tonluonganh
New Member
NÓI VỚI CON
(Y Phương)
I - TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả:
- Nhà thơ Y Phương có tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948, tại quê gốc: xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, hiện ở Hà Nội. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988).
Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại Sở Văn hóa Thông tin Cao Bằng. Tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du.
- "Trong số các tác giả thơ xuất hiện từ sau 1975 đến nay, Y Phương là một nhà thơ có bản sắc tương đối rõ, một giong điệu đáng chú ý trong nền thơ Việt Nam nói chung và trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng. Thơ Y Phương là tiếng hát ngợi ca con người và cuộc sống miền núi (Tiếng hát tháng Giêng), là sự thức tỉnh ý thức và tinh thần dân tộc (Lời chúc), lặ khẳng định sức sống mãnh mẽ của dân tộc mình (Đàn then). Thơ Y Phương lúc nào cũng toát ra tình yêu và lòng nhân ái. Thắm thiết và mạnh mẽ hơn cả trong thơ Y Phương là tình yêu quê hương, làng bản. Bản sắc dân tộc trong thơ Y Phương thể hiện rõ nét nhất trong một loạt bài thơ viết về tình quê hương: Tên làng, Nói với con, Người khai sinh bài ca, Bài ca thứ 9, Sông Hiến đang yêu... Yêu quê hương tức là yêu dân tộc mình, tự hào và gắn bó với dân tộc mình, đó cũng là một cảm hứng lớn trong thơ của Y Phương. Điều quan trọng hơn là từ tình cảm của mình. Y Phương đã khái quát được số phận của cả một dân tộc. Nét độc đáo của Y Phương còn được bộc lộ rõ ở một số bài thơ viết về tình yêu. ở đó, ông đã thể hiện tâm hồn của một người miền núi chân thật, mạnh mẽ và trong sáng với cách tư duy sống động bằng hình ảnh của người dân tộc. Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt những màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một giọng điệu mới, một phong cách mới (Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường, Sđd).
2. Tác phẩm:
- Tác phẩm đã xuất bản: Người hoa núi (kịch bản sân khấu, 1982); Tiếng hát tháng giêng (thơ, 1986); Lửa hồng một góc (thơ, in chung, 1987); Lời chúc (thơ, 1991); Đàn then (thơ, 1996).
Nhà thơ đã được nhận: Giải A, cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội, Giải thưởng loại A giải thưởng văn học 1987 của Hội Nhà văn Việt Nam Giải A, giải thưởng (Hội đồng văn học dân tộc) Hội Nhà văn Việt Nam 1992.
- Về hoàn cảnh ra đời bài thơ Nói với con, nhà thơ Y Phương cho biết:
Những năm cuối bảy mươi đầu tám mươi của thế kỷ hai mươi, đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng, vô cùng khó khăn thiếu thốn. Bởi vì đất nước ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống Mĩ lâu dài và cực kì gian khổ. Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân dân ta vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượt qua để duy trì đời sống. Họ vẫn tồn tại và không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lực lượng siêu nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa từ ngàn đời mà ông cha để lại.
Cuối năm 1975, tui cũng mới từ mặt trận trở về, sau 8 năm đánh giặc xa nhà nay trở về lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn chung của toàn xã hội. Nhìn các con cầm bát cơm ăn không thịt cá mà lòng xót đau khôn tả. Bởi chúng tui cũng như nhiều gia đình cán bộ khác chỉ sống bằng đồng lương quá ít ỏi. Hàng hóa khan hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến chóng mặt. Bên cạnh cái tốt của những người làm ăn lương thiện, không ít những con người bị tha hóa biến chất. Họ buôn gian bán lận, lợi dụng kẽ hở của nhà nước móc nối làm ăn phi pháp. ở miền Nam, một bộ phận nhỏ công chức dưới thời ngụy quyền Sài Gòn không chịu được đã tìm mọi cách để vượt biên trốn ra nước ngoài.
Từ hiện thực khó khăn ngày ấy, tui làm bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời là để nhắc nhở con cái sau này.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Ngợi ca tình quê hương, gia đình không phải là một đề tài mới. Xét về mặt đề tài, bài thơ Nói với con của Y Phương cũng vậy. Tuy nhiên, bài thơ có một sức sống riêng. Sức sống ấy có được là nhờ cách diễn đạt tình cảm độc đáo mang đậm bản sắc của người dân tộc miền núi. Đúng như nhận định:
"Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt những màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, một âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo"(1).
Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui, tình quê hương tha thiết, sâu nặng, ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi bằng "ngôn ngữ thổ cẩm" như thế.
Có thể hình dung bố cục bài thơ thành hai phần. Tình cảm gia đình, quê hương đầm ấm, yên vui được tác giả thể hiện trong mười một câu thơ đầu. Tình quê hương tha thiết, sâu nặng, truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi được tác giả thể hiện trong mười bảy câu thơ tiếp sau. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp tiếng nói tiếng cười:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Một mái nhà có cha và mẹ, con lớn lên trong tình thương yêu. Hơn thế nữa, con sinh ra, lớn lên trong tình yêu, trong vẻ đẹp của "người đồng mình":
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Tác giả đã vận dụng lối diễn đạt của chính người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Bằng cách diễn đạt như vậy, tác giả đã sáng tạo những hình ảnh vừa cụ thể, vừa mang tính khái quát cao, mà vẫn giàu chất thơ bay bổng về vẻ đẹp trong cuộc sống của người dân tộc miền núi: Đan lờ cài nan hoa - Vách nhà ken câu hát - Rừng cho hoa; và về truyền thống nghĩa tình, gắn bó, sẻ chia: Con đường cho những tấm lòng. Người cha muốn con mình thấy được vẻ nên thơ của "người đồng mình" để mà "yêu". Cách diễn đạt độc đáo ấy còn được thể hiện ở những hình ảnh đặc sắc trong những câu thơ tiếp theo:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung cùng kiệt đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Từ những câu bộc lộ một cách cụ thể tình cảm gia đình, nghĩa tình quê hương ở phần thứ nhất, sang phần thứ hai của bài thơ, tác giả mượn lời người cha nói với con về sức mạnh truyền thống, lòng thuỷ chung với quê hương. Lấy cái "cao", "xa" của trời đất làm chiều kích của nỗi buồn và chí hướng. Đó là tầm vóc của núi cao, rừng thẳm, của những Đam San, Xinh Nhã. Người cha nói cho con cũng là nhắn nhủ, khuyên răn con mình biết trân trọng nơi mình sinh thành (Sống trên đá không chê đá gập ghềnh - Sống trong thung không chê thung cùng kiệt đói), sống hồn nhiên, cần cù, lạc quan để vượt qua gian khó (Sống như sông như suối - Lên thác xuống ghềnh - Không lo cực nhọc). Con hãy nhớ lấy những điều ấy, để mà "thương". Và cũng là để sống cho xứng đáng. Bởi vì, "người đồng mình" tuy mộc mạc, thô sơ nhưng không nhỏ bé. ở đây, ta lại bắt gặp lối nói độc đáo của người dân tộc miền núi, trong câu: Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương. Có thể thấy ở câu thơ này có hai lớp ý nghĩa: nghĩa thực và nghĩa ẩn dụ. "Đục đá kê cao" là hoạt động có thực, thường thấy ở vùng miền núi. Quê hương vốn là một khái niệm trừu tượng, chỉ một nơi chốn sinh thành của một con người nào đó, gia đình nào đó. Nói "tự đục đá kê cao quê hương" là muốn khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội.
Lần thứ nhất người cha nói đến "Người đồng mình thô sơ da thịt" để nói cho con về sức sống mạnh mẽ của quê hương, sức mạnh truyền thống của quê hương; lần thứ hai, người cha nhắc lại như để con khắc cốt ghi xương rằng: quê hương mình tuy mộc mạc, chân chất, người đồng mình tuy thô sơ da thịt nhưng sống cao đẹp, nên trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng là "người đồng mình". Người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh của truyền thống quê hương.
Thể thơ tự do, với số câu chữ không theo khuôn định phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ. Nhịp điệu lúc bay bổng, nhẹ nhàng, lúc khúc triết, rành rọt, lúc mạnh mẽ, sắc nhọn,... tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời người cha truyền thấm sang con. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, hình ảnh mộc mạc, cô đọng mà vẫn phong phú, sinh động, quyến rũ.
Y Phương thấu hiểu và bởi vậy lột tả được cái hồn cốt trong bản sắc truyền thống của người dân tộc miền núi. Cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ vậy!
(Sưu tầm)
(Y Phương)
I - TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả:
- Nhà thơ Y Phương có tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, sinh năm 1948, tại quê gốc: xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, hiện ở Hà Nội. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1988).
Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại Sở Văn hóa Thông tin Cao Bằng. Tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du.
- "Trong số các tác giả thơ xuất hiện từ sau 1975 đến nay, Y Phương là một nhà thơ có bản sắc tương đối rõ, một giong điệu đáng chú ý trong nền thơ Việt Nam nói chung và trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng. Thơ Y Phương là tiếng hát ngợi ca con người và cuộc sống miền núi (Tiếng hát tháng Giêng), là sự thức tỉnh ý thức và tinh thần dân tộc (Lời chúc), lặ khẳng định sức sống mãnh mẽ của dân tộc mình (Đàn then). Thơ Y Phương lúc nào cũng toát ra tình yêu và lòng nhân ái. Thắm thiết và mạnh mẽ hơn cả trong thơ Y Phương là tình yêu quê hương, làng bản. Bản sắc dân tộc trong thơ Y Phương thể hiện rõ nét nhất trong một loạt bài thơ viết về tình quê hương: Tên làng, Nói với con, Người khai sinh bài ca, Bài ca thứ 9, Sông Hiến đang yêu... Yêu quê hương tức là yêu dân tộc mình, tự hào và gắn bó với dân tộc mình, đó cũng là một cảm hứng lớn trong thơ của Y Phương. Điều quan trọng hơn là từ tình cảm của mình. Y Phương đã khái quát được số phận của cả một dân tộc. Nét độc đáo của Y Phương còn được bộc lộ rõ ở một số bài thơ viết về tình yêu. ở đó, ông đã thể hiện tâm hồn của một người miền núi chân thật, mạnh mẽ và trong sáng với cách tư duy sống động bằng hình ảnh của người dân tộc. Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt những màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo. Nét độc đáo đó nằm ở cả nội dung và hình thức. Với Y Phương, thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm một giọng điệu mới, một phong cách mới (Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường, Sđd).
2. Tác phẩm:
- Tác phẩm đã xuất bản: Người hoa núi (kịch bản sân khấu, 1982); Tiếng hát tháng giêng (thơ, 1986); Lửa hồng một góc (thơ, in chung, 1987); Lời chúc (thơ, 1991); Đàn then (thơ, 1996).
Nhà thơ đã được nhận: Giải A, cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội, Giải thưởng loại A giải thưởng văn học 1987 của Hội Nhà văn Việt Nam Giải A, giải thưởng (Hội đồng văn học dân tộc) Hội Nhà văn Việt Nam 1992.
- Về hoàn cảnh ra đời bài thơ Nói với con, nhà thơ Y Phương cho biết:
Những năm cuối bảy mươi đầu tám mươi của thế kỷ hai mươi, đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân cả nước nói chung, nhân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi nói riêng, vô cùng khó khăn thiếu thốn. Bởi vì đất nước ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống Mĩ lâu dài và cực kì gian khổ. Hiện thực xã hội ấy đã tác động sâu sắc đến đời sống con người. Đại bộ phận nhân dân ta vẫn kiên trì khắc phục và tìm mọi cách để vượt qua để duy trì đời sống. Họ vẫn tồn tại và không ngừng sinh trưởng là không phải nhờ vào phép màu của lực lượng siêu nhiên nào mà chỉ dựa vào sức mạnh tinh thần của truyền thống văn hóa từ ngàn đời mà ông cha để lại.
Cuối năm 1975, tui cũng mới từ mặt trận trở về, sau 8 năm đánh giặc xa nhà nay trở về lấy vợ sinh con trong bối cảnh túng thiếu bần hàn chung của toàn xã hội. Nhìn các con cầm bát cơm ăn không thịt cá mà lòng xót đau khôn tả. Bởi chúng tui cũng như nhiều gia đình cán bộ khác chỉ sống bằng đồng lương quá ít ỏi. Hàng hóa khan hiếm, giá cả leo thang từng ngày đến chóng mặt. Bên cạnh cái tốt của những người làm ăn lương thiện, không ít những con người bị tha hóa biến chất. Họ buôn gian bán lận, lợi dụng kẽ hở của nhà nước móc nối làm ăn phi pháp. ở miền Nam, một bộ phận nhỏ công chức dưới thời ngụy quyền Sài Gòn không chịu được đã tìm mọi cách để vượt biên trốn ra nước ngoài.
Từ hiện thực khó khăn ngày ấy, tui làm bài thơ này để tâm sự với chính mình, động viên mình, đồng thời là để nhắc nhở con cái sau này.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Ngợi ca tình quê hương, gia đình không phải là một đề tài mới. Xét về mặt đề tài, bài thơ Nói với con của Y Phương cũng vậy. Tuy nhiên, bài thơ có một sức sống riêng. Sức sống ấy có được là nhờ cách diễn đạt tình cảm độc đáo mang đậm bản sắc của người dân tộc miền núi. Đúng như nhận định:
"Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt những màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một màu sắc chủ đạo, một âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo"(1).
Bài thơ Nói với con thể hiện tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui, tình quê hương tha thiết, sâu nặng, ngợi ca truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi bằng "ngôn ngữ thổ cẩm" như thế.
Có thể hình dung bố cục bài thơ thành hai phần. Tình cảm gia đình, quê hương đầm ấm, yên vui được tác giả thể hiện trong mười một câu thơ đầu. Tình quê hương tha thiết, sâu nặng, truyền thống nghĩa tình, sức sống mạnh mẽ của người dân tộc miền núi được tác giả thể hiện trong mười bảy câu thơ tiếp sau. Bài thơ mở ra với khung cảnh gia đình ấm cúng, đầy ắp tiếng nói tiếng cười:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Một mái nhà có cha và mẹ, con lớn lên trong tình thương yêu. Hơn thế nữa, con sinh ra, lớn lên trong tình yêu, trong vẻ đẹp của "người đồng mình":
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc được diễn tả trực tiếp bằng hình ảnh. Tác giả đã vận dụng lối diễn đạt của chính người dân tộc miền núi để xây dựng hình ảnh thơ. Bằng cách diễn đạt như vậy, tác giả đã sáng tạo những hình ảnh vừa cụ thể, vừa mang tính khái quát cao, mà vẫn giàu chất thơ bay bổng về vẻ đẹp trong cuộc sống của người dân tộc miền núi: Đan lờ cài nan hoa - Vách nhà ken câu hát - Rừng cho hoa; và về truyền thống nghĩa tình, gắn bó, sẻ chia: Con đường cho những tấm lòng. Người cha muốn con mình thấy được vẻ nên thơ của "người đồng mình" để mà "yêu". Cách diễn đạt độc đáo ấy còn được thể hiện ở những hình ảnh đặc sắc trong những câu thơ tiếp theo:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung cùng kiệt đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Từ những câu bộc lộ một cách cụ thể tình cảm gia đình, nghĩa tình quê hương ở phần thứ nhất, sang phần thứ hai của bài thơ, tác giả mượn lời người cha nói với con về sức mạnh truyền thống, lòng thuỷ chung với quê hương. Lấy cái "cao", "xa" của trời đất làm chiều kích của nỗi buồn và chí hướng. Đó là tầm vóc của núi cao, rừng thẳm, của những Đam San, Xinh Nhã. Người cha nói cho con cũng là nhắn nhủ, khuyên răn con mình biết trân trọng nơi mình sinh thành (Sống trên đá không chê đá gập ghềnh - Sống trong thung không chê thung cùng kiệt đói), sống hồn nhiên, cần cù, lạc quan để vượt qua gian khó (Sống như sông như suối - Lên thác xuống ghềnh - Không lo cực nhọc). Con hãy nhớ lấy những điều ấy, để mà "thương". Và cũng là để sống cho xứng đáng. Bởi vì, "người đồng mình" tuy mộc mạc, thô sơ nhưng không nhỏ bé. ở đây, ta lại bắt gặp lối nói độc đáo của người dân tộc miền núi, trong câu: Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương. Có thể thấy ở câu thơ này có hai lớp ý nghĩa: nghĩa thực và nghĩa ẩn dụ. "Đục đá kê cao" là hoạt động có thực, thường thấy ở vùng miền núi. Quê hương vốn là một khái niệm trừu tượng, chỉ một nơi chốn sinh thành của một con người nào đó, gia đình nào đó. Nói "tự đục đá kê cao quê hương" là muốn khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội.
Lần thứ nhất người cha nói đến "Người đồng mình thô sơ da thịt" để nói cho con về sức sống mạnh mẽ của quê hương, sức mạnh truyền thống của quê hương; lần thứ hai, người cha nhắc lại như để con khắc cốt ghi xương rằng: quê hương mình tuy mộc mạc, chân chất, người đồng mình tuy thô sơ da thịt nhưng sống cao đẹp, nên trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng, tự trọng để xứng đáng là "người đồng mình". Người cha đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh của truyền thống quê hương.
Thể thơ tự do, với số câu chữ không theo khuôn định phù hợp với mạch cảm xúc tự nhiên, linh hoạt của bài thơ. Nhịp điệu lúc bay bổng, nhẹ nhàng, lúc khúc triết, rành rọt, lúc mạnh mẽ, sắc nhọn,... tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những cung bậc tình cảm khác nhau trong lời người cha truyền thấm sang con. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, hình ảnh mộc mạc, cô đọng mà vẫn phong phú, sinh động, quyến rũ.
Y Phương thấu hiểu và bởi vậy lột tả được cái hồn cốt trong bản sắc truyền thống của người dân tộc miền núi. Cha nói với con hay chính là lời trao gửi thế hệ vậy!
(Sưu tầm)