CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG SẢN
XUẤT KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG
DOANH NGHIỆP.
2.1.1. Khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Để đáp ứng nhu cầu của đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao, con
người luôn tìm kiếm một cách hoạt động có trí tuệ hơn, mang lại nhiều lợi
ích và hiệu quả hơn. Các cách hoạt động ấy bao gồm: Hoạt động sản xuất,
hoạt động kinh doanh, hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tiến hành các hoạt động
đó có rất nhiều các chủ thể khác nhau như: cá nhân, tập thể, Nhà nước...mà người
ta gọi chung là các doanh nghiệp. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về doanh
nghiệp, nhưng theo nghĩa chung nhất thì Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh
Hoạt động sản xuất là quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào như: nguyên vật
liệu, lao động, đất đai…để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hoạt động nhằm hướng vào thị
trường tức là đưa sản phẩm, hàng hoá sản xuất ra để bán hay cung cấp dịch vụ với
mục đích lợi nhuận tối đa.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm tất cả các khâu từ
sản xuất đến tiêu thụ và được tiến hành thường xuyên liên tục, đa dạng và phức
tạp.
Vì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn được tiến hành một
cách thường xuyên liên tục, phong phú, phức tạp đồng thời cũng là nhân tố trực
tiếp ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp cho nên trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, con người luôn phải quan
sát thực tế, tìm hiểu, phân tích tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp và phải
nhận thức chúng một cách đầy đủ, chính xác kịp thời để tổ chức hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình được tốt hơn
2.1.2. Các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều giai đoạn
khác nhau từ sản xuất sản phẩm, giới thiệu sản phẩm ra thị trường, đưa sản phẩm
tới tay người tiêu dùng đáp ứn thị hiếu. Để hoạt động sản xuất kinh doanh được
thuận lợi thì trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải thực hiện tốt
từng công đoạn sau:
Giai đoạn dự trữ: Là giai đoạn doanh nghiệp mua nguyên vật liệu (các yếu tố
đầu vào) dự trữ trong kho chuẩn bị cho khâu sản xuất. Quá trình này muốn thực
hiện tốt cần xác định sao cho số lượng dự trữ hợp lý, đảm bảo đầy đủ cả về số
lượng và chất lượng, tránh ứ động vốn trong kho.
Giai đoạn sản xuất sản phẩm: Đây là giai đoạn doanh nghiệp tiến hành các
hoạt động sản xuất để tạo ra sản phẩm hàng hoá phục vụ cho hoạt động kinh
doanh. Trong hoạt đông sản xuất muốn tồn tại và phát triển cần đảm bảo 3
nguyên tắc: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất bao nhiêu và cho ai?. Để
đạt được kết quả cao nhất trong giai đoạn này doanh nghiệp phải khai thác triệt để
năng lực sản xuất kết hợp ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, tiết kiệm chi phí để
hạ giá thành sảp phẩm. Đó là kết quả bước đầu giúp quá trình tiêu thụ diễn ra
nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Giai đoạn tiêu thụ sản phẩm: Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ
thuộc rất nhiều vào quá trình tiêu thụ, quá trình tiêu thụ nhanh nghĩa là sản phẩm
bán ra với tốc độ và khối lượng lớn thì tái sản xuất càng được đẩy mạnh. Do đó,
tiêu thụ quyết định quá trình sản xuất kinh doanh. Sản phẩm hàng hoá chỉ được coi
là tiêu thụ khi và chỉ khi doanh nghiệp đã thu được tiền hay người mua chấp nhận
trả tiền và đó chính là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ba giai đoạn này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nằm trong một tổng thể
thống nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì, có dự trữ
các yếu đầu vào thì mới có thể sản xuất sản phẩm, sản phẩm hàng hoá được sản
xuất ra được tiêu thụ nhanh chóng mới thúc đẩy sản suất phát triển. Khi sản phẩm
sản xuất ra đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu người thị trường, giá thành hạ,
giá bán giảm đủ sức cạnh tranh trên thị trường cũng sẽ thúc đẩy quá trình tiêu thụ
sản phẩm được nhanh chóng, từ đó chúng ta phải dự trữ các yếu tố đầu vào để
chuẩn bị cho giai đoạn sản xuất sau. Ngược lại, nếu sản phẩm hàng hoá được sản
xuất ra không tiêu thụ được sẽ làm cho quá trình sản xuất bị ngừng trệ, các yếu tố
dự trũ không được sử dụng để sản xuất dẫn đến ứ đọng vốn. Do đó trong quá trình
sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải tìm những biện pháp thích hợp để sao cho
các quá trình này được diễn ra một cách liên tục và hợp lý.
2.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP .
2.2.1. Khái niệm về phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh là việc phân chia các hiện tượng, các
quá trình và các kết quả sản xuất kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên
cơ sở đó, bằn các phương pháp liên hệ, so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại nhằm rút
ra tính quy luật và xu hướng phát triển của hiên j tượng nghiên cứu.
Phân tích hoạt đông sản xuất kinh doanh (HĐSXKD) là một quá trình nghiên
để đánh giá toàn bộ quá trình và kết quả của HĐSXKD ở doanh nghiệp, nhằm làm
rõ chất lượng của HĐSXKD và những tiềm năng cần được khai thác. Trên cơ sở đó
đề ra các phương án và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh ở doanh nghiệp.
Trước đây khi trong điều kiện sản xuất kinh doanh còn chưa phát triển, thông
tin cho quản lý chưa nhiều, chưa phức tạp nên việc phân tích được tiến hành chỉ là
những phép tính cộng, trừ đơn giản. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng
phát triển, việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp ngày càng phức tạp
và khoa học, thì vai trò của người quản trị ngày càng đóng vai trò quan trọng và
các thông tin, số liệu cần được phân tích ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp với
nhiều loại khác nhau. Phân tích hoạt động kinh doanh hình thành và phát triển như
một môn khoa học độc lập đáp ứng nhu cầu thông tin cho các nhà quản trị.
Phân tích hoạt động kinh doanh với vai trò là một ngành khoa học độc lập,
nghiên cứu các phương pháp phân tích có hệ thống và tìm ra những biện pháp
được áp dụng trong doanh nghiệp mà đem lại hiệu quả cao nhất, bên cạnh đó việc
phân tích HĐSXKD luôn đi trước và là cơ sở cho việc ra quyết định sản xuất kinh
doanh một cách đuúng đắn nhất. Thực hiện được chiến lược kinh doanh có hiệu
quả nhất, hạn chế tối đa rủi ro xảy ra. Ngoài việc phân tích các điều kiện trong
doanh nghiệp về vốn, lao động, vật tư...doanh nghiệp còn phải qun tâm phân tích
sự ảnh hưởng, tác động của những yếu tố bên ngoài như: thị trường, thị hiếu của
khách hàng, đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở phân tích HĐSXKD của doanh nghiệp
lập ra kế hoạch ngăn ngừa những rủi ro bất trắc xảy ra.
Như vậy, phân tích HĐSXKD là quá trình nhận thức và cải tạo hoạt động kinh
doanh một cách tự giác và có ý thức phù hợp với điều kiện cụ thể và với yêu cầu
của các quy luật kinh tế khách quan nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
2.2.2. Đối tượng - vai trò của phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh
a) Đối tượng
Nền kinh tế ngày nay càng phát triển mạnh mẽ, do đó đòi hỏi trình độ quản lý
nền kinh tế quốc dân phải không ngừng được nâng cao và phức tạp trong nền kinh
tế thị trường, phân tích kinh doanh được hình thành và không ngừng hoàn thiện với
hệ thống lý luận độc lập. Vì vậy, do là một môn khoa học độc lập, nằm trong hệ
thống các môn khoa học quả lý kinh tế, nên phân tích kinh doanh cũng có đối
tượng nghiên cứu riêng của mình. Đối tượng nghiên cứu của phân tích hoạt động
kinh doanh là quá trình và kết quả cụ thể được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế
trong mối quan hệ tác động của các nhân tố kinh tế. Ở đó:
*Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là các hoạt động kể từ
khâu chuẩn bị cho một đối tượng kinh doanh cho đến khâu kết thúc đối tượng kinh
doanh đó. Quá trình kinh doanh của từng loại hình doanh nghiệp có đặc thù khác
nhau:
- Đối với doanh nghiệp sản xuất như: Công nghiệp, Nông nghiệp, Xây đựng
cơ bản…quá trình kinh doanh có thể được phân thành các khâu (hay giai đoạn )
chủ yếu sau:
HĐ chuẩn bị HĐ sản xuất Hoạt động tiêu thụ sản phẩm,
cho SXKD ra sản phẩm thu hồi vốn kinh doanh.
- Đối với các doanh nghiệp dịch vị như: Thượng mại, du lịch, Khoa học,…
quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp của các doanh nghiệp này có thể được
phân thành hai khâu cơ bản:
HĐ chuẩn bị cho Hoạt động thực hiện dịch vụ,
KD dịch vụ thu hồi vốn kinh doanh
* Kết quả kinh doanh thuộc đối tượng nghiên cứu của phân tích có thể là kết
quả riêng biệt của từng khâu, từng giai đoạn riêng biệt của quá trình sản xuất kinh
doanh như : khối lượng (hay giá trị) dự trữ các yếu tố sản xuất, khối lượng ( hay
giá trị) sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, hay nó có thể là kết quả tổng hợp của cả
quá trình sản xuất kinh doanh hay kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp
(lợi nhuận). Các kết quả này được xác định cụ thể cho từng thời kỳ gồm kết quả dự
kến đạt tới và kết quả thực tế đạt được trong kỳ.
Những kết quả cụ thể được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế cùng với sự tác
động của các chỉ tiêu đó. Trong đó mỗi chỉ tiêu phản ánh một nội dung và phạm vi
của kết quả kinh doanh (tương ứng theo các khái niệm chỉ tiêu). Để phản ánh và
phân tích kết quả kinh doanh cần sử dụng 1 hệ thống chỉ tiêu, tuỳ theo mục
dích và nội ung phân tích các chỉ tiêu trong hệ thống có thể được tính bằng đơn vị
hiện vật hay đơn vị tiền tệ. Tuỳ theo phương pháp tính toán, các chỉ tiêu trong hệ
thống có thể bao gồm các chỉ tiêu tuyệt đối, chỉ tiêu tương đối và chỉ tiêu bình
quân.
Các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp được phân
tích trong sự tác động của các nhân tố kinh tế (còn được gọi là các nhân tố ảnh
hưởng). Trong phân tích HĐKD, một trong các mục tiêu chủ yếu đặt ra là phải
lượng hoá được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến mức tăng (giảm) của chỉ
tiêu phân tích. Bởi những thông tin này phản ánh chất lượng của hoạt động kinh
doanh và rất cần thiết cho việc soạn thảo các phương án và giải pháp hiệu chỉnh
hành vi kinh doanh của doanh nghiệp ở quá trình sau. Để đáp ứng được mục tiêu
trên, người làm công tác phân tích phải nắm vững cách phân loại các nhân tố ảnh
hưởng.
* Theo tính chất của các nhân tố: Người ta phân biệt nhân tố số lượng và nhân
tố chất lượng.
* Theo tính tất yếu của nhân tố: Người ta phân biệt nhân tố khách quan và
nhân tố chủ quan.
* Theo tính xu hướng tác đông của các nhân tố: Người ta phân biệt nhân tố
tích cực và nhân tố tiêu cực.
v.v….
Việc phân loại các nhân tố và việc xác định mối quan hệ giữa các chỉ tiêu
phân tích với các nhân tố ảnh hưởng chỉ có ý nghãi tương đối trong từng trường
hợp cụ thể.
b) Va i trò
Phân tích hoạt động kinh doanh luôn chiếm một vị trí quan trọng trong quá
trình hoạt động của bất cứ một doanh nghiệp nào.
- Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ quản lý kinh tế có hiệu quả mà
các doanh nghiệp đã sử dụng, nó đặc biệt quan trọng khi nền kinh tế chuyển sang
cơ chế thị trường. Việc nâng cao hiệu quả kinh tế là điều kiện tất yếu để doanh
nghiệp đứng vững trong cơ chế thị trường, đủ sức cạnh tranh với những doanh
nghiệp khác, vừa có điều kiện để tích luỹ và mở rộng sản xuất kinh doanh, vùa
đảm bảo và nâng cao đời sống cho người lao động vừa làm tròn nghĩa vụ với nhà
nước. Để thực hiện được điều đó, doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra giám
sát, đánh giá đầy đủ, chính xác mọi diễn biến và kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Phân tích HĐSXKD nhằm đánh giá xem xét việc thực hiện quá trình sản xuất,
các chỉ tiêu kinh tế như thế nào?. Các mục tiêu đặt ra của doanh nghiệp đã được
thược hiện đến đâu. Qua đó có thể rút ra những tồn tại yếu kém của doanh nghiệp
và những nguyên nhân gây ra những tồn tại yếu kém đó mà đề ra biện pháp khắc
phục để tận dụng triệt để những thế mạnh của doanh nghiệp. Vì vậy, phân tích
HĐKD không chỉ là điểm kết thúc của một chu kỳ sản xuất kinh doanh mà còn là
điểm khởi đầu của một chu kỳ sản xuất kinh doanh mới.
Kết quả phân tích của thời kỳ sản xuất kinh doanh trước và đưa ra những dụ
báo trong phân tích điều kiện kinh doanh sắp tới là những căn cứ quan trọng để
giúp doanh nghiệp có thể hoạch định chiến lược phát triển và những phương án
kinh doanh có hiệu quả.
Phân tích HĐKD gắn liền với quá trình hoạt động của doanh nghiệp và có
tác dụng giúp doanh nghiệp chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Phân tích
từng mặt của hoạt động của doanh nghiệp như: công tác chỉ đạo sản xuất, công tác
sản xuất lao động và tiền lương, công tác thu mua quản lý tài chính. Các hoạt động
đó được thực hiện một cách đồng nhất, đồng bộ thể hiện cụ thể ở chức năng của
các phòng ban, từng dươn vị trực thuộc của doanh nghiệp, tất cả những hoạt động
đó đèu nhằm một mục đích đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất cho doanh
nghiệp.
Phân tích HĐKD thông thường được thực hiện theo từng mốc thời gian như:
tháng, quý, năm, đặc biệt theo từng thời điểm giúp doanh nghiệp kịp thời điều
chỉnh những bất hợp lý xảy ra trong hoạt động nhằm đạt được mục tiêu ban đầu đặt
ra.
XUẤT KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH TRONG
DOANH NGHIỆP.
2.1.1. Khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Để đáp ứng nhu cầu của đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao, con
người luôn tìm kiếm một cách hoạt động có trí tuệ hơn, mang lại nhiều lợi
ích và hiệu quả hơn. Các cách hoạt động ấy bao gồm: Hoạt động sản xuất,
hoạt động kinh doanh, hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tiến hành các hoạt động
đó có rất nhiều các chủ thể khác nhau như: cá nhân, tập thể, Nhà nước...mà người
ta gọi chung là các doanh nghiệp. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về doanh
nghiệp, nhưng theo nghĩa chung nhất thì Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh
Hoạt động sản xuất là quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào như: nguyên vật
liệu, lao động, đất đai…để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là hoạt động nhằm hướng vào thị
trường tức là đưa sản phẩm, hàng hoá sản xuất ra để bán hay cung cấp dịch vụ với
mục đích lợi nhuận tối đa.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm tất cả các khâu từ
sản xuất đến tiêu thụ và được tiến hành thường xuyên liên tục, đa dạng và phức
tạp.
Vì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn được tiến hành một
cách thường xuyên liên tục, phong phú, phức tạp đồng thời cũng là nhân tố trực
tiếp ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp cho nên trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, con người luôn phải quan
sát thực tế, tìm hiểu, phân tích tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp và phải
nhận thức chúng một cách đầy đủ, chính xác kịp thời để tổ chức hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình được tốt hơn
2.1.2. Các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm nhiều giai đoạn
khác nhau từ sản xuất sản phẩm, giới thiệu sản phẩm ra thị trường, đưa sản phẩm
tới tay người tiêu dùng đáp ứn thị hiếu. Để hoạt động sản xuất kinh doanh được
thuận lợi thì trong quá trình sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải thực hiện tốt
từng công đoạn sau:
Giai đoạn dự trữ: Là giai đoạn doanh nghiệp mua nguyên vật liệu (các yếu tố
đầu vào) dự trữ trong kho chuẩn bị cho khâu sản xuất. Quá trình này muốn thực
hiện tốt cần xác định sao cho số lượng dự trữ hợp lý, đảm bảo đầy đủ cả về số
lượng và chất lượng, tránh ứ động vốn trong kho.
Giai đoạn sản xuất sản phẩm: Đây là giai đoạn doanh nghiệp tiến hành các
hoạt động sản xuất để tạo ra sản phẩm hàng hoá phục vụ cho hoạt động kinh
doanh. Trong hoạt đông sản xuất muốn tồn tại và phát triển cần đảm bảo 3
nguyên tắc: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất bao nhiêu và cho ai?. Để
đạt được kết quả cao nhất trong giai đoạn này doanh nghiệp phải khai thác triệt để
năng lực sản xuất kết hợp ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, tiết kiệm chi phí để
hạ giá thành sảp phẩm. Đó là kết quả bước đầu giúp quá trình tiêu thụ diễn ra
nhanh hơn, hiệu quả hơn.
Giai đoạn tiêu thụ sản phẩm: Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp phụ
thuộc rất nhiều vào quá trình tiêu thụ, quá trình tiêu thụ nhanh nghĩa là sản phẩm
bán ra với tốc độ và khối lượng lớn thì tái sản xuất càng được đẩy mạnh. Do đó,
tiêu thụ quyết định quá trình sản xuất kinh doanh. Sản phẩm hàng hoá chỉ được coi
là tiêu thụ khi và chỉ khi doanh nghiệp đã thu được tiền hay người mua chấp nhận
trả tiền và đó chính là kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ba giai đoạn này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nằm trong một tổng thể
thống nhất trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì, có dự trữ
các yếu đầu vào thì mới có thể sản xuất sản phẩm, sản phẩm hàng hoá được sản
xuất ra được tiêu thụ nhanh chóng mới thúc đẩy sản suất phát triển. Khi sản phẩm
sản xuất ra đảm bảo chất lượng, đáp ứng nhu cầu người thị trường, giá thành hạ,
giá bán giảm đủ sức cạnh tranh trên thị trường cũng sẽ thúc đẩy quá trình tiêu thụ
sản phẩm được nhanh chóng, từ đó chúng ta phải dự trữ các yếu tố đầu vào để
chuẩn bị cho giai đoạn sản xuất sau. Ngược lại, nếu sản phẩm hàng hoá được sản
xuất ra không tiêu thụ được sẽ làm cho quá trình sản xuất bị ngừng trệ, các yếu tố
dự trũ không được sử dụng để sản xuất dẫn đến ứ đọng vốn. Do đó trong quá trình
sản xuất kinh doanh doanh nghiệp phải tìm những biện pháp thích hợp để sao cho
các quá trình này được diễn ra một cách liên tục và hợp lý.
2.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP .
2.2.1. Khái niệm về phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh.
Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh là việc phân chia các hiện tượng, các
quá trình và các kết quả sản xuất kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên
cơ sở đó, bằn các phương pháp liên hệ, so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại nhằm rút
ra tính quy luật và xu hướng phát triển của hiên j tượng nghiên cứu.
Phân tích hoạt đông sản xuất kinh doanh (HĐSXKD) là một quá trình nghiên
để đánh giá toàn bộ quá trình và kết quả của HĐSXKD ở doanh nghiệp, nhằm làm
rõ chất lượng của HĐSXKD và những tiềm năng cần được khai thác. Trên cơ sở đó
đề ra các phương án và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh ở doanh nghiệp.
Trước đây khi trong điều kiện sản xuất kinh doanh còn chưa phát triển, thông
tin cho quản lý chưa nhiều, chưa phức tạp nên việc phân tích được tiến hành chỉ là
những phép tính cộng, trừ đơn giản. Khi hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng
phát triển, việc tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp ngày càng phức tạp
và khoa học, thì vai trò của người quản trị ngày càng đóng vai trò quan trọng và
các thông tin, số liệu cần được phân tích ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp với
nhiều loại khác nhau. Phân tích hoạt động kinh doanh hình thành và phát triển như
một môn khoa học độc lập đáp ứng nhu cầu thông tin cho các nhà quản trị.
Phân tích hoạt động kinh doanh với vai trò là một ngành khoa học độc lập,
nghiên cứu các phương pháp phân tích có hệ thống và tìm ra những biện pháp
được áp dụng trong doanh nghiệp mà đem lại hiệu quả cao nhất, bên cạnh đó việc
phân tích HĐSXKD luôn đi trước và là cơ sở cho việc ra quyết định sản xuất kinh
doanh một cách đuúng đắn nhất. Thực hiện được chiến lược kinh doanh có hiệu
quả nhất, hạn chế tối đa rủi ro xảy ra. Ngoài việc phân tích các điều kiện trong
doanh nghiệp về vốn, lao động, vật tư...doanh nghiệp còn phải qun tâm phân tích
sự ảnh hưởng, tác động của những yếu tố bên ngoài như: thị trường, thị hiếu của
khách hàng, đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở phân tích HĐSXKD của doanh nghiệp
lập ra kế hoạch ngăn ngừa những rủi ro bất trắc xảy ra.
Như vậy, phân tích HĐSXKD là quá trình nhận thức và cải tạo hoạt động kinh
doanh một cách tự giác và có ý thức phù hợp với điều kiện cụ thể và với yêu cầu
của các quy luật kinh tế khách quan nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
2.2.2. Đối tượng - vai trò của phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh
a) Đối tượng
Nền kinh tế ngày nay càng phát triển mạnh mẽ, do đó đòi hỏi trình độ quản lý
nền kinh tế quốc dân phải không ngừng được nâng cao và phức tạp trong nền kinh
tế thị trường, phân tích kinh doanh được hình thành và không ngừng hoàn thiện với
hệ thống lý luận độc lập. Vì vậy, do là một môn khoa học độc lập, nằm trong hệ
thống các môn khoa học quả lý kinh tế, nên phân tích kinh doanh cũng có đối
tượng nghiên cứu riêng của mình. Đối tượng nghiên cứu của phân tích hoạt động
kinh doanh là quá trình và kết quả cụ thể được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế
trong mối quan hệ tác động của các nhân tố kinh tế. Ở đó:
*Quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được hiểu là các hoạt động kể từ
khâu chuẩn bị cho một đối tượng kinh doanh cho đến khâu kết thúc đối tượng kinh
doanh đó. Quá trình kinh doanh của từng loại hình doanh nghiệp có đặc thù khác
nhau:
- Đối với doanh nghiệp sản xuất như: Công nghiệp, Nông nghiệp, Xây đựng
cơ bản…quá trình kinh doanh có thể được phân thành các khâu (hay giai đoạn )
chủ yếu sau:
HĐ chuẩn bị HĐ sản xuất Hoạt động tiêu thụ sản phẩm,
cho SXKD ra sản phẩm thu hồi vốn kinh doanh.
- Đối với các doanh nghiệp dịch vị như: Thượng mại, du lịch, Khoa học,…
quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp của các doanh nghiệp này có thể được
phân thành hai khâu cơ bản:
HĐ chuẩn bị cho Hoạt động thực hiện dịch vụ,
KD dịch vụ thu hồi vốn kinh doanh
* Kết quả kinh doanh thuộc đối tượng nghiên cứu của phân tích có thể là kết
quả riêng biệt của từng khâu, từng giai đoạn riêng biệt của quá trình sản xuất kinh
doanh như : khối lượng (hay giá trị) dự trữ các yếu tố sản xuất, khối lượng ( hay
giá trị) sản phẩm sản xuất và tiêu thụ, hay nó có thể là kết quả tổng hợp của cả
quá trình sản xuất kinh doanh hay kết quả tài chính cuối cùng của doanh nghiệp
(lợi nhuận). Các kết quả này được xác định cụ thể cho từng thời kỳ gồm kết quả dự
kến đạt tới và kết quả thực tế đạt được trong kỳ.
Những kết quả cụ thể được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế cùng với sự tác
động của các chỉ tiêu đó. Trong đó mỗi chỉ tiêu phản ánh một nội dung và phạm vi
của kết quả kinh doanh (tương ứng theo các khái niệm chỉ tiêu). Để phản ánh và
phân tích kết quả kinh doanh cần sử dụng 1 hệ thống chỉ tiêu, tuỳ theo mục
dích và nội ung phân tích các chỉ tiêu trong hệ thống có thể được tính bằng đơn vị
hiện vật hay đơn vị tiền tệ. Tuỳ theo phương pháp tính toán, các chỉ tiêu trong hệ
thống có thể bao gồm các chỉ tiêu tuyệt đối, chỉ tiêu tương đối và chỉ tiêu bình
quân.
Các chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh cụ thể của doanh nghiệp được phân
tích trong sự tác động của các nhân tố kinh tế (còn được gọi là các nhân tố ảnh
hưởng). Trong phân tích HĐKD, một trong các mục tiêu chủ yếu đặt ra là phải
lượng hoá được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến mức tăng (giảm) của chỉ
tiêu phân tích. Bởi những thông tin này phản ánh chất lượng của hoạt động kinh
doanh và rất cần thiết cho việc soạn thảo các phương án và giải pháp hiệu chỉnh
hành vi kinh doanh của doanh nghiệp ở quá trình sau. Để đáp ứng được mục tiêu
trên, người làm công tác phân tích phải nắm vững cách phân loại các nhân tố ảnh
hưởng.
* Theo tính chất của các nhân tố: Người ta phân biệt nhân tố số lượng và nhân
tố chất lượng.
* Theo tính tất yếu của nhân tố: Người ta phân biệt nhân tố khách quan và
nhân tố chủ quan.
* Theo tính xu hướng tác đông của các nhân tố: Người ta phân biệt nhân tố
tích cực và nhân tố tiêu cực.
v.v….
Việc phân loại các nhân tố và việc xác định mối quan hệ giữa các chỉ tiêu
phân tích với các nhân tố ảnh hưởng chỉ có ý nghãi tương đối trong từng trường
hợp cụ thể.
b) Va i trò
Phân tích hoạt động kinh doanh luôn chiếm một vị trí quan trọng trong quá
trình hoạt động của bất cứ một doanh nghiệp nào.
- Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ quản lý kinh tế có hiệu quả mà
các doanh nghiệp đã sử dụng, nó đặc biệt quan trọng khi nền kinh tế chuyển sang
cơ chế thị trường. Việc nâng cao hiệu quả kinh tế là điều kiện tất yếu để doanh
nghiệp đứng vững trong cơ chế thị trường, đủ sức cạnh tranh với những doanh
nghiệp khác, vừa có điều kiện để tích luỹ và mở rộng sản xuất kinh doanh, vùa
đảm bảo và nâng cao đời sống cho người lao động vừa làm tròn nghĩa vụ với nhà
nước. Để thực hiện được điều đó, doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra giám
sát, đánh giá đầy đủ, chính xác mọi diễn biến và kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Phân tích HĐSXKD nhằm đánh giá xem xét việc thực hiện quá trình sản xuất,
các chỉ tiêu kinh tế như thế nào?. Các mục tiêu đặt ra của doanh nghiệp đã được
thược hiện đến đâu. Qua đó có thể rút ra những tồn tại yếu kém của doanh nghiệp
và những nguyên nhân gây ra những tồn tại yếu kém đó mà đề ra biện pháp khắc
phục để tận dụng triệt để những thế mạnh của doanh nghiệp. Vì vậy, phân tích
HĐKD không chỉ là điểm kết thúc của một chu kỳ sản xuất kinh doanh mà còn là
điểm khởi đầu của một chu kỳ sản xuất kinh doanh mới.
Kết quả phân tích của thời kỳ sản xuất kinh doanh trước và đưa ra những dụ
báo trong phân tích điều kiện kinh doanh sắp tới là những căn cứ quan trọng để
giúp doanh nghiệp có thể hoạch định chiến lược phát triển và những phương án
kinh doanh có hiệu quả.
Phân tích HĐKD gắn liền với quá trình hoạt động của doanh nghiệp và có
tác dụng giúp doanh nghiệp chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Phân tích
từng mặt của hoạt động của doanh nghiệp như: công tác chỉ đạo sản xuất, công tác
sản xuất lao động và tiền lương, công tác thu mua quản lý tài chính. Các hoạt động
đó được thực hiện một cách đồng nhất, đồng bộ thể hiện cụ thể ở chức năng của
các phòng ban, từng dươn vị trực thuộc của doanh nghiệp, tất cả những hoạt động
đó đèu nhằm một mục đích đem lại hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất cho doanh
nghiệp.
Phân tích HĐKD thông thường được thực hiện theo từng mốc thời gian như:
tháng, quý, năm, đặc biệt theo từng thời điểm giúp doanh nghiệp kịp thời điều
chỉnh những bất hợp lý xảy ra trong hoạt động nhằm đạt được mục tiêu ban đầu đặt
ra.