chidoan3dongda

New Member
ĐỌC HIỂU VĂN BẢN CỐ HƯƠNG

(Lỗ Tấn)



I - TÌM HIỂU CHUNG



1. Tác giả:




Lỗ Tấn (1881-1936) là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, lúc nhỏ tên là Chu Chương Thọ, tên chữ là Dự Tài, sau đổi là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Sinh trưởng trong một gia đình quan lại sa sút, mẹ xuất thân là nông dân nên từ nhỏ ông đã có nhiều cơ hội tiếp xúc với đời sống nông thôn. Từ lúc còn trẻ, ông đã từ giã gia đình, quyết tâm đi tìm con đường lập thân mới, khác với những thanh niên cùng quê đương thời. Ông từng qua học ngành hàng hải, địa chất rồi y học, sau mới chuyển sang văn chương vì nghĩ rằng văn học là vũ khí lợi hại để "biến đổi tinh thần" dân chúng đang ở tình trạng "ngu muội" và "hèn nhát".



Công trình nghiên cứu và tác phẩm văn chương của Lỗ Tán rất đồ sộ và đa dạng, trong đó có 17 tập tạp văn và hai tập truyện ngắn xuất sắc là Gào thét (1923) và Bàng hoàng (1926).



- Niên Phổ Lỗ Tấn (trích phần có liên quan với Cố hương)



1989: Đến Nam Kinh (thủ phủ tỉnh Giang Tô, tỉnh kề liền với tỉnh Chiết Giang là quê của Lỗ Tấn) thi vào Giang Nam thủy sư học đường (một loại trường hàng hải).



1899: Chuyển sang học trường Khoáng lộ học đường (một loại trường địa chất).



1902: Tốt nghiệp Khoáng lộ học đường. Được cử đi du học ở Nhật Bản.



1906: Về nước, vâng lời mẹ kết hôn với một cô gái họ Chu ở Sơn Âm, cùng quê ở phủ Thiệu Hưng (Chiết Giang). Lại sang Nhật Bản.



1909: Về nước - Dạy lí, hóa ở trường Sư phạm Chiết Giang.



1910: Làm giáo vụ kiêm giáo viên trường trung học Thiệu Hưng.



1910: Làm hiệu trường trường Sư phạm Thiệu Hưng.



1912: Lên Nam Kinh làm ở Bộ Giáo dục. Sau đó, lên Bắc Kinh.



1919: Về Thiệu Hưng đưa mẹ và em là Chu Kiến Nhân lên Bắc Kinh (theo Trương Chính, Lỗ Tấn, NXB Văn hóa, 1977).



- Một số ý kiến của Lỗ Tấn về văn học



"Mỗi khi chọn đề tài, tui đều chọn những người bất hạnh trong xã hội bệnh tật, với mục đích là lôi hết bệnh tật của họ ra, làm cho mọi người chú ý tìm cách chạy chữa...".



"Việc tui tả đại để là những cái tui từng trông thấy hay nghe thấy ít nhiều, nhưng tui quyết không dùng hoàn toàn sự thực đó, chỉ chọn một ít, rồi thay đổi đi, hay phát triển thêm, cho đến khi có thể gần như hoàn toàn diễn được ý định của tui mới thôi" (Vì sao tui viết tiểu thuyết, Trương Chính dịch).



"Dân mà còn ngu muội, hèn nhát thì dù thân thể có khỏe mạnh, cường tráng chăng nữa, cũng chỉ có thể làm thứ người mà người đưa ta đưa ra chém đầu thị chúng(1) và làm thứ người đứng xem cuộc thị chúng vô vị như thế kia mà thôi.. Cho nên, điều chúng ta cần làm trước là biến đổi tinh thần họ, và theo tui hồi đó, thì muốn biến đổi tinh thần họ, tất nhiên không gì bằng dùng văn nghệ..." (Tựa viết lấy cho tập Gào thét, Trương Chính dịch).



- Lỗ Tấn và cách mạng



"Nói về người cách mạng và Đảng cách mạng, nhà đại văn hào của Trung Quốc là ông Lỗ Tấn có câu thơ:



Hoành mi lãnh đối thiên phu chi

Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu.



Xin tạm dịch là:



Trợn mắt xem khinh ngàn lực sĩ

Cúi đầu làm ngự các nhi đồng.



Nghìn lực sĩ có nghĩa là những kẻ địch mạnh, thí dụ lũ thực dân Pháp và bọn can thiệp Mĩ. Cũng có nghĩa là sự khó khăn gian khổ. Các nhi đồng nghĩa là quần chúng nhân dân hiền lành đông đảo. Cũng có nghĩa là những công việc ích nước lợi dân" (Lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam, 1961, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6).



"Thời đại người Trung Quốc làm nô lệ hay muốn làm nô lệ mà không được mà Lỗ Tấn từng nguyền rủa đã qua lâu rồi, con cháu của Nhuận Thổ, Tường Lâm đã trở thành người chủ quốc gia, người xây dựng cuộc sống mới".



... "Lỗ Tấn từng nói: trên mặt đất vốn không có đường, đường là do con người giẫm nát chỗ không có đường mà tạo ra, là khai phá chỗ gai góc mà có... Bất kể gặp bao nhiêu gian nan trắc trở, chúng ta cần bước tiếp, kiên định không nao núng. Trong sự nghiệp vĩ đại xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc, hãy đứng vững trên đất, gạt bỏ hết chông gai, tinh thần phấn chấn, đoàn kết phấn đấu, không ngừng tìm tòi và sáng tạo. Đó chính là cách kỉ niệm Lỗ Tấn hay nhất" (Tư liệu văn học 8, NXB Giáo dục, 2002).



2. Tác phẩm:



Cố hương là một trong số các truyện ngắn tiêu biểu nhất của nhà văn Lỗ Tấn, được in trong tập "Gào thét" (1923).



Trong truyện, tác giả phê phán sự sa sút của nông thôn phong kiến chủ yếu thông qua hai nhân vật Nhuận Thổ và Hai Dương. Niềm hi vọng được gửi gắm vào hình tượng hai cháu bé Hoàng và Thuỷ Sinh. Câu chuyện về chuyến từ biệt làng quê được kể từ nhân vật Tấn - xưng "tôi". Câu chuyện thấm đẫm những trạng thái cảm xúc buồn vui của "tôi", đồng thời thể hiện một quan điểm mới về cuộc sống qua những chiêm nghiệm, suy ngẫm giàu tính triết lí của nhân vật này.



3. Tóm tắt:



Nhân vật "tôi" về thăm quê. Làng quê hiện lên trong kí ức đẹp hơn làng quê thực tại. "Tôi" về mới biết mẹ sắp dọn nhà. Nhân vật "tôi" gặp thím Hai Dương, rồi gặp lại Nhuận Thổ - người bạn từ hai mươi năm trước, bây giờ tiều tuỵ vì túng bấn, đông con. Gia đình "tôi" rời làng, nhân vật "tôi" nghĩ về con đường xã hội tương lai.



II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM



Đọc truyện ngắn Cố hương của Lỗ Tấn, ta bắt gặp một nỗi thất vọng trước sự sa sút, suy tàn của làng quê phong kiến, lễ giáo phong kiến và niềm hi vọng thiết tha vào một cuộc sống mới, vào tư¬ơng lai của thế hệ trẻ.



Có thể hình dung bố cục của truyện thành ba phần.



- Phần đầu là hành trình trở về làng quê của nhân vật "tôi" (Tấn) - ngư¬ời kể chuyện (từ đầu cho đến "đang làm ăn sinh sống").



- Phần giữa là những ngày "tôi" ở làng quê để từ biệt (từ "Tinh mơ sáng hôm sau" cho đến "xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét.").



- Phần cuối là "tôi" và gia đình trên đường ra đi (từ "Thuyền chúng tui thẳng tiến" cho đến hết).

Tác giả phản ánh từ đó phê phán sự sa sút của nông thôn phong kiến chủ yếu thông qua hai nhân vật Nhuận Thổ và Hai Dương. Niềm hi vọng được gửi gắm vào hình tượng hai cháu bé Hoàng và Thuỷ Sinh. Câu chuyện về chuyến từ biệt làng quê được kể từ nhân vật Tấn - xưng "tôi". Câu chuyện thấm đẫm những trạng thái cảm xúc buồn vui của "tôi", đồng thời thể hiện một quan điểm mới về cuộc sống qua những chiêm nghiệm, suy ngẫm giàu tính triết lí của nhân vật này.



Không phải khi gặp lại và chứng kiến những thay đổi của Nhuận Thổ nên Tấn mới buồn mà cái buồn đã bao trùm ngay từ đầu truyện, trong chặng đư¬ờng trở về quê hương. Có vẻ buồn của một người trở về "vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất khách", song nỗi buồn trĩu nặng tâm can là nỗi buồn trước cảnh làng quê: "thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vòm trời vàng úa". Khung cảnh ấy làm dấy lên nỗi nghi hay thầm dự cảm về những chuyện buồn rồi đây sẽ gặp ở quê hương: "hẳn làng cũ của mình vốn chỉ như thế kia thôi, tuy chưa tiến bộ hơn xưa, nhưng cũng vị tất đến nỗi thê lương như mình tưởng. Chẳng qua là tâm mình đã đổi khác...". Sự tương phản giữa "tôi" xưa và tui "nay" trong cảm nhận còn xuyên suốt thiên truyện.



Có thể thấy sự thay đổi sa sút của quê hương "tôi" ở sự biến dạng của Nhuận Thổ. Tác giả tạo ra sự tương phản trong thời gian quá khứ và hiện tại để lột tả những thay đổi đáng buồn của Nhuận Thổ, người đã từng là bạn với Tấn từ thủa thiếu thời. Trong kí ức "tôi" sống dậy những hình ảnh tuyệt đẹp của quá khứ thần tiên hơn hai mươi năm trước, trong đó nổi bật hình ảnh một Nhuận Thổ khoẻ khoắn, lanh lợi "cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba", "nước da bánh mật" với biết bao chuyện lạ, bao điều kì thú. Đối lập với một Nhuận Thổ hiện tại già nua, thô kệch, nặng nề, da dẻ "vàng xạm, lại có thêm những nếp nhăn sâu hoắm". Nhuận Thổ bây giờ sống trong một tình cảnh bi đát: "Con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cư¬ớp, quan lại, thân hào đày đoạ thân anh khiến anh trở thành đần độn, mụ mẫm đi!". Khi xưa, lúc hai ng¬ười bạn phải chia tay: "Lòng tui xốn xang, tui khóc to lên", Nhuận Thổ "cũng khóc mà không chịu về". Bây giờ gặp lại bạn cũ Nhuận Thổ "Bẩm ông!" khiến Tấn điếng người và cảm giác đã có "một bức tường khá dày ngăn cách". Bức tường ngăn cách ấy khiến người khổ không thể giãi bày, người sướng hơn không thể chia sẻ. Cuộc sống buồn thảm, con người buồn thảm, tình bạn cũng buồn thảm!



Duy chỉ có vẻ chân thật trong Nhuận Thổ là thoát được sự sa sút, biến dạng: "Ngày đông tháng giá, chẳng có gì. Đây chỉ là ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông...". Giá như không có cái điệu bộ khúm núm, không có những sáo ngữ thưa gửi thì đã không đáng buồn đến thế.



Thực trạng thê thảm của làng quê còn được tác giả phơi bày khi ông xây dựng nhân vật Hai Dương. Thái độ của người kể chuyện lộ rõ sự châm biếm khi nói về con người này. Đó là một người đàn bà "trên dưới năm mươi tuổi, lưỡng quyền nhô ra, môi mỏng dính", với bộ dạng "hai tay chống nạnh, không buộc thắt lưng, chân đứng chạng ra, giống hệt cái com-pa trong bộ đồ vẽ, có hai chân bé tí". Ngư¬ời đàn bà đã từng được mệnh danh là "nàng Tây Thi đậu phụ" này lộ rõ tính cách hợm hĩnh, lưu manh khi bịa đặt kể công bế ẵm Tấn và chỉ chực dòm ngó chôm chỉa đồ đạc. Và còn những con người khác của cái làng quê ấy cũng thật đáng buồn: "Kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc. Có kẻ vừa đưa chân, vừa lấy đồ đạc.". Tất cả được bày ra như biểu thị sự tha hoá của con người.



Cho nên, ta mới hiểu tại sao kẻ từ biệt quê hương ra đi mà lòng lại không chút lưu luyến như thế. Làng quê xưa đẹp đẽ là vậy, những con người khi xưa đáng yêu là vậy mà hiện tại chỉ còn là những hình ảnh biến dạng, sa sút. Người ra đi chỉ còn thấy lẻ loi, ngột ngạt trong bốn bức tường vô hình, cao vọi. ấn t¬ượng đẹp đẽ về quê hương đã tan vỡ, hình ảnh ng¬ười bạn "oai hùng, cổ đeo vòng bạc" vốn rõ nét là thế mà trong thời khắc từ biệt đã trở nên mờ nhạt, ảo não.



Nhưng đó không phải là những hình ảnh khép lại thiên truyện. Những triết lí sâu sắc về hi vọng trong cuộc sống con người vốn đã được ươm mầm từ khi tác giả xây dựng hình tượng hai bé Hoàng và Thuỷ Sinh. Khi Tấn sống với dòng hồi ức tuổi thơ, anh đã nhận ra: "tui cảm giác tựa hồ tui đã tìm ra được quê hương tui đẹp ở chỗ nào rồi.". Quê hương đẹp ở những kỉ niệm của thời niên thiếu oai hùng, thần tiên. Bây giờ, Hoàng và Thuỷ Sinh thấy khoan khoái khi ở bên nhau, chúng thân thiết với nhau, không "cách bức" như Tấn và Nhuận Thổ. Cuộc sống mới phải được bắt đầu từ những tấm lòng trẻ trong trắng, hoà đồng. Tấn nghĩ đến cuộc sống tương lai và khẳng định: "Chúng nó cần sống một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tui chưa từng được sống". Thực tại còn u ám, thê lương. Nhuận Thổ xin chiếc lư hương và đôi đèn nến để thờ cúng, cũng là để cầu nguyện cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Còn "tôi" cũng đang hi vọng và mong ước những điều đẹp đẽ cho tương lai thế hệ trẻ. Những câu văn kết thúc thiên truyện chợt trở nên thâm trầm, triết lí: "đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng như những con đ¬ường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Ng¬ười ta đi mãi thì thành đư¬ờng thôi."



Cái hi vọng là cái chưa có, không ai hi vọng cái đang có bao giờ! Cái hi vọng cũng không là cái đã từng có, người ta phải hướng tới những cái mới, tốt đẹp hơn. Cảnh tượng đẹp đẽ có phần giống những hình ảnh trong hồi ức tuổi thơ của Tấn với Nhuận Thổ hiện ra khi anh đang mơ màng là thực. Trong cuộc đời mới của thế hệ Hoàng - Thuỷ Sinh, ngay cả vẻ đẹp ấy cũng sẽ khác. Cuộc đời mới ấy còn ở phía trước, có thể là xa vời, nhưng con người cứ mong ước, mong ước mãi để có được nó. Rồi cuộc sống mới ấy cũng sẽ đến, đúng như chân lí về sự hình thành của những con đường trên mặt đất vậy.



(Sưu tầm)
 

ngochai_tp1995

New Member
I. Đọc, tìm hiểu chung văn bản



1.Tác giả - tác phẩm




- Lỗ Tấn: Lúc nhỏ tên là Chu Thụ Nhân(1881-1963).

- Là chiến sĩ cộng sản kiên định, sớm có tư tưởng văn học tiến bộ.

- Công trình nghiên cứu và tác phẩm văn chương của Lỗ Tấn rất đa dạng và đồ sộ.

- Truyện có nhiều chi tiết hư cấu không đúng với sự thực.

- Là 1 truyện ngắn có yếu tố hồi ký (truyện ký) chứ không phải là hồi ký.

- cách biểu đạt chủ yếu là tự sự - song biểu cảm là cách biểu đạt có giá trị quan trọng trong tác phẩm.

- Trong “Cố Hương”, tác giả dùng ngôi thứ nhất không chỉ dẫn dắt câu chuyện mà còn thể hiện tình cảm, quan điểm, nguyện vọng. Đặc biệt ngay cả khi dung cách biểu đạt khác, kể cả miêu tả và lập luận, tình cảm sâu kín của tác giả thấm đẫm trong từng trang viết.

+Không phải sau 20 năm Lỗ Tấn mới về quê (tham khảo chú thích 1 SGK).

- Dù là truyện có nhiều chi tiết có thực trong cưộc đời Lỗ Tấn, song không nên đồng nhất nhân vật “tôi” với tác giả.



2.Đọc, tìm bố cục, tóm tắt văn bản



*Đọc

*Bố cục: 3 phần



1. Từ đầu đến “đang làm ăn sinh sống”: nhân vật “tôi” trên đường về quê.

2. Tiếp đến “sạch trơn như quét”: những ngày “tôi” ở quê.

3. Còn lại: “Tôi” trên đường rời xa quê.

*Tóm tắt:

“Tôi” trở về quê sau hơn 20 năm xa cách.

Lúc này thời tiết đang độ giưã đông, trời âm u, gió lạnh lùa vào khoang thuyền, làng xóm giờ đây tiêu điều xơ xác. Hình ảnh làng quê cũ hiện lên trong ký ức làm lòng “tôi” thấy không vui, về thăm làng chuyến này, “tôi” có ý định từ giã quê lần cuối và lo việc chuyển nhà đi nơi khác.

“tui nhớ đến người bạn cũ thủa nhỏ là Nhuận Thổ: 1 cậu bé nông dân khỏe mạnh, tháo vát, hiểu biết và hồn nhiên.Ngày ấy 2 đứa trẻ chơi thân với nhau, sau 20 năm xa cách gặp lại, nhân vật tui thấy Nhuận Thổ đã thay đổi nhiều: Anh trở thành 1 người nông dân cùng kiệt khổ, đần độn, mụ mẫm đi, “Tôi” buồn bã rời quê với niềm băn khoăn không biết tương lai của cháu Hoàng và Thuỷ Sinh sau này sẽ ra sao, hình ảnh con đường ở cuối truyện nói lên lòng mong mỏi hy vọng 1 sự đổi thay.



II. Đọc - Hiểu văn bản



Diễn biến tâm trạng của nhân vật “tôi”.



1. Trên đường về thăm quê




- Thời tiết đang độ giữa đông - trời u ám, giá lạnh.

- Từ biệt làng quê lần cuối, rời nhà đến nơi làm ăn sinh sống.

- Hình ảnh làng xóm xa gần, thấp thoáng tiêu điều.

- Cách miểu tả kết hợp vừa kể, vừa tả theo kiểu hồi ức, thể hiện rõ tâm trạng của nhân vật.

- Tâm trạng buồn, một nỗi buồn tiếc xót xa sau 20 năm trở về quê cũ.



2. Những ngày ở quê



a. Cảnh và con người ở quê




*Cảnh:

- Sáng tinh mơ

- Trên mái ngói mấy cọng rơm khô phất phơ

- Các gia đình đã dọn đi nhiều, càng hiu quạnh.

Hoang vắng, hiu quạnh gợi cảm giác buồn.

+ Mẹ: mừng rỡ, nét mặt ẩn 1 nỗi buồn.

- (Nỗi buồn của người sắp phải từ giã nơi mình sinh ra và lớn lên, từng gắn bó niềm vui và nỗi buồn trong cuộc đời mà chưa hẹn ngày gặp lại)

- Nỗi buồn khó nói thành lời (nỗi buồn trước sự thay đổi của quê hương).

+Cháu Hoàng: nhìn tui chòng chọc vì nó chưa gặp tui lần nào, tui thấy khác xa những người ở quê mà hàng ngày nó được gần gũi, tiếp xúc.

+Thím Hai Dương:

Trước kia

- Nàng tây thi đậu phụ, chị xoa phấn, lưỡng quyền không cao.

- Môi không mỏng, chị là người phụ nữ khá đẹp, có sức quyến rũ. Bây giờ

- Người đàn bà trên dưới 50, lưỡng quyền nhô ra.

-Môi mỏng dính

- Chân nhỏ xíu giống như chiếc com-pa.

- Hình ảnh người đàn bà tiều tuỵ, xấu xí, khác hẳn xưa, do dấu ấn của thời gian và vất vả của cuộc đời hằn sâu trên vóc dáng của con người đó.

+ Tính cách : giọng nói the thé, hay nói cạnh khoé, nguẩy *** quay đi còn giất đôi bít tất…

- Trở thành con người đanh đá, tham lam, ích kỷ.

Hình ảnh đối lập thể hiện sự thay đổi ghê gớm, thay đổi hoàn toàn trở thành một con người khác hẳn, tham lam, ích kỷ, đanh đá.

+Nhuận Thổ

Sau 20 năm

- Cao gấp 2, da vàng sạm

- Mắt viền đỏ húp lên, mũ rách tươm

- Tay nặng nề thô kệch, nứt nẻ như vỏ cây thông

- Xưng hô cung kính, cách thưa bẩm

- Nói năng thiểu não, chán ngán, mệt

- Hành động, cử chỉ: hút thuốc, ăn cơm xong nhặt nhạnh vật thừa.

Sau 20 năm: thay đổi nhiều, là người nông dân già nua, cùng kiệt khổ, đần độn, mụ mẫm, cam chịu số phận.



Nguyên nhân là do xã hội phong kiến: đông con nhà nghèo, chỗ nào cũng hỏi tiền không luật lệ gì cả, mất mùa thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đoạ.

Phản ánh hiện thực đầy đau khổ buồn tẻ của nông thôn Trung Quốc thời phong kiến.

- Tình trạng mụ mẫm, thái độ cam chịu, chấp nhận số phận của nhân vật Nhuận Thổ nói riêng, người nông dân Trung Quốc nói chung, đó là điều nguy hiểm nhất, là điều trăn trở đau xót nhất của nhà văn.

Tình bạn giữa 2 người, tình cảm sâu sắc không đổi thay. Đó là nét phẩm chất đáng quý của người nông dân.

Nhuận Thổ: là nhân vật điển hình của người nông dân Trung Quốc với cuộc sống cùng kiệt khổ, an phận, đau thương cùng tình trạng tinh thần mu muội, của dân chúng trong xã hội phong kiến đầu thế kỷ XX.

- Tác giả đã dùng nghệ thuật hồi ức, hiện tại để đối chiếu so sánh làm rõ cảnh và người ở quê trong quá khứ và hiện tại.

Tâm trạng của nhân vật “tôi”: Thấy buồn xót trước cảnh đổi thay theo chiều hướng lụi tàn của quê hương và trước tình trạng tinh thần lạc hậu mụ mẫm của dân chúng.

Đây là những đoạn độc thoại nội tâm để xen kẽ với đoạn tự sự miêu tả đặc sắc.

- Khi gặp thím Hai Dương: trầm ngâm, im lặng.

- Gặp Nhuận Thổ: điếng người, buồn thương.
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Áp Dụng Phương Pháp Thảo Luận Nhóm Trong Dạy Học Đọc - Hiểu Văn Bản Truyện Dân Gian Luận văn Sư phạm 0
T Sách đọc hiểu văn bản ngữ văn 9 : kiến thức cơ bản, kiến thức mở rộng, nâng cao, luyện tập Văn học 0
K Hướng dẫn học sinh trung học phổ thông đọc hiểu văn bản Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân theo đặc trưng thi pháp chủ nghĩa lãng mạn Luận văn Sư phạm 2
M Hướng dẫn học sinh THPT đọc hiểu bài thơ Tràng Giang (Ngữ văn 11 tập II) của Huy Cận theo hướng tiếp cận cấu trúc tác phẩm văn chương Luận văn Sư phạm 0
P Hướng dẫn học sinh đọc hiểu bài đọc thêm văn học trong chương trình THPT Luận văn Sư phạm 0
N Vận dụng khái niệm Kinh nghiệm và tư duy trong triết lý giáo dục của John Dewey hướng dẫn học sinh THPT đọc hiểu văn bản Sóng của Xuân Quỳnh Luận văn Sư phạm 0
B Vận dụng lí thuyết trường nghĩa vào dạy - học đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao ( Ngữ văn 11, tập 1) Luận văn Sư phạm 3
F Vận dụng lí thuyết trường nghĩa vào dạy – học đọc hiểu đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn lớp 12 tập 1 Luận văn Sư phạm 4
M Vận dụng quy trình bài học trong mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) vào việc dạy học đọc hiểu văn bản nhật dụng ở lớp 7 Luận văn Sư phạm 0
T Xây dựng một đường hướng sư phạm đối với việc đọc hiểu văn bản quảng cáo cho sinh viên Việt Nam học tiếng Pháp Ngoại ngữ 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top