Bùi Kiến Quốc
Viện nghiên cứu Đô thị Paris
Trong thời gian gần đây khái niệm “đô thị sinh thái” được nhắc đến nhiều ở Việt
Nam. Khái niệm này xuất hiện trên thế giới vào cuối thập kỷ 80, đầu 90 của thế kỷ XX ở
các nước phát triển, đề cập đến chất lượng môi trường của đô thị với các tiêu chí rất cụ
thể nhằm nâng cao điều kiện và chất lượng sống cho các cư dân (Cư dân ở đây muốn
nói đến tất cả các loài trong tự nhiên trong phạm vi cư trú, đô thị). Khơi nguồn cho trào
lưu này là Hội thảo quốc tế của Liên hợp quốc về “Thành phố và sự phát triển bền
vững” diễn ra ở Rio de Janeiro, Braxin năm 1992. Sau đó Tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế thế giới (Organisation de coopération et de développement économiques) chính
thức ban hành một chương trình có tên là “Thành phố sinh thái” được đánh dấu bằng
Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc năm 1996.
Theo định nghĩa của Tổ chức Sinh thái đô thị của Ôxtrâylia thì “Một thành phố
sinh thái là thành phố đảm bảo sự cân bằng với thiên nhiên” hay cụ thể hơn là sự định
cư cho phép các cư dân sinh sống trong điều kiện chất lượng cuộc sống nhưng chỉ sử
dụng tối thiểu các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Theo quan điểm của các nhà thiết kế
xây dựng về thành phố sinh thái bền vững thì đó là các đô thị mật độ thấp, dàn trải,
được chuyển đổi thành mạng lưới các khu dân cư đô thị mật độ cao hay trung bình có
quy mô giới hạn được phân cách bởi các không gian xanh. Hầu hết mọi người sinh
sống và làm việc trong phạm vi đi bộ và đi xe đạp.
Ý tưởng về một đô thị sinh thái (ĐTST) ban đầu đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX
dưới tên gọi Thành phố vườn (Garden-City). Đây là một phương án quy hoạch đô thị
nhằm giải quyết các vấn đề môi trường của đô thị ở thời điểm khởi đầu quá trình hiện
đại hóa. Ý tưởng này ngay lập tức trở thành một phong trào lan rộng trong cộng đồng
châu Âu và các nước công nghiệp trên thế giới và lúc bấy giờ được xem như một công
cụ hữu hiệu để giải quyết các vấn đề môi trường đô thị đang là hậu quả của quá trình
công nghiệp hóa (CNH). Đối với các nước công nghiệp, đây là bước tất yếu trong quá
trình phát triển nhằm đạt đến một đô thị phát triển bền vững. Nhìn lại lịch sử phát triển,
đô thị hóa (ĐTH) ở quy mô lớn thực tế là hậu quả của quá trình CNH, phát sinh từ nhu
cầu tập trung lực lượng sản xuất để phục vụ sản xuất công nghiệp và tạo thành các khu
dân cư đông đúc. ĐTH diễn ra làm phát sinh vô vàn các vấn đề về môi trường tự nhiên
và xã hội và kết cục là đòi hỏi các phương án hiện đại để giải quyết các vấn đề đó khi
nhu cầu và điều kiện cho phép. Cuối cùng thì việc quy hoạch sinh thái đô thị là khâu tiếp
theo tất yếu của quá trình HĐH đô thị.
Ở các nước công nghiệp phát triển, quá trình CNH, ĐTH rồi đến hiện đại hóa đã
diễn ra một cách tự nhiên và tuần tự, nên khái niệm “sinh thái đô thị”, nghĩa là môi
trường sinh thái của đô thị nghe quen thuộc, phổ biến hơn và là đối tượng nghiên cứu
từ một thập kỷ nay. Trong khi đó ở các nước đang phát triển, quá trình CNH, ĐTH, và
HĐH thường diễn ra đồng thời do sự phát triển quá độ thẳng từ những hình thái kinh tế
- xã hội lạc hậu thành những hình thái có thể hội nhập được vào nền kinh tế thế giới
dưới áp lực của toàn cầu hóa. Để giải quyết các vấn đề môi trường đô thị trong bối cảnh
phức tạp như vậy đối với các nước đang phát triển thì quy hoạch đô thị sinh thái là một
giải pháp phù hợp. Đây là giải pháp quy hoạch có tính định hướng, áp dụng vào thực tế
những kiến thức mới nhất và kinh nghiệm từng trải của các nước phát triển nhằm
hướng thẳng tới một đô thị hiện đại mà không vấp phải những vấn đề của quá trình
CNH và ĐTH bùng phát trên diện rộng.
Như vậy, “sinh thái đô thị” muốn nói đến các điều kiện sinh sống của đô thị mà
đối tượng quan tâm là môi trường sinh thái, còn “đô thị sinh thái” là đô thị đạt được
những tiêu chí về điều kiện và chất lượng môi trường sống sinh thái, và “quy hoạch đô
thị sinh thái” là phương pháp quy hoạch đô thị nhằm đạt được các tiêu chí của chất
lượng cuộc sống cao, hướng tới sự phát triển bền vững của đô thị đó.
Các tiêu chí quy hoạch ĐTST có thể được khái quát trên các phương diện như: kiến
trúc công trình, sự đa dạng sinh học, giao thông, công nghiệp và kinh tế đô thị.
Về kiến trúc, các công trình trong ĐTST phải đảm bảo khai thác tối đa các
nguồn năng lượng mặt trời, gió và nước mưa để cung cấp năng lượng và đáp ứng nhu
cầu nước của người sử dụng. Thông thường các công trình là nhà cao tầng còn mặt đất
để dành cho không gian xanh.
Sự đa dạng sinh học của đô thị phải được đảm bảo với các hành lang cư trú tự
nhiên, nuôi dưỡng sự đa dạng sinh học và đem lại sự tiếp cận với thiên nhiên để nghỉ
ngơi giải trí.
Giao thông và vận tải cần hạn chế bằng cách cung cấp lương thực và hàng hóa
chủ yếu nằm trong phạm vi đô thị hay các vùng lân cận. Phần lớn dân cư đô thị sẽ
sống và làm việc trong phạm vi bán kính đi bộ hay xe đạp để giảm thiểu nhu cầu di
chuyển cơ giới. Sử dụng các phương tiện giao thông công cộng nối liền các trung tâm
để phục vụ nhu cầu di chuyển xa hơn của người dân. Chia sẻ ô tô con địa phương cho
phép mọi người chỉ sử dụng khi cần thiết.
Công nghiệp của ĐTST sẽ sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa có thể tái sử
dụng, tái sản xuất và tái sinh. Các quy trình công nghiệp bao gồm cả việc tái sử dụng
các sản phẩm phụ và giảm thiểu sự vận chuyển hàng hóa.
Kinh tế ĐTST là một nền kinh tế tập trung sức lao động thay vì tập trung sử
dụng nguyên liệu, năng lượng và nước, nhằm duy trì việc làm thường xuyên và giảm
thiểu nguyên liệu sử dụng.
Để đạt được các tiêu chí trên, cần có những nghiên cứu sâu sắc về điều kiện tự
nhiên và xã hội của khu vực hay vùng quy hoạch để đưa ra các giải pháp và quyết định
phù hợp. Trong quá trình vận hành, để duy trì và đạt được mục tiêu sinh thái, cần có
những biện pháp phối hợp liên ngành như tăng cường khả năng tiếp cận thông tin, nâng
cao nhận thức cộng đồng, áp dụng công nghệ sạch, sử dụng các vật liệu xây dựng sinh
học giảm tiêu thụ năng lượng, sử dụng các nguồn năng lượng có thể tái tạo được (mặt
trời, gió), tránh lãng phí và tái sinh phế thải.
Thực tế mô hình nhà ở “vườn, ao, chuồng” của Việt Nam chính là một không
gian cư trú sinh thái có chu trình sinh thái khép kín cho các hoạt động kinh tế và sinh
hoạt gia đình. Mô hình này chưa thành công vì nhiều yếu tố khách quan và một phần do
áp dụng một cách cứng nhắc vào các điều kiện thực tế khác nhau trên các khu vực địa
lý khác nhau.
Tải về để xem đầy đủ nhé
Thêm tiểu luận đô thị sinh thái
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
các bạn tải slide này về:
Viện nghiên cứu Đô thị Paris
Trong thời gian gần đây khái niệm “đô thị sinh thái” được nhắc đến nhiều ở Việt
Nam. Khái niệm này xuất hiện trên thế giới vào cuối thập kỷ 80, đầu 90 của thế kỷ XX ở
các nước phát triển, đề cập đến chất lượng môi trường của đô thị với các tiêu chí rất cụ
thể nhằm nâng cao điều kiện và chất lượng sống cho các cư dân (Cư dân ở đây muốn
nói đến tất cả các loài trong tự nhiên trong phạm vi cư trú, đô thị). Khơi nguồn cho trào
lưu này là Hội thảo quốc tế của Liên hợp quốc về “Thành phố và sự phát triển bền
vững” diễn ra ở Rio de Janeiro, Braxin năm 1992. Sau đó Tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế thế giới (Organisation de coopération et de développement économiques) chính
thức ban hành một chương trình có tên là “Thành phố sinh thái” được đánh dấu bằng
Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc năm 1996.
Theo định nghĩa của Tổ chức Sinh thái đô thị của Ôxtrâylia thì “Một thành phố
sinh thái là thành phố đảm bảo sự cân bằng với thiên nhiên” hay cụ thể hơn là sự định
cư cho phép các cư dân sinh sống trong điều kiện chất lượng cuộc sống nhưng chỉ sử
dụng tối thiểu các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Theo quan điểm của các nhà thiết kế
xây dựng về thành phố sinh thái bền vững thì đó là các đô thị mật độ thấp, dàn trải,
được chuyển đổi thành mạng lưới các khu dân cư đô thị mật độ cao hay trung bình có
quy mô giới hạn được phân cách bởi các không gian xanh. Hầu hết mọi người sinh
sống và làm việc trong phạm vi đi bộ và đi xe đạp.
Ý tưởng về một đô thị sinh thái (ĐTST) ban đầu đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX
dưới tên gọi Thành phố vườn (Garden-City). Đây là một phương án quy hoạch đô thị
nhằm giải quyết các vấn đề môi trường của đô thị ở thời điểm khởi đầu quá trình hiện
đại hóa. Ý tưởng này ngay lập tức trở thành một phong trào lan rộng trong cộng đồng
châu Âu và các nước công nghiệp trên thế giới và lúc bấy giờ được xem như một công
cụ hữu hiệu để giải quyết các vấn đề môi trường đô thị đang là hậu quả của quá trình
công nghiệp hóa (CNH). Đối với các nước công nghiệp, đây là bước tất yếu trong quá
trình phát triển nhằm đạt đến một đô thị phát triển bền vững. Nhìn lại lịch sử phát triển,
đô thị hóa (ĐTH) ở quy mô lớn thực tế là hậu quả của quá trình CNH, phát sinh từ nhu
cầu tập trung lực lượng sản xuất để phục vụ sản xuất công nghiệp và tạo thành các khu
dân cư đông đúc. ĐTH diễn ra làm phát sinh vô vàn các vấn đề về môi trường tự nhiên
và xã hội và kết cục là đòi hỏi các phương án hiện đại để giải quyết các vấn đề đó khi
nhu cầu và điều kiện cho phép. Cuối cùng thì việc quy hoạch sinh thái đô thị là khâu tiếp
theo tất yếu của quá trình HĐH đô thị.
Ở các nước công nghiệp phát triển, quá trình CNH, ĐTH rồi đến hiện đại hóa đã
diễn ra một cách tự nhiên và tuần tự, nên khái niệm “sinh thái đô thị”, nghĩa là môi
trường sinh thái của đô thị nghe quen thuộc, phổ biến hơn và là đối tượng nghiên cứu
từ một thập kỷ nay. Trong khi đó ở các nước đang phát triển, quá trình CNH, ĐTH, và
HĐH thường diễn ra đồng thời do sự phát triển quá độ thẳng từ những hình thái kinh tế
- xã hội lạc hậu thành những hình thái có thể hội nhập được vào nền kinh tế thế giới
dưới áp lực của toàn cầu hóa. Để giải quyết các vấn đề môi trường đô thị trong bối cảnh
phức tạp như vậy đối với các nước đang phát triển thì quy hoạch đô thị sinh thái là một
giải pháp phù hợp. Đây là giải pháp quy hoạch có tính định hướng, áp dụng vào thực tế
những kiến thức mới nhất và kinh nghiệm từng trải của các nước phát triển nhằm
hướng thẳng tới một đô thị hiện đại mà không vấp phải những vấn đề của quá trình
CNH và ĐTH bùng phát trên diện rộng.
Như vậy, “sinh thái đô thị” muốn nói đến các điều kiện sinh sống của đô thị mà
đối tượng quan tâm là môi trường sinh thái, còn “đô thị sinh thái” là đô thị đạt được
những tiêu chí về điều kiện và chất lượng môi trường sống sinh thái, và “quy hoạch đô
thị sinh thái” là phương pháp quy hoạch đô thị nhằm đạt được các tiêu chí của chất
lượng cuộc sống cao, hướng tới sự phát triển bền vững của đô thị đó.
Các tiêu chí quy hoạch ĐTST có thể được khái quát trên các phương diện như: kiến
trúc công trình, sự đa dạng sinh học, giao thông, công nghiệp và kinh tế đô thị.
Về kiến trúc, các công trình trong ĐTST phải đảm bảo khai thác tối đa các
nguồn năng lượng mặt trời, gió và nước mưa để cung cấp năng lượng và đáp ứng nhu
cầu nước của người sử dụng. Thông thường các công trình là nhà cao tầng còn mặt đất
để dành cho không gian xanh.
Sự đa dạng sinh học của đô thị phải được đảm bảo với các hành lang cư trú tự
nhiên, nuôi dưỡng sự đa dạng sinh học và đem lại sự tiếp cận với thiên nhiên để nghỉ
ngơi giải trí.
Giao thông và vận tải cần hạn chế bằng cách cung cấp lương thực và hàng hóa
chủ yếu nằm trong phạm vi đô thị hay các vùng lân cận. Phần lớn dân cư đô thị sẽ
sống và làm việc trong phạm vi bán kính đi bộ hay xe đạp để giảm thiểu nhu cầu di
chuyển cơ giới. Sử dụng các phương tiện giao thông công cộng nối liền các trung tâm
để phục vụ nhu cầu di chuyển xa hơn của người dân. Chia sẻ ô tô con địa phương cho
phép mọi người chỉ sử dụng khi cần thiết.
Công nghiệp của ĐTST sẽ sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa có thể tái sử
dụng, tái sản xuất và tái sinh. Các quy trình công nghiệp bao gồm cả việc tái sử dụng
các sản phẩm phụ và giảm thiểu sự vận chuyển hàng hóa.
Kinh tế ĐTST là một nền kinh tế tập trung sức lao động thay vì tập trung sử
dụng nguyên liệu, năng lượng và nước, nhằm duy trì việc làm thường xuyên và giảm
thiểu nguyên liệu sử dụng.
Để đạt được các tiêu chí trên, cần có những nghiên cứu sâu sắc về điều kiện tự
nhiên và xã hội của khu vực hay vùng quy hoạch để đưa ra các giải pháp và quyết định
phù hợp. Trong quá trình vận hành, để duy trì và đạt được mục tiêu sinh thái, cần có
những biện pháp phối hợp liên ngành như tăng cường khả năng tiếp cận thông tin, nâng
cao nhận thức cộng đồng, áp dụng công nghệ sạch, sử dụng các vật liệu xây dựng sinh
học giảm tiêu thụ năng lượng, sử dụng các nguồn năng lượng có thể tái tạo được (mặt
trời, gió), tránh lãng phí và tái sinh phế thải.
Thực tế mô hình nhà ở “vườn, ao, chuồng” của Việt Nam chính là một không
gian cư trú sinh thái có chu trình sinh thái khép kín cho các hoạt động kinh tế và sinh
hoạt gia đình. Mô hình này chưa thành công vì nhiều yếu tố khách quan và một phần do
áp dụng một cách cứng nhắc vào các điều kiện thực tế khác nhau trên các khu vực địa
lý khác nhau.
Tải về để xem đầy đủ nhé
You must be registered for see links
Thêm tiểu luận đô thị sinh thái
Ý tưởng về đô thị sinh thái có nguồn gốc từ những năm 80 của
thế kỷ XX và đã được công bố công khai lần đầu tiên bởi các học
giả Đức. Các khái niệm đô thị sinh thái đầu tiên được tập trung
vào những hoạt động diễn ra trong đô thị như: vòng tròn năng
lượng, nước, chất thải, khí thải…
Richard Register - một chuyên gia thiết kế đô thị người Mỹ đã
khai sinh ra phong trào Eco-city. Ông đã thành lập Khoa Đô thị
sinh thái ở Berkeley (Mỹ) vào năm 1975, và sau đó sáng lập
Ecocity Builders - một tổ chức phi chính phủ gắn trách nhiệm
môi trường với phát triển đô thị thông qua giáo dục cộng đồng và
tư vấn cho chính phủ và các nhà quy hoạch.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH 1
Phương châm của nhóm là "xây dựng lại nền văn minh của
chúng ta trong sự cân bằng với thiên nhiên”.
Từ 1990, những gì Register và nhóm Ecocity Builders khởi
xướng đã trở thành một phần quan trọng của phong trào Ecocity.
Các hội nghị Ecocity quốc tế đã được tổ chức hai năm một lần
sau đó.
“Eco” viết tắt của từ sinh thái trong cụm từ đô thị sinh thái
“Ecocity”, vốn đọc chệch từ “Oikos” của tiếng Hy lạp cổ nghĩa
là “gia đình” (“hộ gia đình”) trong đó mọi người cùng làm việc
để tạo ra một đơn vị chức năng nào đó.
Tương tự như vậy, các đô thị sinh thái “ecocities” muốn nhấn
mạnh mối quan hệ lành mạnh giữa các phần của thành phố với
chức năng của chúng hơn là đơn thuần nói đến hàng loạt các chỉ
số đo độ xanh, sạch đẹp của đô thị.
Đối với đô thị sinh thái, “gần gũi” là điều có ý nghĩa quyết định.
Nếu như có một chỉ số đơn lẻ để xác định đô thị sinh thái, đó
chính là khả năng dân cư có thể và ưa thích việc tiếp cận hầu hết
dịch vụ cơ bản bằng cách đi bộ, đi xe đạp và vận chuyển bằng
các phương tiện giao thông công cộng.
Theo định nghĩa của Tổ chức Sinh thái đô thị của Úc: Một thành
phố sinh thái là thành phố đảm bảo sự cân bằng với thiên nhiên.
Quan điểm của Richard Register về các thành phố sinh thái bền
vững: Các đô thị mật độ thấp, dàn trải, được chuyển đổi thành mạng
lưới các khu dân cư đô thị mật độ cao hay trung bình có quy mô
giới hạn được phân cách bởi các không gian xanh. Hầu hết mọi
người sinh sống và làm việc trong phạm vi khoảng cách đi bộ và đi
xe đạp.
Theo GS.TS Phạm Ngọc Đăng: Một đô thị sinh thái là một đô thị
mà trong quá trình tồn tại và phát triển của nó không làm cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên, không làm suy thoái môi trường, không gây
tác động xấu đến sức khỏe cộng đồng và tạo điều kiện thuận tiện
cho mọi người sống, sinh hoạt và làm việc trong đô thị.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
các bạn tải slide này về:
You must be registered for see links