LỤC VÂN TIÊN CỨU KIỀU NGUYỆT NGA

(Trích Truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)



I - TÌM HIỂU CHUNG



1. Tác giả:




- Quê mẹ ở huyện Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh); quê cha ở xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên  Huế, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (tức Đồ Chiểu, 1822-1888) thi đỗ tú tài năm 1843; đến năm 1849 thì mắt bị mù, ông về Gia Định dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Khi thực dân Pháp xâm lược Nam Kỳ, Nguyễn Đình Chiểu tích cực tham gia phong trào kháng chiến, cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn việc đánh giặc, đồng thời sáng tác thơ văn khích lệ tinh thần nghĩa sĩ. Khi Nam Kì rơi vào tay giặc, ông về sống ở Ba Tri (Bến Tre). Mặc dù thực dân Pháp và tay sai nhiều lần mua chuộc, dụ dỗ nhưng Nguyễn Đình Chiểu đã giữ trọn lòng trung thành với Tổ quốc, kiên quyết không hợp tác với chúng.



- "Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ đầu tiên ở Nam Bộ đã dùng chữ Nôm làm phương tiện sáng tác chủ yếu, để lại một khối lượng thơ văn khá lớn và rất quý báu. Trước khi thực dân Pháp xâm lược, sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu thiên về thể loại truyện thơ Nôm truyền thống, xoay quanh đề tài đạo đức xã hội, nổi tiếng nhất là truyện Lục Vân Tiên (khoảng đầu những năm 50, thế kỉ XIX) rồi đến Dương Từ - Hà Mậu. Sau khi thực dân Pháp xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu viết một loại tác phẩm nhằm khích lệ tinh thần chiến đấu hi sinh của nhân dân Pháp xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu viết một loại tác phẩm nhằm khích lệ tinh thần chiến đấu hi sinh của nhân dân và biểu dương những tấm gương anh hùng, liệt sĩ: Chạy tây (1859), Văn Tế Trương Định (1864), Mười hai bài thơ điếu Phan Tòng (1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vọng Lục tỉnh (1874), ngoài ra còn Thảo thử hịch (Hịch đánh chuột), Thư gửi cho em và mốt số bài thơ Đường luật khác như Ngựa Tiêu sương, Từ biệt cố nhân, Tự thuật...Từ sau khi Nam Bộ lọt hoàn toàn vào tay giặc, Nguyễn Đình Chiểu còn viết một truyện thơ Nôm dài dưới hình thức hỏi đáp về y học Ngự Tiều y thuật vấn đáp. Có thể Nguyễn Đình Chiểu còn là tác giả của bài Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh tây rất phổ biến ở Nam Kì những ngày đầu chống Pháp.



Nguyễn Đình Chiểu đã trao đổi ngòi bút của mình một "thiên chức" lớn lao là truyền bá đạo làm người chân chính và đấu tranh không mệt mỏi với những gì xấu xa để tiện, trái đạo lí, nhân tâm. Đó là khát vọng hành đạo cứu đời của người nho sĩ không may bị tật nguyền nhưng lòng vẫn tràn đầy nhiệt huyết. Từ tác phẩm đầu tay đến tác phẩm cuối cùng, chưa bao giờ ngòi bút Nguyễn Đình Chiểu xa rời thiên chức ấy: " Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà" (Trịnh Thu Tiết - Từ tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường, NXB Đại học Sư phạm, 2004).



2. Tác phẩm



- Truyện Lục Vân Tiên là một truyện thơ Nôm rất nổi tiếng ở Nam Kì và Nam Trung Kỳ, được Nguyễn Đình Chiểu sáng tác khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX. Do được lưu truyền chủ yếu dưới hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian (kể thơ, nói thơ, hát thơ...) nên truyện có nhiều bản khác nhau. Theo văn bản phổ biến hiện nay thì truyện có 2082 câu thơ, được sáng tác theo thể lục bát.



- "Truyện được sáng tác dưới hình thức truyện kể, ban đầu chỉ truyền miệng và chép tay, lưu hành trong đám môn đệ và những người mến mộ tác giả, rồi sau mới lan rộng ra nhân dân và ngay lập tức được truyền tụng rộng rãi khắp chợ cùng quê, hội nhập được sinh hoạt văn hoá dân gian, đặc biệt là ở Nam Kỳ, dưới hình thức "kể thơ","nói thơ," Vân Tiên"hát" Vân Tiên.Truyện được xuất bản lần đầu bằng chữ Nôm năm 1986 bằng chữ quốc ngữ năm 1897, bản dịch tiến Pháp đầu tiên là bản dịch của G.Aubaret xuất bản năm 1864.



Từ đó đến nay có rất nhiều bản in khác nhau, do đó cũng có rất nhiều dị bản, có khi thêm bớt cả trăm câu thơ, đặc biệt là ở đoạn kết. Theo văn bản thường dùng hiện nay, truyện có 2082 câu thơ lục bát. Truyện kể về một chàng trai văn võ song toàn, tên là Lục Vân Tiên. Đang theo thầy học tập trên núi, nghe tin triều đình mở khoá thi, Vân Tiên xin phép thầy xuống núi đua tài. Dọc đường về thăm cha mẹ, Vân Tiên gặp một đám cướp đang hoành hành. Chàng đã một mình bẻ gậy xông vào đánh tan bọn cướp, cứu thoát tiểu thư con quan Tri Phủ là Kiều Nguyệt Nga. Làm xong việc nghĩa, không màng đến sự trả ơn, Vân Tiên thanh thản ra đi, gặp và kết bạn với Hớn Minh. Còn Nguyệt Nga, về tời phủ đường của cha, Thank cứu mạng và cũng mến phục tài đức của Vân Tiên, nàng đã hoạ một bức hình Vân Tiên treo luôn bên mình. Vân Tiên về thăm cha mẹ rồi cùng Tiểu đồng lên đường tới trường thi. Qua Hàn Giang, chàng ghé thăm nhà Võ Công, người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Thấy Vân Tiên khôi ngô tuấn tú, Võ Công rất mừng, giới thiệu cho chàng một người bạn đồng hành là Vương Tử Trực, lại cho con gái ra tiễn đưa Vân Tiên với những lời dặn dò tình nghĩa. Vân Tiên cùng Tử Trực tới kinh đô, gặp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, cả bốn người vào quán uống rượu, làm thơ. Thấy Vân Tiên, Tử Trực tài cao, Trịnh Hâm sinh lòng đố kỵ, ghen ghét. Đúng ngày vào thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ chết, vội bỏ thi trở về quê chịu tang. Đường sá xa xôi vất vả, lại thương khóc mẹ nhiều, Vân Tiên bị đau mắt nặng. Tiểu đồng hết lòng chạy chữa thuốc thang nhưng chỉ gặp toàn những lang băm và các thầy bói, thầy pháp lừa đảo, bịt bợm nên tiền mất mà tật vẫn mang, Vân Tiên bị mù cả hai mắt. Đang khi bối rối lại gặp Trịnh Hâm đi thi trở về. Vốn sẵn tính đố kỵ, độc ác, Trịnh Hâm lập âm mưu dụ Tiểu đồng vào rừng hái thuốc, rồi trói vào gốc cây, lại nói dối Vân Tiên là Tiểu đồng đã bị cọp vồ. Hắn đưa Vân Tiên xuống thuyền, hứa sẽ về đến tận nhà. Nhưng khi thuyền ra giữa vời, lợi dụng đêm khuya thanh vắng, hắn đã đẩy chàng xuống nước. Tiểu đồng được Sơn quân cởi trói, tưởng Vân Tiên đã chết liền ở lại đó "che chói giữ mả", thờ phục sớm hôm. Còn Vân Tiên được Giao Long dìu đỡ, đưa vào bãi, lại được ông Ngư vớt lên, cứu chữa. Vân Tiên nhờ đưa tới nhà họ Võ để nương tựa. Nhưng cha con Võ Công tráo trở đã tìm cách hãm hại Vân Tiên, đem chàng bỏ vào trong hang núi Thương Tòng. Năm sáu ngày sau nhờ Du thần cứu, Vân Tiên mới ra được khỏi hang, lại được ông Tiều cho ăn và cõng ra khỏi rừng. May mắn chàng lại gặp được bạn hiền là Hớn Minh, vì "bẻ giò" cậu công tử con quan để cứu người con gái bị cưỡng bức giữa đường, Hớn Minh đã phải bỏ thi, lẩn trốn ở trong rừng. Hớn Minh đưa Vân Tiên về ngôi chùa cổ trong rừng nương náu. Cha con Võ Công, sau khi hãm hại được Vân Tiên lại tìm cách ve vãn Vương Tử Trực, lúc này đã đỗ thủ khoa đến nhà họ Võ để hỏi thăm tin tức Vân Tiên. Vương Từ Trực lòng dạ thẳng ngay đã mắng thẳng vào mặt cha con Võ công bội bạc, phản phúc, khiến Võ Công hổ thẹn sinh bệnh mà chết. Còn Kiều Nguyệt Nga nghe tin Vân Tiên đã chết, nàng thề sẽ suốt đời thủ tiết thờ chồng. Nàng đa từ chối lời cầu hôn của gia đình quan Thái sự cho nên bị Thái sự thù oán, tâu vua bắt nàng đi cống giặc Ô Qua. Trước khi phải ra đi, nàng đã sang nhà họ Lục làm chay bảy ngày cho Lục Vân Tiên theo lễ vợ chồng, rồi để tiền bạc lại nuôi cha Vân Tiên. Khi thuyền tới nơi biên giới, Nguyệt Nga đã ôm bức bình hình Vân Tiên nhảy xuống biển, quan quân phải đem cô hầu gái Kim Liên thế vào. Nhờ được sóng thần và Phạt quan âm cứu giúp, Nguyệt Nga dạt vào vườn hoa nhà họ Bùi. Bùi ông, cha của Bùi Kiệm về, hắn vẫn tán tỉnh, đòi lấy nàng làm vợ. Nguyệt Nga phải giả nhận lời, để tìm kế hoãn binh, rồi nửa đêm, nàng mang bức bình Vân Tiên trốn khỏi nhà họ Bùi vào rừng, nương nhờ ở nhà một bà lão dệt vải. Trong khi đó, Lục Vân Tiên đã được Tiên ông cho thuốc, mắt sáng như xưa. Chàng từ biệt Hớn Minh, trở về nhà thăm cha, viếng mộ mẹ. Biết chuyện Nguyệt Nga, Vân Tiên cảm động, tìm đến thăm Kiều công, cha của nàng, rồi ở lại đó ôn nhuần kinh sử. Năm sau, gặp khoa thi, chàng đõ Trạng Nguyên. Xảy ra có giặc Ô Qua gây hấn, Vân Tiên phụng mệnh vua cầm quân đi đánh giặc, tiến cử Hớn Minh làm phó tướng. Giặc tan, Vân Tiên mải đuổi theo tướng giặc, lạc vào rừng, tời nhà lão bà để hỏi thăm đường và gặp được Kiều Nguyệt Nga. Chàng trở lại triều đình, tâu trình mọi việc với vua. Sở vương tỉnh ngộ, cách chức Thái sư, sắc phong chức cho Kiều công, ban thưởng những người có công dẹp giặc. Những kẻ bạc ác bất nhân như Trịnh Hâm, mẹ con Võ Thể Loan đều không thoát được lưới trời. Tiểu đồng, Ngư ông, Tiều phu đều được đền ơn xứng đáng. Vân Tiên và Nguyệt Nga sum họp một nhà, chung hưởng hạnh phúc dài lâu" (Trịnh Thu Tiết - Từ tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường, Sđd).



- Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện.



Nghe tin triều đình mở khoa thi, Lục Vân Tiên từ giã thầy xuống núi đua tài. Trên đường trở về nhà thăm cha mẹ, gặp bọn cướp hoành hành, Lục Vân Tiên đã một mình đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga. Sau đó, Vân Tiên lại tiếp tục cuộc hành trình.



II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM



1. Qua đoạn trích, có thể nhận ra những tính cách nổi bật của Lục Vân Tiên. Trước hết, đó là sự cương trực, nghĩa khí, trọng lễ nghĩa và đạo lí. Đó là một chuẩn mực cho vẻ đẹp của kẻ trượng phu thời phong kiến.



Qua những lời Kiều Nguyệt Nga nói với Lục Vân Tiên, có thể thấy nàng là một người con gái khuê các, ăn nói nhỏ nhẹ, dịu dàng: "Chút tui liễu yếu đào tơ", "Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng"...



2. Hai nhân vật (Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga) trong đoạn trích này chủ yếu được miêu tả qua hành động và ngôn ngữ. Hành động thì mạnh mẽ, dũng cảm, lời nói thì cương trực, thẳng thắn, không một chút vòng vo uẩn khúc. Cách miêu tả như vậy rất gần với cách miêu tả trong truyện cổ tíc h: các nhân vật thường có tính cách nhất quán, rõ ràng, phân biệt rõ chính và tà, phải và trái, thiện và ác,...



3. Ngôn ngữ trong Truyện Lục Vân Tiên rất gần với ngôn ngữ trong ca dao dân ca, rất mộc mạc, giản dị chứ không hàm súc, đa nghĩa như ngôn ngữ trong Truyện Kiều hay các tác phẩm thơ được viết theo thể lục bát sau này. Điều đó một phần có thể do điều kiện sáng tác (Nguyễn Đình Chiểu bị mù, khi viết thường phải nhờ người khác chép lại), một phần khác do cái "chất Nam Bộ" trong con người và cả trong văn chương Nguyễn Đình Chiểu. Có thể nói ông là người con của miền đất Nam Bộ, sống mộc mạc, giản dị và có tính cách rất mạnh mẽ, dứt khoát.



(Sưu tầm)
 
1. Qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”, hãy phân tích hình ảnh Lục Vân Tiên.



a) Hình ảnh Lục Vân Tiên khi đánh cướp:

- Tính cách anh hùng, tài năng và tấm lòng vị nghĩa.

- Hình ảnh mang vẻ đẹp của người dũng tướng.

- Là người có cái đức, cái tài của bậc anh hùng; bênh vực kẻ yếu, chiến thắng những thế lực bạo tàn.



b) Thái độ cư xử với Kiều Nguyệt Nga.

- Chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài.

- Từ tâm, nhân hậu, tìm cách an ủi người bị nạn.

- Làm ơn vô tư, hành động nghĩa hiệp: Từ chối việc trả ơn của Kiều Nguyệt Nga.

- Quan niệm: làm việc nghĩa như là bổn phận, một lẽ tự nhiên. Cách cư xử của bậc anh hùng hảo hán.

=> Lục Vân Tiên là hình ảnh lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu gởi gắm niềm tin và ước vọng của mình.



2. Qua đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga”, với tư cách là người chịu ơn, Kiều Nguyệt Nga đã bộc lộ những nét đẹp tâm hồn như thế nào?



Nét đẹp tâm hồn của Kiều Nguyệt Nga.

- Là cô gái khuê các, thùy mị, nết na, có học thức: qua lời nói, cách xưng hô với Lục Vân Tiên thật khiêm nhường: “quân tử”, “tiện thiếp”.

- Cách nói năng văn vẻ, dịu dàng, mực thước, trình bày vấn đề rõ ràng, khúc chiết, đáp ứng đầy đủ những điều thăm hỏi ân cần của Lục Vân tiên: “Làm con đâu dám cãi cha”, “Chút tui liễu yếu đào thơ”.

- Thể hiện sự cảm kích, xúc động của mình dành cho Lục Vân tiên:

“Trước xe quân tử tạm ngồi,

Xin cho tiện thiệp lạy rồi sẽ thưa”.

- Ý thức và chịu ơn rất trọng của Lục Vân Tiên, không chỉ cứu mạng mà cứu cả cuộc đời trong trắng ( còn quí hơn tính mạng)

“ Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,

Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”

- Băn khoăn tìm cách trả ơn, dù hiểu rằng đền đáp đến mấy cũng không đủ:

“Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi”

=> Nét đẹp tâm hồn đó là đã làm cho hình ảnh Kiều Nguyệt Nga chinh phục được tình cảm yêu mến của nhân dân.



3.

“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

a) Hai câu thơ trên trích trong tác phẩm (hay đoạn trích) nào? Cho biết tác giả?

b) Nội dung hai câu thơ trên?



a) Hai câu thơ trên trích từ đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” hay từ tác phẩm “Lục Vân Tiên”.

Nội dung: Thể hiện quan niệm thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là người anh hùng (làm việc nghĩa như là bổn phận, một lẽ tự nhiên).



4. a) Chép lại 8 câu thơ đầu của đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn”.

b) Cho biết tác giả, nội dung chính của 8 câu thơ trên.




a)

“Đêm khuya lặng lẽ như tờ,

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay

Trịnh Hâm khi ấy ra tay,

Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.

Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,

Cho người thức dậy lấy lời phui pha.

Trong thuyền ai nấy kêu la,

Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”.

b) Tác giả: Nguyễn Đình Chiểu.

Nội dung: Trịnh Hâm hãm hại Lục Vân Tiên. Qua đó thể hiện hắn là người độc ác, bất nhân, bất nghĩa.



5

“Đêm khuya lặng lẽ như tờ,

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay

Trịnh Hâm khi ấy ra tay,

Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.

Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,

Cho người thức dậy lấy lời phui pha.

Trong thuyền ai nấy kêu la,

Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”.

(Lục Vân Tiên gặp nạn)

Qua đoạn thơ, hãy làm rõ tính cách của Trịnh Hâm.



Tính cách của Trịnh Hâm.

- Giết người vì đố kị, ganh ghét tài năng.

- Hành động độc ác, bất nhân vì hãm hại một người trong cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không phương chống đỡ.

- Là người bất nghĩa vì giết người bạn đã từng kết nghĩa.

- Hành động có toan tính, có âm mưu, sắp đặt khá kĩ lưỡng: chọn thời gian, không gian.

- Là người gian ngoan, xảo quyệt, la lối om sòm để che lấp tội ác.

=> Chỉ có tám dòng thơ nhưng tác giả đã kể lại một tội ác tày trời và lột tả tâm địa một kẻ bất nghĩa, bất nhân.



6. Nêu chủ đề của đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn”.



Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn nói lên sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn, đồng thời thể hiện thái độ quí trọng và niềm tin của tác giả đối với nhân dân lao động.



7. Qua đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn”, hãy nêu tính cách của ông Ngư.



Tính cách của ông Ngư.

- Khẩn trương, ân cần, chu đáo khi cứu người.

- Tấm lòng bao dung, nhân ái, hào hiệp; sẵn sàng cưu mang người bị nạn.

- Không hề tính toán đến ơn cứu mạng

- Cuộc sống đẹp, ngoài vòng danh lợi, ô trọc; sống tự do, phóng khoáng, hòa nhập, bầu bạn với thiên nhiên; là người tụ do, làm chủ cuộc đời của mình.



=> Qua nhân vật ông Ngư, tác giả gởi gắm khát vọng, niềm tin về cái thiện và con người lao động bình thường.
 
TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN

(Nguyễn Đình Chiểu )



A -TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN

1-Tác giả :

- Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888), tục gọi Đồ Chiểu ,sinh tại quê mẹ ở làng Tân Thới, tỉnh Gia Định (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh ),quê cha ở xã Bồ Điền -Phong Điền -Thừa Thiên Huế .

- Là nhà thơ lớn của dân tộc, ông để lại cho đời nhiều tác phẩm văn chương có giá trị nhằm truyền bá đạo lý và cổ vũ lòng yêu nước, ý chí cứu nước .

2-Tác phẩm

a -Nội dung:

Truyện lục vân tiên là truyện thơ nôm được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỷ XI X. Truyện gồm 2082 câu thơ lục bát được viết ra nhằm mục đích truyền dạy đạo lý làm người . Đạo lý đó là :

- Xem trọng tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội, tình cha con, mẹ con, nghĩa vợ chồng, tình bè bạn, tình yêu thương cưu mang những người hoạn nạn.

- Đề cao tinh thần nghĩa hiệp, sẵn sàng cứu khốn phò nguy...

- Thể hiện khát vọng của nhân dân, hướng tới lẽ công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời .

b-Nghệ thuật:

Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu, truyện thơ nôm mang tính chất là truyện để kể nhiều hơn là để đọc, để xem .Truyện có kết cấu ước lệ gần như đã thành khuôn mẫu .Tác phẩm khắc hoạ thành công những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga .

c-Chủ đề : Tác phẩm thể hiện khát vọng cứu người, giúp đời của tác giả, phẩm chất của hai nhân vật, thái độ và niềm tin của tác giả đối với nhân dân lao động.



B- CÁC DẠNG ĐỀ




1. Dạng đề 2-3 điểm










Đề 1
: Cho hai câu thơ sau :

"Nhớ câu kiến ngãi bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng ".

Em hãy viết đoạn văn giới thiệu về tác giả và cho biết ý nghĩa của hai câu thơ trên?





* Gợi ý :


a- Mở đoạn: giới thiệu khái quát về Nguyễn Đình Chiểu , và hai câu thơ.

b - Thân đoạn:

*Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn cuả dân tộc, mãi mãi xứng đáng là ngôi sao sáng trên bầu trời văn nghệ Việt Nam thế kỷ XI X , để lại cho đời nhiều tác phẩm văn chương có giá trị, nhất là truyện Lục Vân Tiên ...

- Lục Vân Tiên là người anh hùng lý tưởng của nhà thơ mù yêu nước. Chiến công đánh cướp của chàng mãi là bài ca hùng tráng của người anh hùng trong xã hội loạn lạc .Vân Tiên đã thể hiện một cách ứng xử vô cùng cao thượng và hào hiệp. Người đẹp băn khoăn về chuyện" báo đức thù công " thì Vân Tiên 'liền cười " rồi đĩnh đạc nói :

"Nhớ câu kiến ngãi bất vi,

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng ".

* Ý nghĩa của hai câu thơ :

Hai câu thơ tác giả thể hiện một quan niệm đạo lý người anh hùng là người sẵn sàng làm việc nghĩa một cách vô tư, không tính toán làm việc nghĩa là bổn phận, là lẽ tự nhiên. Đó là cách cư xử mang tinh thần nghĩa hiệp của các bậc anh hùng hảo hán .

c-Kết đoạn: Nguyễn Đình Chiểu đã đề cao tinh thần nhân nghĩa , ca ngợi lý tưởng anh hùng vị nghĩa cao đẹp. Quan niệm đó gắn với đạo lý làm người, hướng về nhân dân. Đó là bài học sâu sắc nhất mà ta cảm nhận được...

2 . Dạng đề 5 điểm








Đề 2 : "Lục Vân Tiên là một chàng trai tài ba, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài ". Hãy làm sáng tỏ nhận định trên qua đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga ".





(Trích Lục Vân Tiên -Nguyễn Đình Chiểu)



*Gợi ý :


a - Mở bài: giới thiệu chung về tác giả, đoạn trích, nhân vật

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước nổi tiếng, là tấm gương chói sáng trong lịch sử và văn học Việt Nam . Ông đã cống hiến cho đời nhiều tác phẩm nổi tiếng. Truyện thơ Lục Vân Tiên là tác phẩm được nhân dân ta vô cùng yêu thích và truyền tụng, bởi nó là bài học lớn về đạo lý làm người . Đoạn trích là một sự kiện đặc biệt làm nổi bật phẩm chất cao quý của Lục Vân Tiên...

b- Thân bài: Phân tích -chứng minh làm sáng tỏ những luận điểm sau:

- Lục Vân Tiên là chàng trai tài ba, dũng cảm : (hành động đánh cướp cứu dân , một mình tả xung hữu đột, không sợ nguy hiểm đến tính mạng ...Ân cần hỏi han Nguyệt Nga và nữ tì , thương cảm và e sợ cho hai người một cách chân tình ....

- Lục Vân Tiên là chàng trai trọng nghĩa khinh tài:(khi Kiều Nguyệt Nga kể đầu đuôi sự việc mình mắc nạn và xin được đền ơn thì Lục Vân Tiên liền cười và cho rằng đó là việc làm tất yếu, chuyện thường tình ....

c - Kết bài: khẳng định ....đó là những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật -mẫu người anh hùng lý tưởng của ông và quần chúng ...








Đề bài: Nhận xét về số phận ng­ười phụ nữ trong xã hội phong kiến, Nguyễn Du đã xót xa:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Bằng các tác phẩm đã học: “Chuyện ng­ười con gái Nam X­ương” của Nguyễn Dữ và những đoạn trích đã học của “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), em hãy làm sáng tỏ điều đó.





Gợi ý:


* Học sinh phải vận dụng những kiến thức đã học về văn bản và kiểu văn bản nghị luận văn học để giải quyết vấn đề đặt ra : số phận đầy đau khổ của ngư­ời phụ nữ trong xã hội phong kiến.

* Qua hai tác phẩm đã học: “Chuyện ngư­ời con gái Nam Xư­ơng” của Nguyễn Dữ và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, ta cần làm rõ những nỗi đau khổ mà ng­ời phụ nữ phải gánh chịu.

- Nàng Vũ Nư­ơng là nạn nhân của chế độ phong kiến nam quyền đầy bất công đối với ngư­ời phụ nữ.

+ Cuộc hôn nhân của Vũ N­ương với Tr­ương Sinh có phần không bình đẳng (Trư­ơng Sinh xin mẹ màng trăm lạng vàng c­ới Vũ N­ương về làm vợ) - sự cách bức giàu cùng kiệt khiến Vũ Nư­ơng luôn sống trong mặc cảm “thiếp vốn con kẻ khó đ­ược n­ương tựa nhà giàu”, và cũng là cái thế để Trư­ơng Sinh đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo và gia trư­ởng.

+ Chỉ vì lời nói con trẻ ngây thơ mà Tr­ờn Sinh tin nên đã hồ đồ độc đoán mắng nhiếc đánh đuổi vợ di, không cho nàng thanh minh, Vũ Nư­ơng buộc phải tìm đến cái chết oan khuất để tự minh oan cho mình.

+ Cái chết đầy oan ức của Vũ Nư­ơng cũng không hề làm cho l­ương tâm Trư­ơng Sinh day dứt. Anh ta cũng không hề bị xã hội lên án. Ngay cả khi biết Vũ Nư­ơng bị nghi oan, Tr­ương Sinh cũng coi nhẹ vì việc đã qua rồi. Kẻ bức tử Vũ N­ương coi mình hoàn toàn vô can.

- Nàng Kiều lại là nạn nhân của xã hội đồng tiền đen bạc

+ Vì tiền mà bọn sai nha gây nên cảnh tan tác, chia lìa gia đình Kiều.



“ Một ngày lạ thói sai nha

Làm cho khốc liệt chẳng qua vì tiền”



+ Để có tiền cứu cha và em khỏi bị đánh đập, Kiều đã phải bán mình cho Mã Giám Sinh - một tên buôn thịt bán ng­ười, để trở thành món hàng cho hắn cân đong, đo đếm, cò kè, mặc cả, ngã giá…

+ Cũng vì món lợi đồng tiền mà Mã Giám Sinh và Tú Bà đã đẩy Kiều vào chốn lầu xanh nhơ nhớp, khiến nàng phải đau đớn, cay đắng suốt m­ời lăm năm lư­u lạc, phải “thanh lâu hai l­ượt, thanh y hai lần”.

- Những ngư­ời phụ nữ như­ Vũ Nư­ơng, Thuý Kiều đều phải tìm đến cái chết để giải mọi nỗi oan ức, để giải thoát cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt của mình.



2. Yêu cầu về hình thức:


- Biết vận dụng kiến thức về nghị luận chứng minh để lập luận tạo thành một bài văn chứng minh hoàn chỉnh.

- Bố cục bài viết có đủ 3 phần

- Biết dùng dẫn chứng trực tiếp và gián tiếp để chứng minh.

- Diễn đạt l­ưu loát, có cảm xúc.
 
I. Đọc và tìm hiểu chung về văn bản



1. Tác giả




Nguyễn Đình Chiểu (Đồ Chiểu)-(1822-1888)

- Sinh ra ở quê mẹ: Gia Định

- Con quan, được nuôi dạy chữ ngay từ nhỏ. 12 tuổi theo cha (Nguyễn Đình Huy) chạy loạn về quê nội(Huế). Tại đây ông tiếp tục học hành, đỗ tú tài ở Gia Định (1843). Năm 1849, ông ra Huế dự thi Hội, đang chờ thi thì mẹ mất ở trong Nam, ông bỏ thi về chịu tang, khóc mẹ mù cả hai mắt.

- Học giỏi, đỗ tú tài (năm 26 tuổi)

- Bị mù, từ đó mở trường dạy học và làm thuốc tại quê nhà.

- 1858, Pháp đánh vào Gia Định, Nguyễn Đình Chiểu chạy về Cần Giuộc.

- Ba Tri. Phát mua chuộc ông không được: “Đất vua đã mất, đất của riêng tui nào có đáng gì?”.

- Ông mất năm 1888 tại Ba Tri (Bến tre).

Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sống đầy nghị lực, sống bằng khí phách luôn vượt lên bất hạnh và đau khổ để làm những việc có ích cho dân, cho nước, sống có đạo đức cao cả, yêu thương nhân dân, chống lại kẻ xâm lược.

Sự nghiệp sáng tác:

- Trước khi Pháp xâm lược: Lục Vân Tiên (Chiến đấu bảo vệ đạo đức, công lý)

- Sau khi Pháp xâm lược : thơ văn yêu nước chống Pháp.

Quan niệm sáng tác:

- Văn chương là vũ khí chiến đấu.

- Các tác phẩm của ông hầu hết viết bằng chữ Nôm:

+ Dương Từ Hà Mậu gồm 3456 câu lục bát.

+ Chạy tây ¬(1859)

+ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (1861)

+ 12 bài thơ điếu Trương Định và tế Trương Định (1864).

+ 12 bài thơ điếu Phan Tông (1868)

+ Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh (1874), Ngư tiều y thuật vấn đáp.



2. Tác phẩm



- Gồm hơn 2000 câu thơ lục bát

- Ra đời đầu những năm 50 của thế kỷ XIX. Gồm 4 phần:

1) Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga khỏi tay bọn cướp.

2) Lục Vân Tiên gặp nạn được thần và dân cứu giúp.

3) Kiều Nguyệt Nga gặp nạn vẫn chung thuỷ với Lục Vân Tiên.

4) Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga gặp lại nhau.

* Giá trị nội dung, nghệ thuật

- Nội dung: Truyền dạy đạo lý làm người.

Đề cao tư tưởng nhân nghĩa, tác phẩm có tính chất tự thuật, nhân vật Lục Vân Tiên chính là hình ảnh và ước mơ của tác giả: ca ngợi, đề cao đạo đức, nhân nghĩa (Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh).

+ Xem trọng tình nghĩa con người với con người trong xã hội, tình cha con, nghĩa vợ chồng, bè bạn, yêu thương cưu mang, giúp đỡ bạn bè lúc hoạn nạn…

+ Đề cao tinh thần nghĩa hiệp.

+ Thể hiện khát vọng của nhân dân, hướng tới công bằng và những điều tốt đẹp trong cuộc đời.

Phê phán, lên án những kẻ bất nhân, phi nghĩa (Võ Công, Võ Thể Loan, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm).

- Nghệ thuật:

+ Truyện thơ nôm lục bát

+ Ngôn ngữ mộc mạc giản dị, sử dụng những cách diễn xướng dân tộc: kể thơ, hát Vân Tiên, nói thơ…

Ước mơ khát vọng cháy bỏng trong tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu có được đôi mắt sáng, đánh đuổi được giặc ngoại xâm. Ước mơ đó đã được gửi gắm vào nhân vật.



II. Đọc, tìm hiểu văn bản



1. Đọc



2. Đại ý




Đoạn trích khắc hoạ phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên tài ba dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài; Kiều Nguyệt Nga hiều hậu, ân tình.



3. Vị trí



Đoạn trích thuộc phần II của truyện.

Trong đoạn trích, Lục Vân Tiên là nhân vật chính.

Hình ảnh Lục Vân Tiên gợi nhớ đến hình ảnh Thạch Sanh trong truyện cổ tích cùng tên.

Để nhân dân dễ hiểu những vấn đề tư tưởng đạo đức của chính thời đại nhân dân đang sống.



III. Tổng kết



1. Về nghệ thuật




Ngôn ngữ đối thoại kết hợp với những từ chỉ hoạt động mạnh mẽ.



2. Về nội dung.



Đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc hoạ những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Áp Dụng Phương Pháp Thảo Luận Nhóm Trong Dạy Học Đọc - Hiểu Văn Bản Truyện Dân Gian Luận văn Sư phạm 0
T Sách đọc hiểu văn bản ngữ văn 9 : kiến thức cơ bản, kiến thức mở rộng, nâng cao, luyện tập Văn học 0
K Hướng dẫn học sinh trung học phổ thông đọc hiểu văn bản Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân theo đặc trưng thi pháp chủ nghĩa lãng mạn Luận văn Sư phạm 2
M Hướng dẫn học sinh THPT đọc hiểu bài thơ Tràng Giang (Ngữ văn 11 tập II) của Huy Cận theo hướng tiếp cận cấu trúc tác phẩm văn chương Luận văn Sư phạm 0
P Hướng dẫn học sinh đọc hiểu bài đọc thêm văn học trong chương trình THPT Luận văn Sư phạm 0
N Vận dụng khái niệm Kinh nghiệm và tư duy trong triết lý giáo dục của John Dewey hướng dẫn học sinh THPT đọc hiểu văn bản Sóng của Xuân Quỳnh Luận văn Sư phạm 0
B Vận dụng lí thuyết trường nghĩa vào dạy - học đọc hiểu truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao ( Ngữ văn 11, tập 1) Luận văn Sư phạm 3
F Vận dụng lí thuyết trường nghĩa vào dạy – học đọc hiểu đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn lớp 12 tập 1 Luận văn Sư phạm 4
M Vận dụng quy trình bài học trong mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) vào việc dạy học đọc hiểu văn bản nhật dụng ở lớp 7 Luận văn Sư phạm 0
T Xây dựng một đường hướng sư phạm đối với việc đọc hiểu văn bản quảng cáo cho sinh viên Việt Nam học tiếng Pháp Ngoại ngữ 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top