môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán.
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm các công việc như sau:
- Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan:
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một bản danh mục thuế quan. Đây gọi là các mức thuế suất ràng buộc. Nói cách khác, ràng buộc là việc đưa ra danh mục ấn định các mức thuế ở mức tối đa nào đó và không được phép tăng hay thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài. Một nước có thể sửa đổi, thay đổi mức thuế đã cam kết, ràng buộc chỉ sau khi đã đàm phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do việc tăng thuế đó gây ra.
- Về các biện pháp phi thuế quan:
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hay hạn chế định lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự do thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này sẽ bị buộc phải loại bỏ hay chấm dứt.
Để có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu cầu chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai ("minh bạch") các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình. Đồng thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên thông qua Cơ chế rà soát chính sách thương mại.
(4). Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp...hay các biện pháp bảo hộ khác.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường do người nước ngoài đến làm ăn, buôn bán ở Việt Nam, do vậy đa số họ phải thuê đất để đặt trụ sở, nhà máy, phải thuê người địa phương làm công cho họ. Vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn, nắm giữ các bí quyết công nghệ tiên tiến hơn, có trình độ quản lý giỏi hơn nên họ có nhiều cơ hội để thành công hơn trong việc sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ so với các doanh nghiệp trong nước. Dần dần khi họ đã chiếm được thị phần, để tiếp tục mở rộng thị phần, họ sẽ tìm cách "mua" lại, thôn tính các doanh nghiệp trong nước đang làm ăn thua lỗ, khó khăn (về thị trường, về đầu ra, thiếu vốn để đổi mới công nghệ, để thuê quản lý giỏi), vừa đạt mục tiêu loại bớt đối thủ trên thị trường, vừa tận dụng được mặt bằng, tận dụng nhà xưởng, tận dụng công nhân đã có tay nghề của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Để tiết kiệm tiền lương, tiết kiệm chi phí về ăn ở đối với công nhân, cán bộ quản lý, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ tìm cách thuê người Việt Nam hơn là đưa người nước ngoài sang Việt Nam. Các chuyên gia có tay nghề giỏi, các cán bộ quản lý có tài kinh doanh, tổ chức làm việc ở các doanh nghiệp nhà nước chính là mục tiêu "săn đầu người" của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Bằng cách trả lương cao, hứa hẹn sự thăng tiến, đãi ngộ (về đào tạo, về phúc lợi tham quan du lịch, nghỉ ngơi...), các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ bỏ tiền mua chuộc các cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp của các doanh nghiệp trong nước chuyển sang làm việc ở các công ty có vốn nước ngoài, vừa đỡ tốn tiền thuê các vị trí tương đương là người nước ngoài, vừa làm suy yếu các doanh nghiệp trong nước.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
CƠ SỞ LÝ LUẬN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế là một cách chủ yếu và là xu thế phát triển không thể đảo ngược của nền kinh tế thế giới hiện nay. Trong xu thế này, sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới nói chung và các thành phần trong nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng đang ngày một gia tăng, được thể hiện ở xu hướng tăng cường các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và các cấp độ liên kết khu vực. Bởi vậy xu thế này đang chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện ở các biện pháp mở cửa thị trường, tự do hoá nền kinh tế của một quốc gia hay việc tham gia của quốc gia này vào các cam kết thoả thuận hợp tác kinh tế thương mại song phương (giữa hai nước với nhau), khu vực (tham gia vào một tổ chức hợp tác giữa các nước trong cùng một khu vực địa lý như khu vực Đông Nam á – ASEAN…), đa phương ở phạm vi toàn cầu như tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới - WTO. Mục tiêu bao trùm, lớn nhất và nhất quán của việc hội nhập kinh tế quốc tế, dù ở cấp độ đơn phương của một quốc gia hay tham gia các định chế khu vực và toàn cầu đều hướng tới việc tự do hoá thương mại, đầu tư ở tầm quốc gia, khu vực và thế giới.
Nắm bắt được xu thế khách quan của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới, Việt Nam đã tiến hành các chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa và cải cách nền kinh tế. Đối với nước ta, Đảng đã khẳng định: "Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Điều này chứng tỏ rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những quan điểm chiến lược, là con đường tất yếu đất nước phải trải qua để tiến nhanh trở thành nước công nghiệp hoá hiện đại, là con đường cả nước ta phải chủ động bước vào với quyết tâm chính trị cao nhất. Bởi hội nhập kinh tế đặt các quốc gia, các nền kinh tế vào tình huống phải vận động, phải năng động, đây vừa thách thức và cũng là thời cơ lớn, nếu không tận dụng được thì đất nước tiếp tục lạc hậu, đói nghèo. Do vậy, tất yếu đòi hỏi Việt Nam phải xử lý thành công mọi thách thức và nắm lấy mọi cơ hội trên con đường hội nhập vào xu thế vận động của kinh tế thế giới ngày nay.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ hình thành một cơ cấu kinh tế chung trên toàn cầu, một thị trường thế giới chung. Quá trình này vận động trên nền tảng của nền kinh tế tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh càng phát triển, thì thị trường của nền kinh tế thế giới càng rộng, càng tự do. Thị trường càng rộng, càng thông thoáng thì những nước mạnh về vỗn, giàu kinh nghiệm quản lý, nhạy bén trong việc vận dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến càng có nhiều lợi thế, phần bất lợi thuộc về những nước đang phát triển, yếu về vốn, hạn chế về kinh nghiệm quản lý và nhất là không tận dụng được những lợi thế do toàn cầu hoá và cách mạng khoa học công nghệ mang lại.
Đối với các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng, hội nhập kinh tế quốc tế vừa tạo ra nhiều cơ hội và cũng đặt ra không ít thách thức phải vượt qua. Những nước phát triển và các tập đoàn kinh tế của họ đang chi phối quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước đang phát triển. Hố ngăn cách giữa nước giàu với nước nghèo, giữa người giàu và người cùng kiệt có nguy cơ ngày càng sâu rộng; giá trị bản sắc văn hoá dân tộc ngày càng bị xói mòn; tính phụ thuộc một chiều của các nước cùng kiệt vào các nước giàu ngày càng gia tăng nếu quốc gia đó không phát huy được hiệu quả nội lực và tận dụng tốt các nguồn lực bên ngoài, .v.v.
Sau 11 năm nộp đơn, chuẩn bị các điều kiện và thực hiện đàm pháp gia nhập WTO, mới đây Việt Nam đã kết thúc đàm phán song phương với Hoa Kỳ, quốc gia cuối cùng trên con đường Việt Nam gia nhập WTO và nước ta sẽ chính thức trở thành thành viên của Tổ chức kinh tế lớn nhất toàn cầu này trong một tương lai rất gần.Việc gia nhập WTO thể hiện sự nỗ lực tổng hợp của nước ta, đồng thời cũng thể hiện nước ta đã hoàn tất bước đi cuối cùng của quá trình chuẩn bị để tham gia vào toàn bộ các thể chế hiện hành của kinh tế quốc tế.
Có thể nói rằng vấn đề chung nhất, tổng quát nhất, quan trọng nhất trong hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay là làm thế nào để hội nhập có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sức cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu chung là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
I. Những vấn đề chung của hội nhập kinh tế quốc tế
Tiến trình hội nhập của nước ta vào kinh tế khu vực và thế giới đang đi vào chiều sâu với việc thực hiện trên diện rộng các cam kết quốc tế mà nước ta phải thực hiện. Xét trên bình diện kinh tế quốc tế, hội nhập là thước đo hiệu quả của mọi nền kinh tế, nó đặt ra những chuẩn mực thương mại ngày càng cao hơn và tác động mạnh mẽ tới diện mạo thương mại thế giới nói chung và bức tranh kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Những diện mạo đó biểu hiện ở cả trạng thái “động” lẫn trạng thái “tĩnh” và điều này hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh của mỗi nền kinh tế và cách tham gia của các chủ thể. Có thể thấy rằng việc đổi mới chủ trương, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước là một trong nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành công trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, nhưng đồng thời thực tiễn những năm vừa qua cũng đã bộc lộ nhiều vấn đề cần phân tích lý giải. Dưới đây là một số vấn đề cơ bản của hội nhập kinh tế đang đặt ra cho nước ta đòi hỏi sự đồng lòng, quyết tâm cao của Nhà nước nói chung, của doanh nghiệp nói riêng,…để giải quyết tốt những vấn đề đang đặt ra và có thể nảy sinh nhằm góp phần thành công vào tiến trình hội nhập kinh tế:
1. Vấn đề hoàn thiện thế chế thương mại
Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải chấp nhận "luật chơi" và "cách chơi" của các sân chơi khác nhau như: WTO, ASEAN, APEC..., song cho tới nay cơ chế, hệ thống chính sách kinh tế, thương mại của nước ta vẫn còn nhiều bất cập mặc dù đã có những điều chỉnh bổ sung tích cực. Bởi hiện nay, cơ chế, hệ thống pháp luật chúng ta đang áp dụng vẫn còn có những yếu tố, những điều khoản chưa phù hợp với "luật chơi" của WTO, ASEAN, APEC (chẳng hạn như chính sách thuế của nước ta chưa thể hiện được như một công cụ kích thích và điều tiết sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế) trong khi những biện pháp, chính sách mà được các tổ chức trên thừa nhận tạo lợi thế cho kinh tế và thương mại thì chúng ta lại chưa có. Đây là một điểm yếu mà Việt Nam cần lưu ý khắc phục.
Thể chế thương mại là những luật lệ, hình thức, các định chế và chế tài quy định luật chơi và cách chơi đối với các chủ thể tham gia trên thị trường. Nền kinh tế thương mại thế giới hiện nay đang vận động trong bối cảnh của quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá diễn ra rất sâu sắc, nhanh chóng. Khái niệm về ranh giới giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài đã bị thay đổi theo hướng đan xen với nhiều hình thức quan hệ đa dạng, phức tạp. Các chiến lược phát triển hướng vào xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu không còn giữ nguyên ý nghĩa cổ điển của nó, bởi vì thị trường của mỗi quốc gia đều phải "mở cửa" thông qua việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Các cuộc chiến tranh thương mại nhằm giành giật thị trường giữa hàng nội và hàng ngoại ngày một trở nên quyết liệt hơn.
Do đó, để đảm bảo một sân chơi cạnh tranh theo đúng chuẩn mực và thông lệ quốc tế đòi hỏi nước ta phải hoàn thiện thể chế thương mại theo hướng phù hợp với những nguyên tắc và thông lệ thương mại quốc tế. Đây là vấn đề đang đặt ra những thách thức không nhỏ đối với nước ta bởi nước ta là một quốc gia đang chuyển đổi nền kinh tế, việc tổng kết thực tiễn phát triển cũng như dự báo kinh tế quốc tế còn hạn chế dẫn đến những khó khăn có tính chất cơ sở trong việc hoàn thiện thể chế thương mại sao cho vừa phải phù hợp với những chuẩn mực và thông lệ thương mại quốc tế, vừa phải phù hợp với thực tiễn và bối cảnh cụ thể của nước ta.
2. Vấn đề về nâng cao năng lực cạnh tranh
Ngày nay, cạnh tranh là một quy luật tất yếu và là động lực phát triển nền kinh tế thị trường. Trong thương mại quốc tế, cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền kinh tế thị trường tự do dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả mãn được các nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh, không một chính phủ nào cần quy định các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì với số lượng, chất lượng và giá cả thế nào. Cạnh tranh trực tiếp quy định những vấn đề đó với các doanh nghiệp. Theo nhà kinh tế học Alan V. Deardorff, khái niệm “năng lực cạnh tranh” thường dùng để nói đến các đặc tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách có hiệu quả với các hãng khác nhờ có chi phí thấp hay sự vượt trội về công nghệ trong so sánh quốc tế.
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, tính đến thời điểm hiện tại, nền sản xuất hàng hoá của Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, trình độ phát triển chung còn thấp, sức cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp còn yếu, sản phẩm của các doanh nghiệp làm ra mẫu mã cùng kiệt nàn, bao bì, nhãn mác xấu, thiếu các kênh phân phối, tiếp thị chưa bài bản, chi phí đầu vào cao, nguyên liệu cho sản xuất có đến 80% phải nhập khẩu vừa làm giảm lợi nhuận vừa dễ xảy ra rủi ro do giao hàng chậm vì không chủ động nguyên liệu, trong khi đó hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi tính cạnh tranh ngày càng cao, ngày càng hốc liệt. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung, của doanh nghiệp nói riêng trong tiến trình hội nhập là yêu cầu sống còn đối với nước ta nếu không muốn bị thua ngay trên "sân nhà" nói riêng, trên thương trường quốc tế nói chung. Do đó, đây vừa là một vấn đề, vừa là một nội dung quan trọng trong bối cảnh mở cửa toàn diện nền kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (gồm năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ) là nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại trong hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Bởi xây dựng một nền kinh tế thị trường năng động thì cạnh tranh được coi là công cụ hữu hiệu để thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả và chất lượng, tạo dựng nên những doanh nghiệp thành đạt, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Nói cách khác một nền kinh tế thị trường hiện đại là một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao của các yếu tố cấu thành của nền kinh tế đó. Điều này có nghĩa là để sức cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng cao, chúng ta phải có một cơ cấu kinh tế hiện đại và thích ứng với cơ cấu kinh tế thế giới hôm nay. Thực tế cho thấy sức cạnh tranh của nền kinh tế của ta còn thấp, doanh nghiệp của ta còn yếu, trong khi đó hội nhập thì chúng ta phải mở cửa thị trường để hàng hoá nước ngoài vào và điều này sẽ gây khó khăn cho nền kinh tế và doanh nghiệp nước ta. Do đó, nếu không có những giải pháp đồng bộ, nếu không xây dựng được một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao hơn thì sẽ kéo theo nạn thất nghiệp gia tăng, xã hội sẽ phức tạp và chúng ta sẽ là người tụt hậu, chúng ta sẽ ở lại cùng với sự đói nghèo, trong lúc những người chiến thắng bứt lên phía trước.
2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Doanh nghiệp đóng vai trò chủ yếu tạo ra sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. Để đáp ứng đòi hỏi của thị trường và yêu cầu hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, vấn đề đặt ra là cần tập trung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thực trạng hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn thể hiện ở những bất cập sau đòi hỏi phải được khắc phục ngay:
Thứ nhất, khả năng cạnh tranh yếu về mặt tài chính. Quy mô vốn và năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều doanh nghiệp còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững.
Thứ hai, khả năng cạnh tranh yếu về quản lý. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế.
Thứ ba, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao dẫn đến khả năng cạnh tranh yếu của của hàng hoá, dịch vụ và các doanh nghiệp nước ta. Vấn đề này đã được nhiều nhà chuyên môn phân tích khi so sánh giữa sản phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines.
Thứ tư, nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Một số khá lớn doanh nghiệp nước ta còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu công nghiệp. Tình trạng các doanh nghiệp bị các cơ quan chức năng phàn nàn, thậm chí “thổi còi” vì vi phạm các chế độ về thuế, tài chính còn khá phổ biến. Một trong những nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận thức, hiểu biết của doanh nghiệp về luật pháp còn nhiều hạn chế.
Để vượt qua những hạn chế nêu trên, con đường phát triển duy nhất là nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ của nước ta. Vì nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, hàng hoá và dịch vụ chính là nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành. Tuy nhiên vấn đề này cũng còn phụ thuộc vào cả chính sách quốc gia.
3. Vấn đề xây dựng và quảng bá thương hiệu trong bối cảnh hội nhập
Trong thời đại mở cửa, hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, rõ ràng không ai là không biết đến các giá trị của thương hiệu. Cụm từ "thương hiệu" được nói đến đầu tiên khi lý giải về sự thành công của một sản phẩm hàng hoá, dịch vụ hay một doanh nghiệp nào đó. Thậm chí, một ca sĩ tên tuổi được mời biểu diễn liên tục nhiều nơi, một diễn viên được mời đóng nhiều phim người ta cũng đánh giá là do...."có thương hiệu".
Ngày nay, một quốc gia mạnh về kinh tế là quốc gia sở hữu những doanh nghiệp mạnh và năng động. Một doanh nghiệp mạnh là doanh nghiệp sở hữu những thương hiệu mạnh phục vụ cho mục tiêu quốc gia. Một thương hiệu tầm cỡ quốc tế không chỉ đơn thuần là tài sản của bản thân doanh nghiệp mà chính là niềm kiêu hãnh của cả một quốc gia, là niềm cảm hứng cho các thương hiệu khác vươn lên mạnh mẽ.
Tầm quan trọng của thương hiệu hầu như không còn được bàn cãi nữa. Nhưng trên thực tế, thực trạng xây dựng và quảng bá thương hiệu ở các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu và chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và đang đặt ra những thách thức không nhỏ cho việc xây dựng và quản bá thương hiệu Việt Nam. Do đó mà yêu cầu cấp thiết đang đặt ra cho Việt Nam là làm gì để khẳng định và quảng bá thương hiệu trong bối cảnh hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế. Đặc biệt, khi thương hiệu đã trở thành tài sản của doanh nghiệp, thì một yêu cầu bức xúc lại đặt ra là làm thế nào để bảo vệ thương hiệu của mình trước nạn xâm phạm thương hiệu đang xảy ra ngày càng nhiều trên thị trường. Thương hiệu thành công là phải tạo được cảm giác thân quen với người tiêu dùng.
3.1. Xây dựng thương hiệu
Trong bối cảnh hội nhập và mở cửa nền kinh tế, không ai có thể phủ nhận giá trị của thương hiệu trong kinh doanh và câu chuyện thương hiệu đã trở thành một vấn đề thời sự trong kinh doanh, song nhiều doanh nghiệp và các tập đoàn kinh tế Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến việc đầu tư cho thương hiệu của mình, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập như hiện nay.Tuy nhiên, việc đầu tư để xây dựng một thương hiệu tầm cỡ cũng đang là vấn đề đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi tập đoàn kinh tế và mỗi doanh nghiệp của nước ta.
3.2. Đăng ký thương hiệu hàng hoá
Hội nhập, thương hiệu hàng hoá phải trở thành tài sản quan trọng của mỗi doanh nghiệp, phát triển thương hiệu là quá trình tạo lập uy tín đối với người tiêu dùng và giúp cho doanh nghiệp thực hiện được kinh doanh lợi nhuận. Như vậy, Thương hiệu sản phẩm đã trở thành tài sản vô hình có giá trị rất lớn (trong đa số trường hợp còn lớn hơn tài sản hữu hình) và không thể thiếu của các doanh nghiệp vì giá trị của tài sản phụ thuộc vào uy tín và quy mô thương hiệu được sử dụng, nó sẽ là một công cụ đắc lực cho kinh doanh, và sẽ là nguồn vốn rất có giá trị khi doanh nghiệp thực hiện việc chuyển nhượng, bán li-xăng hay liên doanh. Vì thế, thương hiệu hàng hoá khi đã được xây dựng, các doanh nghiệp cần đăng ký trong tiến trình hội nhập vào thị trường thế giới.
3.3. Bảo hộ thương hiệu bằng luật pháp
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và quyền lợi chính đáng của nhà sản xuất, Nhà nước cần ban hành Luật nhãn hiệu hàng hoá phù hợp với các chuẩn mực thương mại quốc tế. Đồng thời, Luật nhãn hiệu hàng hoá phải có hiệu lực và hiệu quả trong việc ngăn chặn không cho phép bên thứ 3 sử dụng hàng hoá trùng sản phẩm cùng loại với nhãn hiệu đã được đăng ký, mà còn ngăn chặn cả việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá tương tự cho các sản phẩm tương tự, nếu việc sử dụng này gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá.
II. Một số vấn đề cơ bản của hội nhập khu vực và gia nhập WTO
1. Khu vực ASEAN
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. Các tranh chấp thương mại quốc tế dưới nhiều hình thức sẽ ngày càng phổ biến. Đối với ASEAN,việc thực hiện trên diện rộng các cam kết cắt giảm thuế trong khuôn khổ ASEAN (AFTA) vào năm nay(2006), Việt Nam sẽ đưa 96% số dòng của biểu thuế với khoảng trên 10.000 mặt hàng về mức 0-5% đồng thời bắt đầu lộ trình cắt giảm thuế đối với các mặt hàng thuộc diện “nhạy cảm”. Các sản phẩm của Việt Nam, đặc biệt là hàng tiêu dùng, sẽ đứng trước sức ép cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN.
Bên cạnh sức ép cạnh tranh với hàng hoá của các nước trong khối ASEAN thì việc xây cộng đồng ASEAN vững mạnh còn là một trong những nhiệm vụ cơ bản của nước ta. Bởi nước ta là một thành viên quan trọng của Hiệp hội Đông Nam Á. Ngoài hội nhập kinh tế thế giới, chúng ta phải góp phần củng cố ASEAN thành cộng đồng vững mạnh, đây là nhiệm vụ quốc tế quan trọng không chỉ riêng Việt Nam mà còn tất cả các thành viên trong khối. Bởi một điều chắc chắn rằng, Đông Nam á cho đến nay vẫn là vùng đệm, vùng tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế mà nước ta ở vào vị trí quan trọng, được các nước lớn quan tâm. ASEAN trở thành cộng đồng vững mạnh với vai trò ngày càng tăng của nước ta sẽ tạo ra lợi thế quan trọng cho ASEAN, trong đó tất nhiên có Việt Nam, quan hệ bình đẳng và thu hút được nhiều hơn nguồn lực từ các nước lớn. Một khi ASEAN bị phân rã, các nước lớn có cơ hội dùng chính sách "chia để trị". Do vậy, nước ta cần đóng vai trò tích cực hơn trong tiến trình củng cố cộng đồng ASEAN. Chúng ta phải vượt lên những tính toán kinh tế vì ý nghĩa chính trị to lớn của ASEAN, vì vị thế của ASEAN cũng như của nước ta trước những toan tính chiến lược của các nước lớn.
2. Việc gia nhập WTO
2.1. Vài nét về WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thành lập ngày 01-01-1995 với tư cách là thể chế pháp lý điều tiết các mối quan hệ kinh tế - thương mại quốc tế mang tính toàn cầu. WTO ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả các nguyên tắc, luật lệ của tổ chức tiền thân đã tồn tại gần 50 năm trước đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).
2.1.1. WTO có các chức năng cơ bản sau:
- Quản lý việc thực hiện các hiệp ước của WTO
- Diễn đàn đàm phán về thương mại
- Giải quyết các tranh chấp về thương mại
- Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia
- Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
2.1.2. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO
WTO hoạt động dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống thương mại thế giới là:
- Thương mại không phân biệt đối xử (thông qua nguyên tắc tối huệ quốc và nguyên tắc đối xử quốc gia);
- Thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán);
- Dễ đoán (tức có thể đoán trước được) nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch;
- Tạo ra (nhằm thúc đẩy) môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn;
- Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế (bằng cách dành ưu đãi hơn cho các nước kém phát triển nhất).
(1). Thương mại không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):
"Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước (được) ưu đãi nhất", "nước (được) ưu tiên nhất".
Nội dung của nguyên tắc này thực chất là việc WTO quy định rằng, các quốc gia không được phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: mỗi thành viên của WTO phải đối xử với các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác "ưu tiên nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một hay một số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được "ưu tiên nhất". Và như vậy, kết quả là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác thương mại nào.
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT):
"Đối xử quốc gia" nghĩa là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài và sản phẩm nội địa.
Nội dung của nguyên tắc này là hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này như sau: bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc nêu trên như sau: Nếu nguyên tắc "tối huệ quốc" nhằm mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa các nhà xuất khẩu hàng hoá, cung cấp dịch vụ... của các nước A, B, C...khi xuất khẩu vào một nước X nào đó thì nguyên tắc "đãi ngộ quốc gia" nhằm tới mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước X trên thị trường nước X, sau khi hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A đã thâm nhập (qua hải quan, đã trả thuế và các chi phí khác tại cửa khẩu) vào thị trường nước X.
(2). Thương mại ngày càng tự do hơn (từng bước và bằng con đường đàm phán)
Để thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế, hạn ngạch, giấy phép...). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO đã cho thấy đó chính là lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan, rồi bao trùm cả đàm phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, rồi dần dần mở rộng sang đàm phán cả những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền kinh tế trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị trường là khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị trường không chỉ có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước nền sản xuất trong nước. Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với quy định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua lộ trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các cam kết để thực hiện.
(3). Dễ đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch
Đây là nguyên tắc quan trọng của WTO. Mục tiêu của nguyên tắc này là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi thuế của nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của họ. Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Đây là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên của WTO tạo ra một môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán.
Nội dung của nguyên tắc này bao gồm các công việc như sau:
- Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan:
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một bản danh mục thuế quan. Đây gọi là các mức thuế suất ràng buộc. Nói cách khác, ràng buộc là việc đưa ra danh mục ấn định các mức thuế ở mức tối đa nào đó và không được phép tăng hay thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài. Một nước có thể sửa đổi, thay đổi mức thuế đã cam kết, ràng buộc chỉ sau khi đã đàm phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do việc tăng thuế đó gây ra.
- Về các biện pháp phi thuế quan:
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hay hạn chế định lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự do thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này sẽ bị buộc phải loại bỏ hay chấm dứt.
Để có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu cầu chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai ("minh bạch") các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình. Đồng thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên thông qua Cơ chế rà soát chính sách thương mại.
(4). Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp...hay các biện pháp bảo hộ khác.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường do người nước ngoài đến làm ăn, buôn bán ở Việt Nam, do vậy đa số họ phải thuê đất để đặt trụ sở, nhà máy, phải thuê người địa phương làm công cho họ. Vì các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn, nắm giữ các bí quyết công nghệ tiên tiến hơn, có trình độ quản lý giỏi hơn nên họ có nhiều cơ hội để thành công hơn trong việc sản xuất, cung ứng hàng hoá, dịch vụ so với các doanh nghiệp trong nước. Dần dần khi họ đã chiếm được thị phần, để tiếp tục mở rộng thị phần, họ sẽ tìm cách "mua" lại, thôn tính các doanh nghiệp trong nước đang làm ăn thua lỗ, khó khăn (về thị trường, về đầu ra, thiếu vốn để đổi mới công nghệ, để thuê quản lý giỏi), vừa đạt mục tiêu loại bớt đối thủ trên thị trường, vừa tận dụng được mặt bằng, tận dụng nhà xưởng, tận dụng công nhân đã có tay nghề của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Để tiết kiệm tiền lương, tiết kiệm chi phí về ăn ở đối với công nhân, cán bộ quản lý, các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ tìm cách thuê người Việt Nam hơn là đưa người nước ngoài sang Việt Nam. Các chuyên gia có tay nghề giỏi, các cán bộ quản lý có tài kinh doanh, tổ chức làm việc ở các doanh nghiệp nhà nước chính là mục tiêu "săn đầu người" của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Bằng cách trả lương cao, hứa hẹn sự thăng tiến, đãi ngộ (về đào tạo, về phúc lợi tham quan du lịch, nghỉ ngơi...), các doanh nghiệp có vốn nước ngoài sẽ bỏ tiền mua chuộc các cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp của các doanh nghiệp trong nước chuyển sang làm việc ở các công ty có vốn nước ngoài, vừa đỡ tốn tiền thuê các vị trí tương đương là người nước ngoài, vừa làm suy yếu các doanh nghiệp trong nước.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: sách Những vấn đề cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế, cơ sở nào đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa hội nhập, các nội dung cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế, Những lí luận cơ bản của hội nhập kinh tế quốc tế., sự thay đổi hướng tới 1 nền kinh tế toàn cầu hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau có phải là 1 điều tốt, cơ sở lý luận hội nhập quốc tế