Link tải luận văn miễn phí cho ae
Trong lĩnh vực Tâm thần học, việc sử dụng các trắc nghiệm tâm lý làm
công cụ thực hành để lượng hoá triệu chứng học tâm thần đã có từ hơn một
nữa thế kỷ nay. Đầu tiên là “Thang đánh giá lâm sàng bệnh tâm thần” của
Kempt và cộng sự mô tả từ năm 1915, sau đó là bảng câu hỏi tự đánh giá
mang tên “Bảng dữ liệu cá nhân” (Personal Data Sheet) do W.Worth soạn
thảo năm 1917; “Thang đánh giá tâm thần” của Wittenbort – 1951, “Thang
đánh giá nhiều mức độ các bệnh tâm thần nội trú” của Lorr 1963; v.v (Pichot
P., 1973; Hamilton M., 1975; Hal R.C., 1980) [6], [7], [12].
Càng ngày người ta thấy mối quan tâm tới các “Thang đánh giá” càng
nhiều, với những mục tiêu khác nhau như: đo lường độ nghiêm trọng của một
rối loạn tâm lý, ước lượng tỉ lệ mắc một rối loạn tâm thần hay sử dụng làm
chỉ số bệnh tật, v.v. Nhiều công cụ đo lường ra đời và được sử dụng trong
thực hành tâm thần học: đo lường năng lực trí tuệ cho người lớn bằng nghiệm
pháp Raven, do J.C.Raven xây dựng 1938; đo lường năng lực trí tuệ cho trẻ
em bằng nghiệm pháp Wais, do D.Wechsler xây dựng 1939; đánh giá về nhân
cách nhiều pha bằng nghiệm pháp MMPI (Minnesota Multiphasic Personality
Inventory), do S.R.HăthWay, J.Chamley và M.C.Kinley xây dựng năm 1941;
thang đánh giá về cảm xúc trầm cảm bằng nghiệm pháp BECK (Beck
Depression Inventory – BID), do A.T.Beck và cộng sự trình bày 1972; thang
đánh giá trầm cảm của Hamilton (HDRS – Hamilton Depression Rating
Scale), do M.Hamilton giới thiệu 1960; nghiệm pháp tự đánh giá lo âu của
Zung (Zung – Self Rating Anxiety Scale – SAS), do W.K.Zung khởi xướng
năm 1980,… Cho đến nay, các công cụ đo lường này đang được sử dụng rộng
rãi ở các cơ sở lâm sàng bệnh học tâm thần.
Tại Viện Sức khoẻ Tâm thần Bạch Mai, phòng trắc nghiệm tâm lý từ
nhiều năm nay đã sử dụng các “thang điểm đánh giá trầm cảm” để lượng hóa
mức độ rối loạn các trạng thái trầm cảm. Công việc đó được tiến hành một
cách thường xuyên trên nhiều bệnh nhân tâm thần nội trú hay ngoại trú, kể
cả trên những bệnh nhân của các chuyên khoa khác (đặc biệt là chuyên khoa
tim mạch và tiêu hoá) có một số biểu hiện rối loạn cảm xúc trầm cảm. Những
kết quả thu nhận được đã góp phần hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng các rối loạn
trầm cảm, giúp cho người thầy thuốc chuyên khoa có thêm thông tin để kết
luận bệnh, trạng thái bệnh và chọn lựa các giải pháp điều trị đúng.
Như vậy, trong thực hành tâm thần học chẩn đoán các rối loạn trầm cảm,
các “thang đánh giá trầm cảm” có một giá trị nhất định và không dễ gì có thể
phủ nhận được.
Để làm sáng tỏ giá trị góp phần hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng các rối loạn
trầm cảm, tác giả trình bày các “Nghiệm pháp đánh giá trầm cảm” đã được sử
dụng trong thực hành tâm thần học, và đó cũng là mục đích của bài tổng quan
này.
I.
KHÁI NIỆM VỀ TEST TÂM LÝ
1. Tâm lý và hoạt động tâm lý
Tâm lý gắn liền với hoạt động của bộ não (hệ thần kinh cấp cao). Do đó
hoạt động tâm lý phải gắn liền với hoạt động thần kinh cấp cao. Mọi cái diễn
ra trong ta khi ta nhìn, nghe, suy nghĩ, nhớ lại hay mọi phát minh khoa học,
mọi sáng tạo nghệ thuật, mọi tình cảm sâu sắc như tình yêu, tình bạn, nỗi đau
thương, niềm hạnh phúc,… đều qua hoạt động của não. Không hề có một hiện
tượng tâm lý nào dù là phức tạp nhất mà lại không do các quá trình vật chất
(TK cấp cao) chế định, những quá trình này diễn ra trong các cấu tạo của não,
có cấu trúc đa dạng và biến đổi thường xuyên. Mác viết: “Không thể tách tư
duy ra khỏi vật chất đang tư duy”* . Lê Nin viết: “… tư duy, ý thức là sản
phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức theo một cách thức nhất định”**.
Con người có hoạt động tâm lý vì có hệ thần kinh phát triển cao và được
tổ chức một cách đặc biệt đó là bộ não và phần cao nhất của nó là vỏ não. Vỏ
não là nơi nhận các tác động từ môi trường bên ngoài và bên trong cơ thể để
tạo ra hình ảnh tâm lý: cảm giác, tri giác, tư duy, v.v. là nơi chuẩn bị cho các
hành động, hoạt động nhiều vẻ của con người. Nếu não và vỏ não không bình
thường, bị thương tổn thì chắc chắn ảnh hưởng đến đời sống tâm lý.
Giữa hoạt động của hệ thần kinh và các hiện tượng tâm lý có mối quan
hệ có tính quy luật. Tính chất của các quá trình thần kinh cấp cao diễn ra
trong một thời điểm nhất định trong bộ não đều nói lên tính chất của quá trình
tâm lý. Vì thế việc nghiên cứu các quá trình thần kinh và những biểu hiện của
nó cho ta thấy được cách thức nẩy sinh và diễn biến của các quá trình tâm lý,
và ngược lại nghiên cứu những biểu hiện và diễn biến của các quá trình tâm lý
cho ta thấy được những biến đổi liên quan đến các cấu trúc thần kinh.
Nội dung tâm lý của con người phản ánh hiện thực của thế giới khách
quan, phản ánh những quan hệ xã hội của con người, kể cả phản ánh mọi hiện
tượng diễn ra ở môi trường bên trong cơ thể. Sự phản ánh đó, thông qua các
hoạt động tâm lý như cảm giác, tri giác (nền tảng cho cảm xúc, tư duy cụ thể,
nhận thức ban đầu), cảm xúc, ý thức, tư duy, trí tuệ, v.v. Các hoạt động tâm lý
có tính thống nhất, tuân theo các nguyên tắc, quy luật cơ bản của hoạt động
C. Mác, Tuyển tập, bản tiếng Nga, tr.302.
V.I.Lênin, Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.
58.
*
**
thần kinh cấp cao. Hoạt động thần kinh cấp cao thực hiện sự liên hệ giữa toàn
bộ cơ thể với môi trường chung quanh thường xuyên biến động. Hoạt động
thần kinh cấp cao là cơ sở sinh lý của tâm lý. Do đó không thể có quan điểm
tách rời tâm lý với sinh lý, nhưng cũng không được đồng nhất hai quá trình
đó. Trên cơ sở đó, nghiên cứu những biến đổi tâm lý cho phép biết được
những biến đổi sinh lý thần kinh cấp cao. Ví dụ, nghiên cứu sự biến đổi cảm
xúc cho ta thấy được những dấu hiệu sinh lý đặc trưng của các trạng thái cảm
xúc nhất định: khi người ta buồn thì diễn ra quá trình ức chế, liên quan đến sự
giảm trương lực hoạt động nói chung của cơ thể, tim mạch, tiêu hoá, hô hấp,
nội tiết, nội tiết, v.v.; khi người ta vui, quá trình hưng phấn làm tăng trương
lực cho hoạt động cơ thể.
Các test tâm lý nói chung đều phải dựa vào mối quan hệ tâm sinh lý đó
để cho những đánh giá, kết luận về tình trạng sức khoẻ tâm thần và thể chất
của người bệnh, góp phần hướng tới chọn lựa những giải pháp can thiệp thích
hợp trong chẩn đoán và điều trị.
2. Test tâm lý là gì? Cơ sở của việc sử dụng các test tâm lý
Test tâm lý là gì?
“Test” còn gọi là phép thử, phép đo hay nghiệm pháp. Nhiều tài liệu ở
nước ta đã sử dụng thuật ngữ “trắc nghiệm” tương đương với thuật ngữ “test”.
Trắc nghiệm được coi là nhóm các phương pháp nghiên cứu đang được sử
dụng rộng rãi nhất trong các lĩnh vực nói chung và trong lĩnh vực y học nói
riêng. Nó là một công cụ đặc biệt giữ vai trò chủ yếu trong việc góp phần
chẩn đoán tâm lý lâm sàng.
“Test tâm lý” là phép đo hay phép thử về những hoạt động của đời sống
tâm lý một cá nhân.
Xung quanh về “Test tâm lý”, nhiều tác giả trong và ngoài nước đã có
những định nghĩa khác nhau.
Theo P.Pichot – 1973 [12]: “Test tâm lý là một tình huống đã được
chuẩn hoá dùng làm kích thích, gây ra ở đối tượng một ứng xử. Ứng xử này
được đánh giá so sánh với đối tượng khác cũng trong một tình hướng như
vậy, nhằm phân loại đối tượng về mặt loại hình hay để xếp họ vào vị trí nào
đó trong quần thể”.
Theo N.K.Viện: “Test tâm lý là một hệ thống liệu pháp, được chuẩn hoá
về mặt kỷ thuật, được quy định về nội dung và cách làm, nhằm đánh giá sự
ứng xử ở một người, cung cấp một chỉ số tâm lý (trí tuệ, cảm xúc, năng lực,
nhân cách…) trên cơ sở đối chiếu với thang đo đã được chuẩn hoá, hay với
một hệ thống phân loại trên những nhóm mẫu khác nhau về phương diện xã
hội”.
“Trắc nghiệm tâm lý được coi là một thực nghiệm thử nghiệm, mạng
tính chất của một bài tập nhất định, bài tập này kích thích một hình thức nhất
định của tính tích cực và việc thực hiện nó là một triệu chứng của sự hoàn
thiện các chức năng nhất định, được đánh giá về mặt định lượng và định tính”
(X.G Ghelecstein, 1979).
Từ những định nghĩa trên, có thể thống nhất về nhận thức trắc nghiệm
tâm lý là hệ thống các biện pháp đã được chuẩn hoá về kỷ thuật, được quy
định về nội dung và quy trình thực hiện, nhằm đánh giá hành vi và kết quả
hoạt động của một người hay một nhóm người. Một trắc nghiệm tâm lý phải
có các đặc trưng riêng, đó là tính tương đối đơn giản của thủ tục và trang bị;
thời gian ngắn; ghi lại trực tiếp các kết quả; tiện lợi trong việc xử lý toán học;
có những tiêu chuẩn đã được xác lập; khả năng sử dụng đối với cá nhân, cũng
như toàn bộ nhóm. Cơ sở của việc sử dụng các Test tâm lý.
Pichot P., 1973; Hamilton M., 1975; Chelov B.M., 1979, Hankin J.R.,
1982 [1], [6], [8], [12] đã nhấn mạnh đến ba khái niệm làm cơ sở cho việc sử
dụng các trắc nghiệm tâm lý:
+ Khái niệm quy chuẩn, nghĩa là kết quả thực hiện trắc nghiệm của một
nhóm đông người, thay mặt cho quần thể. Đó là chuẩn mực. Bất cứ một sự
đánh giá cá nhân nào cũng được đánh giá theo những đơn vị chuẩn mực.
+ Độ tin cậy của trắc nghiệm, nghĩa là sự ổn định của các kết quả thu
được bằng trắc nghiệm.
+ Tính hiệu lực của trắc nghiệm, đó là vấn đề trắc nghiệm đo được cái
mà nó phải nghiên cứu và đo lường một cách có hiệu lực đến mức nào.
Như vậy trắc nghiệm tâm lý là một công cụ đã được tiêu chuẩn hoá,
dùng để đo lường khách quan một hay nhiều khía cạnh của cá nhân trong một
quần thể cần nghiên cứu qua những mẫu trả lời bằng ngôn ngữ hay phi ngôn
ngữ hay những loại hành vi khác.
Một test tâm lý tốt sử dụng trong lâm sàng có hiệu lực đánh giá hay
không còn tuỳ từng trường hợp vào người sử dụng test. Bởi vì, test tâm lý là một công
cụ đo lường có tính khách quan, còn sự đánh giá của người sử dụng test là
mang tính chủ quan. Do đó, việc sử dụng test đòi hỏi người sử dụng test
không những phải có trình độ hiểu biết tâm lý học sâu sắc, mà còn phải có tay
nghề thành thạo, biết đánh kết quả ở từng đối tượng trong từng tình huống
hoàn cảnh nhất định. Người sử dụng test phải biết chọn được những test nào
phù hợp cho đối tượng; biết tiếp xúc làm tâm lý với đối tượng để họ tự
nguyện làm test; biết khuyến khích và động viên họ làm test, để họ thổ lộ hết
tâm tư tình cảm, cảm xúc và năng lực trí tuệ của họ trong khi làm test.
Người sử dụng test cần có kinh nghiệm lâm sàng để có thể đối
chiếu, nhận định kết quả của test với những dấu hiệu lâm sàng đặc trưng. Nếu
kết quả của test phù hợp với lâm sàng, thì cho phép kết luận là đúng; nhưng
nếu trái ngược thì cần nhận định rằng, kết quả đó bị sai lệch là do yếu tố
nào liên quan.
Trong một số trường hợp cần thiết, có thể tiến hành làm nhiều test để so
sánh đối chiếu, nhằm đánh giá được một cách chính xác hơn với những kinh
nghiệm lâm sàng thông thường.
3. Vai trò các test tâm lý và giá trị của nó.
Các test tâm lý nói chung được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
khác nhau.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, người ta đã sử dụng các test
tâm lý nhằm đo lường đánh giá mức độ trí tuệ, các năng khiếu, sở thích,
những đặc điểm nhân cách của từng thành viên trong quần thể; từ đó để tuyển
chọn vào những nghề nghiệp thích hợp hay phân bổ đúng vị trí và năng lực
của họ là cần thiết.
Trong lĩnh vực y học, trong nhiều tình huống, các thầy thuốc lâm sàng
tìm đến sự giúp đỡ của các test. Khi được sử dụng thích đáng, các test chẩn
đoán có thể giúp nhiều cho các thầy thuốc lâm sàng. Các test có ích để sàng
lọc, xác định các yếu tố nguy cơ cho bệnh và phát hiện bệnh kín đáo ở những
người không có triệu chứng, hay triệu chứng rất mờ nhạt, không rõ ràng.
Việc xác định các yếu tố nguy cơ có thể cho phép can thiệp sớm để ngăn ngừa
bệnh xẩy ra và phát hiện sớm bệnh kín đáo có thể làm giảm tỷ lệ bệnh và tỷ lệ
tử vong do được điều trị sớm.
Test tâm lý không những hỗ trợ cho chẩn đoán lâm sàng mà còn gợi mở
hướng điều trị và đánh giá hiệu quả của các phương pháp điều trị.
Trong tâm thần học, các test tâm lý đã góp phần hỗ trợ cho chẩn đoán
lâm sàng do lực test lượng hoá được các triệu chứng học tâm bệnh lý, giúp
xác định hay loại bỏ sự có mặt của bệnh ở những người có triệu chứng. Một
số test giúp chẩn đoán sớm sau khi các triệu chứng và dấu hiệu bắt đầu xuất
hiện (test trí tuệ), các test khác giúp chẩn đoán phân biệt các rối loạn có khả
năng xẩy ra (test lo âu, test trầm cảm), một số test nữa giúp xác định giai
đoạn, mức độ nặng nhẹ của bệnh (test BECK), v.v. Test tâm lý làm cho công
việc chẩn đoán không trở nên đơn điệu, làm tăng thêm niềm tin của bệnh
nhân đối với thầy thuốc và chúng cũng là liệu pháp tâm lý có hiệu quả.
Thêm nữa, giá trị của test tâm lý còn được nhận thấy trong nghiên cứu.
Mỗi một nghiên cứu chỉ có thể cung cấp những kết luận tạm thời; nhưng nếu
người ta làm lại test nhiều lần để cho kết luận được vững vàng hơn, thì thông
tin khai thác được không những sẽ có giá trị của một tiến bộ lớn về phương
diện lý thuyết, mà thông tin này còn mang một tầm quan trọng to lớn hơn về
phương diện điều trị. Và chính đây là một trong những lý do để khẳng định
giá trị việc sử dụng test đánh giá trong lâm sàng.
Như vậy, giá trị của test tâm lý là phục vụ cho nhiều mục đích, nhưng
cần được sử dụng thích ứng một cách riêng biệt cho từng mục đích khác nhau,
ví dụ: chẩn đoán, đánh giá trạng thái lâm sàng, đánh giá hiệu quả điều trị, tiên
lượng bệnh, v.v.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Trong lĩnh vực Tâm thần học, việc sử dụng các trắc nghiệm tâm lý làm
công cụ thực hành để lượng hoá triệu chứng học tâm thần đã có từ hơn một
nữa thế kỷ nay. Đầu tiên là “Thang đánh giá lâm sàng bệnh tâm thần” của
Kempt và cộng sự mô tả từ năm 1915, sau đó là bảng câu hỏi tự đánh giá
mang tên “Bảng dữ liệu cá nhân” (Personal Data Sheet) do W.Worth soạn
thảo năm 1917; “Thang đánh giá tâm thần” của Wittenbort – 1951, “Thang
đánh giá nhiều mức độ các bệnh tâm thần nội trú” của Lorr 1963; v.v (Pichot
P., 1973; Hamilton M., 1975; Hal R.C., 1980) [6], [7], [12].
Càng ngày người ta thấy mối quan tâm tới các “Thang đánh giá” càng
nhiều, với những mục tiêu khác nhau như: đo lường độ nghiêm trọng của một
rối loạn tâm lý, ước lượng tỉ lệ mắc một rối loạn tâm thần hay sử dụng làm
chỉ số bệnh tật, v.v. Nhiều công cụ đo lường ra đời và được sử dụng trong
thực hành tâm thần học: đo lường năng lực trí tuệ cho người lớn bằng nghiệm
pháp Raven, do J.C.Raven xây dựng 1938; đo lường năng lực trí tuệ cho trẻ
em bằng nghiệm pháp Wais, do D.Wechsler xây dựng 1939; đánh giá về nhân
cách nhiều pha bằng nghiệm pháp MMPI (Minnesota Multiphasic Personality
Inventory), do S.R.HăthWay, J.Chamley và M.C.Kinley xây dựng năm 1941;
thang đánh giá về cảm xúc trầm cảm bằng nghiệm pháp BECK (Beck
Depression Inventory – BID), do A.T.Beck và cộng sự trình bày 1972; thang
đánh giá trầm cảm của Hamilton (HDRS – Hamilton Depression Rating
Scale), do M.Hamilton giới thiệu 1960; nghiệm pháp tự đánh giá lo âu của
Zung (Zung – Self Rating Anxiety Scale – SAS), do W.K.Zung khởi xướng
năm 1980,… Cho đến nay, các công cụ đo lường này đang được sử dụng rộng
rãi ở các cơ sở lâm sàng bệnh học tâm thần.
Tại Viện Sức khoẻ Tâm thần Bạch Mai, phòng trắc nghiệm tâm lý từ
nhiều năm nay đã sử dụng các “thang điểm đánh giá trầm cảm” để lượng hóa
mức độ rối loạn các trạng thái trầm cảm. Công việc đó được tiến hành một
cách thường xuyên trên nhiều bệnh nhân tâm thần nội trú hay ngoại trú, kể
cả trên những bệnh nhân của các chuyên khoa khác (đặc biệt là chuyên khoa
tim mạch và tiêu hoá) có một số biểu hiện rối loạn cảm xúc trầm cảm. Những
kết quả thu nhận được đã góp phần hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng các rối loạn
trầm cảm, giúp cho người thầy thuốc chuyên khoa có thêm thông tin để kết
luận bệnh, trạng thái bệnh và chọn lựa các giải pháp điều trị đúng.
Như vậy, trong thực hành tâm thần học chẩn đoán các rối loạn trầm cảm,
các “thang đánh giá trầm cảm” có một giá trị nhất định và không dễ gì có thể
phủ nhận được.
Để làm sáng tỏ giá trị góp phần hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng các rối loạn
trầm cảm, tác giả trình bày các “Nghiệm pháp đánh giá trầm cảm” đã được sử
dụng trong thực hành tâm thần học, và đó cũng là mục đích của bài tổng quan
này.
I.
KHÁI NIỆM VỀ TEST TÂM LÝ
1. Tâm lý và hoạt động tâm lý
Tâm lý gắn liền với hoạt động của bộ não (hệ thần kinh cấp cao). Do đó
hoạt động tâm lý phải gắn liền với hoạt động thần kinh cấp cao. Mọi cái diễn
ra trong ta khi ta nhìn, nghe, suy nghĩ, nhớ lại hay mọi phát minh khoa học,
mọi sáng tạo nghệ thuật, mọi tình cảm sâu sắc như tình yêu, tình bạn, nỗi đau
thương, niềm hạnh phúc,… đều qua hoạt động của não. Không hề có một hiện
tượng tâm lý nào dù là phức tạp nhất mà lại không do các quá trình vật chất
(TK cấp cao) chế định, những quá trình này diễn ra trong các cấu tạo của não,
có cấu trúc đa dạng và biến đổi thường xuyên. Mác viết: “Không thể tách tư
duy ra khỏi vật chất đang tư duy”* . Lê Nin viết: “… tư duy, ý thức là sản
phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức theo một cách thức nhất định”**.
Con người có hoạt động tâm lý vì có hệ thần kinh phát triển cao và được
tổ chức một cách đặc biệt đó là bộ não và phần cao nhất của nó là vỏ não. Vỏ
não là nơi nhận các tác động từ môi trường bên ngoài và bên trong cơ thể để
tạo ra hình ảnh tâm lý: cảm giác, tri giác, tư duy, v.v. là nơi chuẩn bị cho các
hành động, hoạt động nhiều vẻ của con người. Nếu não và vỏ não không bình
thường, bị thương tổn thì chắc chắn ảnh hưởng đến đời sống tâm lý.
Giữa hoạt động của hệ thần kinh và các hiện tượng tâm lý có mối quan
hệ có tính quy luật. Tính chất của các quá trình thần kinh cấp cao diễn ra
trong một thời điểm nhất định trong bộ não đều nói lên tính chất của quá trình
tâm lý. Vì thế việc nghiên cứu các quá trình thần kinh và những biểu hiện của
nó cho ta thấy được cách thức nẩy sinh và diễn biến của các quá trình tâm lý,
và ngược lại nghiên cứu những biểu hiện và diễn biến của các quá trình tâm lý
cho ta thấy được những biến đổi liên quan đến các cấu trúc thần kinh.
Nội dung tâm lý của con người phản ánh hiện thực của thế giới khách
quan, phản ánh những quan hệ xã hội của con người, kể cả phản ánh mọi hiện
tượng diễn ra ở môi trường bên trong cơ thể. Sự phản ánh đó, thông qua các
hoạt động tâm lý như cảm giác, tri giác (nền tảng cho cảm xúc, tư duy cụ thể,
nhận thức ban đầu), cảm xúc, ý thức, tư duy, trí tuệ, v.v. Các hoạt động tâm lý
có tính thống nhất, tuân theo các nguyên tắc, quy luật cơ bản của hoạt động
C. Mác, Tuyển tập, bản tiếng Nga, tr.302.
V.I.Lênin, Chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1960, tr.
58.
*
**
thần kinh cấp cao. Hoạt động thần kinh cấp cao thực hiện sự liên hệ giữa toàn
bộ cơ thể với môi trường chung quanh thường xuyên biến động. Hoạt động
thần kinh cấp cao là cơ sở sinh lý của tâm lý. Do đó không thể có quan điểm
tách rời tâm lý với sinh lý, nhưng cũng không được đồng nhất hai quá trình
đó. Trên cơ sở đó, nghiên cứu những biến đổi tâm lý cho phép biết được
những biến đổi sinh lý thần kinh cấp cao. Ví dụ, nghiên cứu sự biến đổi cảm
xúc cho ta thấy được những dấu hiệu sinh lý đặc trưng của các trạng thái cảm
xúc nhất định: khi người ta buồn thì diễn ra quá trình ức chế, liên quan đến sự
giảm trương lực hoạt động nói chung của cơ thể, tim mạch, tiêu hoá, hô hấp,
nội tiết, nội tiết, v.v.; khi người ta vui, quá trình hưng phấn làm tăng trương
lực cho hoạt động cơ thể.
Các test tâm lý nói chung đều phải dựa vào mối quan hệ tâm sinh lý đó
để cho những đánh giá, kết luận về tình trạng sức khoẻ tâm thần và thể chất
của người bệnh, góp phần hướng tới chọn lựa những giải pháp can thiệp thích
hợp trong chẩn đoán và điều trị.
2. Test tâm lý là gì? Cơ sở của việc sử dụng các test tâm lý
Test tâm lý là gì?
“Test” còn gọi là phép thử, phép đo hay nghiệm pháp. Nhiều tài liệu ở
nước ta đã sử dụng thuật ngữ “trắc nghiệm” tương đương với thuật ngữ “test”.
Trắc nghiệm được coi là nhóm các phương pháp nghiên cứu đang được sử
dụng rộng rãi nhất trong các lĩnh vực nói chung và trong lĩnh vực y học nói
riêng. Nó là một công cụ đặc biệt giữ vai trò chủ yếu trong việc góp phần
chẩn đoán tâm lý lâm sàng.
“Test tâm lý” là phép đo hay phép thử về những hoạt động của đời sống
tâm lý một cá nhân.
Xung quanh về “Test tâm lý”, nhiều tác giả trong và ngoài nước đã có
những định nghĩa khác nhau.
Theo P.Pichot – 1973 [12]: “Test tâm lý là một tình huống đã được
chuẩn hoá dùng làm kích thích, gây ra ở đối tượng một ứng xử. Ứng xử này
được đánh giá so sánh với đối tượng khác cũng trong một tình hướng như
vậy, nhằm phân loại đối tượng về mặt loại hình hay để xếp họ vào vị trí nào
đó trong quần thể”.
Theo N.K.Viện: “Test tâm lý là một hệ thống liệu pháp, được chuẩn hoá
về mặt kỷ thuật, được quy định về nội dung và cách làm, nhằm đánh giá sự
ứng xử ở một người, cung cấp một chỉ số tâm lý (trí tuệ, cảm xúc, năng lực,
nhân cách…) trên cơ sở đối chiếu với thang đo đã được chuẩn hoá, hay với
một hệ thống phân loại trên những nhóm mẫu khác nhau về phương diện xã
hội”.
“Trắc nghiệm tâm lý được coi là một thực nghiệm thử nghiệm, mạng
tính chất của một bài tập nhất định, bài tập này kích thích một hình thức nhất
định của tính tích cực và việc thực hiện nó là một triệu chứng của sự hoàn
thiện các chức năng nhất định, được đánh giá về mặt định lượng và định tính”
(X.G Ghelecstein, 1979).
Từ những định nghĩa trên, có thể thống nhất về nhận thức trắc nghiệm
tâm lý là hệ thống các biện pháp đã được chuẩn hoá về kỷ thuật, được quy
định về nội dung và quy trình thực hiện, nhằm đánh giá hành vi và kết quả
hoạt động của một người hay một nhóm người. Một trắc nghiệm tâm lý phải
có các đặc trưng riêng, đó là tính tương đối đơn giản của thủ tục và trang bị;
thời gian ngắn; ghi lại trực tiếp các kết quả; tiện lợi trong việc xử lý toán học;
có những tiêu chuẩn đã được xác lập; khả năng sử dụng đối với cá nhân, cũng
như toàn bộ nhóm. Cơ sở của việc sử dụng các Test tâm lý.
Pichot P., 1973; Hamilton M., 1975; Chelov B.M., 1979, Hankin J.R.,
1982 [1], [6], [8], [12] đã nhấn mạnh đến ba khái niệm làm cơ sở cho việc sử
dụng các trắc nghiệm tâm lý:
+ Khái niệm quy chuẩn, nghĩa là kết quả thực hiện trắc nghiệm của một
nhóm đông người, thay mặt cho quần thể. Đó là chuẩn mực. Bất cứ một sự
đánh giá cá nhân nào cũng được đánh giá theo những đơn vị chuẩn mực.
+ Độ tin cậy của trắc nghiệm, nghĩa là sự ổn định của các kết quả thu
được bằng trắc nghiệm.
+ Tính hiệu lực của trắc nghiệm, đó là vấn đề trắc nghiệm đo được cái
mà nó phải nghiên cứu và đo lường một cách có hiệu lực đến mức nào.
Như vậy trắc nghiệm tâm lý là một công cụ đã được tiêu chuẩn hoá,
dùng để đo lường khách quan một hay nhiều khía cạnh của cá nhân trong một
quần thể cần nghiên cứu qua những mẫu trả lời bằng ngôn ngữ hay phi ngôn
ngữ hay những loại hành vi khác.
Một test tâm lý tốt sử dụng trong lâm sàng có hiệu lực đánh giá hay
không còn tuỳ từng trường hợp vào người sử dụng test. Bởi vì, test tâm lý là một công
cụ đo lường có tính khách quan, còn sự đánh giá của người sử dụng test là
mang tính chủ quan. Do đó, việc sử dụng test đòi hỏi người sử dụng test
không những phải có trình độ hiểu biết tâm lý học sâu sắc, mà còn phải có tay
nghề thành thạo, biết đánh kết quả ở từng đối tượng trong từng tình huống
hoàn cảnh nhất định. Người sử dụng test phải biết chọn được những test nào
phù hợp cho đối tượng; biết tiếp xúc làm tâm lý với đối tượng để họ tự
nguyện làm test; biết khuyến khích và động viên họ làm test, để họ thổ lộ hết
tâm tư tình cảm, cảm xúc và năng lực trí tuệ của họ trong khi làm test.
Người sử dụng test cần có kinh nghiệm lâm sàng để có thể đối
chiếu, nhận định kết quả của test với những dấu hiệu lâm sàng đặc trưng. Nếu
kết quả của test phù hợp với lâm sàng, thì cho phép kết luận là đúng; nhưng
nếu trái ngược thì cần nhận định rằng, kết quả đó bị sai lệch là do yếu tố
nào liên quan.
Trong một số trường hợp cần thiết, có thể tiến hành làm nhiều test để so
sánh đối chiếu, nhằm đánh giá được một cách chính xác hơn với những kinh
nghiệm lâm sàng thông thường.
3. Vai trò các test tâm lý và giá trị của nó.
Các test tâm lý nói chung được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
khác nhau.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, người ta đã sử dụng các test
tâm lý nhằm đo lường đánh giá mức độ trí tuệ, các năng khiếu, sở thích,
những đặc điểm nhân cách của từng thành viên trong quần thể; từ đó để tuyển
chọn vào những nghề nghiệp thích hợp hay phân bổ đúng vị trí và năng lực
của họ là cần thiết.
Trong lĩnh vực y học, trong nhiều tình huống, các thầy thuốc lâm sàng
tìm đến sự giúp đỡ của các test. Khi được sử dụng thích đáng, các test chẩn
đoán có thể giúp nhiều cho các thầy thuốc lâm sàng. Các test có ích để sàng
lọc, xác định các yếu tố nguy cơ cho bệnh và phát hiện bệnh kín đáo ở những
người không có triệu chứng, hay triệu chứng rất mờ nhạt, không rõ ràng.
Việc xác định các yếu tố nguy cơ có thể cho phép can thiệp sớm để ngăn ngừa
bệnh xẩy ra và phát hiện sớm bệnh kín đáo có thể làm giảm tỷ lệ bệnh và tỷ lệ
tử vong do được điều trị sớm.
Test tâm lý không những hỗ trợ cho chẩn đoán lâm sàng mà còn gợi mở
hướng điều trị và đánh giá hiệu quả của các phương pháp điều trị.
Trong tâm thần học, các test tâm lý đã góp phần hỗ trợ cho chẩn đoán
lâm sàng do lực test lượng hoá được các triệu chứng học tâm bệnh lý, giúp
xác định hay loại bỏ sự có mặt của bệnh ở những người có triệu chứng. Một
số test giúp chẩn đoán sớm sau khi các triệu chứng và dấu hiệu bắt đầu xuất
hiện (test trí tuệ), các test khác giúp chẩn đoán phân biệt các rối loạn có khả
năng xẩy ra (test lo âu, test trầm cảm), một số test nữa giúp xác định giai
đoạn, mức độ nặng nhẹ của bệnh (test BECK), v.v. Test tâm lý làm cho công
việc chẩn đoán không trở nên đơn điệu, làm tăng thêm niềm tin của bệnh
nhân đối với thầy thuốc và chúng cũng là liệu pháp tâm lý có hiệu quả.
Thêm nữa, giá trị của test tâm lý còn được nhận thấy trong nghiên cứu.
Mỗi một nghiên cứu chỉ có thể cung cấp những kết luận tạm thời; nhưng nếu
người ta làm lại test nhiều lần để cho kết luận được vững vàng hơn, thì thông
tin khai thác được không những sẽ có giá trị của một tiến bộ lớn về phương
diện lý thuyết, mà thông tin này còn mang một tầm quan trọng to lớn hơn về
phương diện điều trị. Và chính đây là một trong những lý do để khẳng định
giá trị việc sử dụng test đánh giá trong lâm sàng.
Như vậy, giá trị của test tâm lý là phục vụ cho nhiều mục đích, nhưng
cần được sử dụng thích ứng một cách riêng biệt cho từng mục đích khác nhau,
ví dụ: chẩn đoán, đánh giá trạng thái lâm sàng, đánh giá hiệu quả điều trị, tiên
lượng bệnh, v.v.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links