anhchangxibo_cm

New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Trước đây, khi giải quyết các chế độ BHXH do hồ sơ không đầy đủ nên người sử dụng lao động phải đi lại nhiều lần để bổ sung và làm việc với nhiều phòng chức năng. Việc chi trả BHXH một số nơi còn chậm và gây phiền toái cho người lao động. Về phía đơn vị sử dụng lao động thường lập hồ sơ hưởng BHXH cho người lao động chậm và không đầy đủ thủ tục theo quy định, nhưng khi người lao động thắc mắc thì đổ lỗi cho cơ quan BHXH. Cơ chế bao cấp còn ăn sâu vào tiềm thức người lao động và việc giải quyết các chế độ thời đó quá dễ dãi, nhiều kẽ hở, dễ phát sinh tiêu cực. Khi chuyển sang cơ chế mới, cơ quan BHXH thực hiện đúng quy định của Bộ Tài chính thì họ kêu ca cho rằng quá khắt khe, nhiều thủ tục rườm rà (nhất là khi giải quyết chế độ ốm đau thai sản).
Hiện nay, trên cả nước có một số địa phương đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tạo thuận lợi cho các đối tượng thụ hưởng. Thực chất của cơ chế một cửa đó là giao cho bộ phận chính sách BHXH huyện, thị xã và phòng chế độ chính sách BHXH tỉnh đảm trách tiếp các đối tượng hay đơn vị sử dụng lao động đến giải quyết các chế độ BHXH với quy trình như sau:
- Hướng dẫn hồ sơ chứng từ, thanh toán BHXH cho cán bộ phụ trách công tác BHXH, các đơn vị sử dụng lao động và các đối tượng trực tiếp.
- Tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ, nếu thấy đầy đủ thì làm phiếu hẹn ngày nhận tiền.
- Chuyển hồ sơ cho bộ phận thu BHXH để đối chiếu thời gian và mức nộp BHXH.
- Căn cứ vào phiếu hẹn, đến ngày người lao động hay đơn vị sử dụng lao động cử người đến nhận tiền hưởng chế độ của đối tượng, riêng tiền chi 2 chế độ: ốm đau, thai sản, BHXH chuyển về tài khoản của đơn vị sử dụng lao động tại kho bạc hay Ngân hàng để đơn vị tự chi trả.
Theo quy định này, người lao động hay đơn vị sử dụng lao động chỉ cần nộp hồ sơ tại BHXH các huyện, thị xã hay phòng chế độ chính sách BHXH tỉnh thì không quá 7 ngày sau, đơn vị sẽ nhận tiền chi ốm đau, thai sản cho người lao động. Và không quá 30 ngày đối với trợ cấp hưởng BHXH 1 lần và hưu trí hưởng thường xuyên.
Hàng quý, BHXH tỉnh sơ kết rút kinh nghiệm bàn biện pháp tháo gỡ những khó khăn nhằm hoàn thiện thủ tục hành chính đảm bảo phục vụ nhanh, thuận lợi cho đối tượng tham gia BHXH. Đây là một cơ chế thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, BHXH các tỉnh khác nên xem xét áp dụng phù hợp với điều kiện địa phương mình. Thực hiện cơ chế “một cửa”, trong quản lý và giải quyết chế độ BHXH cho người lao động là hết sức cần thiết để đưa công tác quản lý BHXH đi vào nề nếp. Với cơ chế mới này, chắc chắn sẽ mang lại niềm tin cho người lao động, góp phần đảm bảo tính công bằng nhân văn và tiến bộ xã hội.













PHầN KếT LUậN

Sau 7 năm thực hiện việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho mọi lao động thược các thành phần kinh tế, tuy còn gặp nhiều khó khăn trở ngại nhưng cũng đã đạt được những thành công. Quyền lợi hợp pháp của người lao động đã được thực hiện. BHXH đã giúp cho người lao động và gia đình họ qua những lúc khó khăn, góp phần ổn định cuộc sống. Các chủ sử dụng lao động đã có ý thức chấp hành BHXH cho người lao động, giúp họ an tâm công tác, thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước.
Thế nhưng, ngoài những thành công đó thì vẫn còn một số vấn đề bất cập đang tồ tại trong quá trình thực hiện BHXH cho người lao động. Nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động về các chính sách BHXH nói chung còn chưa cao, nhiều chủ doanh nghiệp tìm cách trốn tránh trách nhiệm của mình, hay có những hành vi gian lận như khai báo ít hơn thực tế số lao động, tiền lương của công nhân...đẻ giảm phí phải nộp. Và cả trong nội dung các chế độ của chính sách cũng còn một số vấn đề chưa hợp lý gây thiệt thòi cho người lao động.
Thực trạng trên cần sớm được giải quyết, nhất là khi Luật BHXH sắp ra đời hi vọng quyền lợi của người lao động sẽ được bảo vệ tốt hơn nữa. Với đề án này, em mong muốn sẽ góp một phần nhỏ bé trong việc bảo vệ quyền lợi người lao động trong các thành phần kinh tế.

Hà Nội tháng 12-2002













tài liệu tham khảo

1. Giáo trình kinh tế Bảo hiểm
2. Tạp chí Bảo hiểm xã hội
3. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm
4. Giáo trình quản lý nhà nước về kinh tế
5. Báo Lao động
6. Thời báo kinh tế
Và một số tài liệu có liên quan khác.

mục lục


ChươngI: BHXH cho người lao động một nhu cầu tất yếu khách quan
I. Sự cần thiết của BHXH đối với người lao động
II. BHXH ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam
I. Tổng quan về tình hình thực hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam
1. Trong khối doanh nghiệp quốc doanh
2. Trong khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh
2.1. Trong các doanh nghiệp trong nước
2.2. Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
II. Vấn đề hưởng trợ cấp BHXH của người lao động
1. Chế độ trợ cấp ốm đau
2. Chế độ trợ cấp thai sản
3. Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ hưu trí
5. Chế độ tử tuất
III. Các hình thức trốn tránh thực hiện BHXH cho người lao động của chủ sử dụng lao động
IV. Tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp Việt Nam
Chương III. Các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác thực hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
I. Để người lao động tham gia BHXH ngày càng đông
1. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH
2. Nguyện vọng tham gia BHXH của người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp
3. Nhu cầu BHXH của người lao động của người lao động trong kinh tế trang trại
II. Nâng cao nhận thức của chủ sử dụng lao động và người lao động
1. Đối với chủ sử dụng lao động
2. Đối với người lao động
III. Đẩy mạnh hơn nữa sự tuân thủ của các chủ sử dụng lao động
IV. Cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho đối tượng thụ hưởng
LờI NóI ĐầU

BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Đây là một chính sách mang tính xã hội và nhân đạo cao cả thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với đời sống của người dân đặc biệt là đối với người lao động.Tuy nhiên đối tượng tham gia bắt buộc (trước năm 1995) chỉ giới hạn trong các lao động thuộc thành phần kinh tế Nhà nước. Vì vậy, mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả nước.
Bắt đầu từ năm 1995, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đã mở rộng cho tới những người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH đã động viên người lao động yên tâm làm việc ở các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, đồng thời cũng tạo nên sự công bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế.
Nhưng hiện nay, việc thực hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp đang là một vấn đề nan giải, thu hút được sự quan tâm của nhiều ngành, nhiều cấp. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, vì vậy em đã chọn đề tài “Thực hiện BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam-Thực trạng và giải pháp”. Với mục đích nêu lên được toàn cảnh của tình hình thực hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp. Từ đó thấy được những nguyên nhân và rút ra những giải pháp cơ bản, góp phần đẩy mạnh hơn nữa công tác thực hiện BHXH cho người lao động.
Để đảm bảo tính lôgic của một công trình nghiên cứu, ngoài lời nói đầu và phần kết luận, đề án được chia thành 3 phần sau:
Chương I. BHXH cho người lao động một nhu cầu tất yếu khách quan
Chương II. Thực trạng BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam.
Chương III. Các giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa công tác thực hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề án là những phương pháp cơ bản của phương pháp nghiên cứu khoa học như: so sánh, phân tích, tổng hợp...dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lich sử.
Do sự phức tạp và rộng lớn của hệ vấn đề, cũng như sự hạn chế trong kiến thức và kinh nghiệm thực tế cho nên bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự thông cảm và giúp đỡ của thầy và các bạn.
Hà Nội. Tháng 12/2002.

Chương I
BHXH cho người lao động một nhu cầu tất yếu khách quan

I. Sự cần thiết của BHXH đối với người lao động
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại... Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó con người, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm làm ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hay cho người ta bị mất thu nhập hay các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm... Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần có người chăm sóc nuôi dưỡng... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi vay, đi xin hay dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước... Rõ ràng, những cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn lao động trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản... Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra một cách dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có mâu thuẫn nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một số tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy, BHXH là sự đảm bảo thay thế hay bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hay mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
II. BHXH ở Việt Nam
Còn ở nước ta BHXH là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm đảm bảo an sinh xã hội và quyền lợi về BHXH cho người lao động khi gặp phải rủi ro phải tạm thời hay vĩnh viễn mất khả năng lao động. Cùng với sự đổi mới toàn diện và sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, từ năm 1995, công tác BHXH ở nước ta cũng đã chuyển sang một cơ chế thực hiện các chế độ BHXH hoàn toàn mới so với trước đây. Những nội dung chủ yếu của sự đổi mới chính sách BHXH là: mở rộng đối tượng tham gia BHXH; hình thành một quỹ BHXH tập trung, độc lập do người lao động và chủ sử dụng lao động đóng góp để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động: thành lập hệ thống BHXH Việt Nam từ Trung ương đến cấp quận, huyện, thị xã để thực hiện công tác BHXH...
Qua hơn 7 năm thực hiện, đến nay có thể khẳng định rằng những quan điểm, nội dung và phương pháp đổi mới chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với mục tiêu đổi mới toàn diện đất nước. Công tác BHXH đã từng bước khẳng định tầm quan trọng và vị thế của mình đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như việc đảm bảo quyền lợi về BHXH cho người lao động bằng những kết quả cụ thể, to lớn trong thực tiễn xã hội. Trước hết, là việc đối tượng tham gia BHXH ngày một mở rộng. Nếu trước kia, chỉ những người trong biên chế Nhà nước mới được hưởng các chế độ BHXH thì hiện nay người lao động trong các thành phần kinh tế khác (theo quy định của bộ lao động) cũng có quyền tham gia BHXH. Cụ thể là số lao động tham gia BHXH năm 1999 so với năm 1996 là 18,2%. Thứ hai, số thu BHXH hàng năm ngày càng tăng năm sau cao hơn năm trước. Từ tháng 6 năm 1995 đến ngày 31/12/1999 đã thu được 14.868 tỷ đồng tiền BHXH, số thu năm 1999 lớn hơn gấp 10 lần số thu của năm 1994 (trước khi thực hiện cơ chế mới). Thứ 3, do hình thành được quỹ BHXH tập trung độc lập nên tính tính đến ngày 31/12/1999 quỹ đã đầu tư được trên 10.628 tỷ đồng tiền tạm thời nhàn rỗi vào việc đầu tư, phát triển các lĩnh vực kinh tế- xã hội cần thiết của đất nước. Và cuối cùng, là việc giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động thường xuyên được cải tiến theo hướng thuận tiện, chính xác hơn, hạn chế tối đa việc vi phạm pháp luật về BHXH và thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, việc thực hiện chế độ chính sách BHXH theo cơ chế mới cũng gặp phải không ít khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ. Một trong những khó khăn lớn nhất là việc người lao động, chủ sử dụng lao động chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của chính sách BHXH. Từ đó, họ chưa có được thái độ và hành vi đúng đắn trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, hiện tượng né tránh, trốn nộp BHXH cho người lao động còn khá phổ biến, nhất là khu vực các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Số tiền nợ đọng BHXH của các đơn vị, doanh nghiệp cũng không nhỏ. Trong trường hợp như vậy, cơ quan BHXH có quyền từ chối chưa giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động theo nguyên tắc “có đóng có hưởng”. Rất nhiều trường hợp chủ sử dụng lao động đã thu tiền BHXH của người lao động nhưng không nộp cho cơ quan BHXH. Người lao động bị lợi dụng, vi phạm quyền lợi của mình về BHXH từ phía chủ sử dụng lao động mà vẫn không biết, không dám đấu tranh, bảo vệ quyền lợi của mình. Nguyên nhân đơn giản là vì họ không biết đúng đắn, đầy đủ về chế độ, chính sách BHXH do pháp luật quy định.
Chính vì vậy, cần có một cái nhìn khách quan về việc thực hiện BHXH cho người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó có những biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hơn nữa công tác thực thi BHXH cho người lao động. Đây là việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp bách trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế thực hiện chế độ, chính sách BHXH hiện nay. Thiết nghĩ, đây không chỉ là công việc của ngành BHXH mà là nhiệm vụ chung của của nhiều ngành, nhiều cấp, của toàn xã hội. Bởi vì đây là việc thực hiện một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước, một nội dung quan trọng của Bộ Luật lao động và quan trọng hơn nữa là việc góp phần vào việc đảm bảo quyền lợi về BHXH của người lao động trong các doanh nghiêp Việt Nam.
ChươngII
THựC TRạNG BHXH trong các doanh nghiệp Việt Nam

Bắt đầu từ năm 1995, sự phân biệt giữa người trong biên chế Nhà nước với người ngoài biên chế Nhà nước đã bị xoá bỏ. Tất cả những người lao động thuộc đối tuợng quy định đều được quyền tham gia BHXH. Việc mở rộng các đối tượng tham ra BHXH đã động viên mọi người lao động yên tâm làm việc ở các thành phần kinh tế khác nhau, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, đồng thời cũng tạo nên sự cân bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các thành phần kinh tế.

Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Thực trạng và đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng thi công công trình xây dựng, áp dụng cho dự án đầu tư xây dựng bệnh viện sản nhi Quảng Ninh Y dược 0
D Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân Luận văn Luật 0
C Đề án Thực trạng và giải pháp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản Luận văn Kinh tế 0
N Đề án Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK Việt Nam hiện nay Luận văn Kinh tế 0
A Đề án Thực trạng và phương hướng xuất khẩu gạo của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do Asean Luận văn Kinh tế 0
B Đề án Hạch toán khấu hao tài sản cố định - Thực trạng và giải pháp Luận văn Kinh tế 0
I Một số vấn đề về thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở tại công ty cổ phần lilama Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
T Một số vấn đề về thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở tại công ty cổ phần Sudico Sông Đà Luận văn Kinh tế 0
D nghiên cứu ảnh hưởng của việc thực hiện chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng đến vấn đề xã hội tại dự án trên địa bàn huyện đăk song, tỉnh đăk nông Nông Lâm Thủy sản 0
Q Đơn đăng ký chủ trì thực hiện đề tài, dự án SXTN cấp Nhà nước (Kèm theo Quyết định sổ 10 /2007/QĐ-BKHCN ngày 11tháng 5 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ) Luận văn Sư phạm 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top