meo_khung_1201

New Member
Cây Gáo: Tên khoa học Sarcocephalus cordatus Miq. Thuộc họ Cà phê Rubiaceae. a. Mô tả cây Cây gỗ to cao, cành non màu nâu đậm, nhẵn, sau màu xám trắng. Phiến lá hình trái xoan, dài 8-25cm. Tù ở đỉnh, tròn và hình tim ở gốc phiến lá, màu lục bóng ở mặt trên, màu nâu nhạt ở mặt dưới. Cuống khía rãnh ở mặt trên, lá kèm hình trái xoan, dài hay bầu dục, tù và tròn ở đỉnh. Hoa tập trung thành hình cầu, đơn độc ở đầu cành. Hoa vàng hay trắng vàng, mùi thơm. Ðài 5, tròn ở đỉnh, nhẵn, ống dài nhẵn, ngắn. Tràng 5, hình bầu dục ngược, nhẵn, ống tràng hơi có lông ở họng. Nhị 5, đính vào họng tràng, chỉ rất ngắn, bao phấn tù ở đỉnh. Bầu 2 ô, nhiều noãn. Quả dính lại với nhau thành một khối, hình cầu, mỗi quả 2 ô, mỗi ô chứa 5-8 hạt. Hoa nở vào tháng 3, quả chín vào tháng 7. b. Phân bố, thu hái và chế biến Cây phân bố ở khắp nước ta, có nhiều ở miền Nam, thích ẩm và thấy mọc ở khe suối, chân đồi. Thường nhân dân bóc vỏ cây tươi hay phơi khô dùng dần. Có nơi lấy cả gỗ, chẻ nhỏ, phơi khô, có màu vàng nhạt, vị rất đắng. Ở nước ta có nơi khai thác gỗ và vỏ cây Sarcocephalus officinalis Pierre với tên Hoàng bá (thực tế là cây khác). Tại vùng Tây châu Phi thuộc Xuđăng, người ta dùng vỏ cây Sarcocephalus esculentus Afz với tên đuanđakê (douandake) làm thuốc bổ, chữa sốt, gần giống như vỏ cây canhkina nên còn mang tên vỏ canhkina châu Phi. Ở Ghine, người ta còn dùng vỏ cây S.pobeguini. c. Công dụng và liều dùng Vỏ gáo được nhân dân dùng làm thuốc chữa sốt dưới dạng thuốc sắc với liều 10-16g. Có thể dùng gỗ gáo thái mỏng, cũng sắc như vỏ gáo. Ðơn thuốc có vỏ gáo chữa xơ gan cổ trướng. Vỏ gáo, cỏ sữa lớn lá, cỏ xước toàn cây. Ba vị bằng nhau, mỗi vị 10g. Sắc uống trong ngày. Dùng liền trong 10-15 ngày (kinh nghiệm nhân dân). Ở nước ta còn một cây khác cũng có tên là gáo, phây vi hay thkeou. Tên khoa học là Anthocephalus indicus A. Rich, cùng họ Cà phê (Rubiaceae). Ðây cũng là cây gỗ lớn, mọc thẳng đứng, tán hình chóp. Một số vùng như Quảng Ninh (Tiên Yên) dùng sắc vỏ chữa sốt, chữa ho, thuốc bổ. Tại Ấn Ðộ, người dân cũng dùng vỏ làm thuốc và thuốc bổ. Lá sắc dùng súc miệng, quả chát dùng chữa đi tiêu lỏng. Vỏ còn dùng nhuộm đen, màu bền.
 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top