Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
• ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
1. Bối cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là những năm đầu của thập kỷ 50 (XX), hệ thống xã hội chủ nghĩa được thành lập, nối liền từ châu Âu sang châu Á và ngày càng lớn mạnh, trở thành hệ thống thế giới.
Sự lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của cách mạng thế giới, trở thành chỗ dựa cho cách mạng Việt Nam. Song vào những năm cuối thập kỷ 50 (XX), giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện những bất đồng nghiêm trọng về nhiều vấn đề khác nhau, nhất là về quan điểm chính trị, về vị thế và ảnh hưởng quốc tế, về lợi ích dân tộc... trong đó đặc biệt là mâu thuẫn giữa Liên Xô - Trung Quốc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bắt đầu có sự rạn nứt, dẫn đến sự phân liệt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Lợi dụng tình thế này, các lực lượng phản cách mạng trên thế giới, đứng đầu là đế quốc Mỹ tìm cách khoét sâu mâu thuẫn, chia rẽ, làm suy yếu hệ thống xã hội chủ nghĩa và giảm thiểu sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Sau năm 1945, thắng lợi của các lực lượng chống phát xít đã mở ra thời kỳ mới trong sự nghiệp giải phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, nhất là những nước trong khu vực châu Á, châu Phi, châu Mỹ latinh. Ở những mức độ khác nhau, các nước này đã và đang đứng lên giành độc lập, tự do như Triều Tiên, Việt Nam, Inđônêsia, Philippin. Miến Điện... Đặc biệt, sự ra đời của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã tạo nên sự thay đổi mới trong cán cân lực lượng trên vũ đài quốc tế. Sự gia nhập của Trung Hoa vào hệ thống xã hội chủ nghĩa đã làm cho so sánh lực lượng trở nên có lợi cho cách mạng, đồng thời tấn công trực diện vào hệ thống chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Bên cạnh đó, thắng lợi của cách mạng Việt Nam làm cho cuộc đấu tranh của các dân tộc Đông Dương như được tiếp thêm sức mạnh. Sự đoàn kết gắn bó giữa ba nước Đông Dương Việt Nam - Lào - Campuchia càng thêm chặt chẽ, nhằm đối phó với những âm mưu, thủ đoạn xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ. Từ nửa cuối những năm 50 (thế kỷ XX), phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh ở châu Phi, châu Mỹ Latinh, làm tan rã từng mảng hệ thống thuộc địa, đưa nhiều quốc gia bước vào thời kỳ độc lập về chính trị, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế. Tháng 4-1955, tại Băng-đung (Inđônêxia), 29 nước Á-Phi đã họp và ra Bản tuyên bố gồm 10 nguyên tắc hoà bình, trung lập. Đó là một đóng góp quan trọng vào phong trào chống chủ nghĩa thực dân, củng cố nền độc lập của các nước Á-Phi và bảo vệ hoà bình thế giới. Sau Hội nghị Băngđung, phong trào giải phóng dân tộc phát triển như vũ bão. Năm 1956, ở châu Phi, 3 nước Bắc Phi - Tuynidi, Marốc, Xu đăng giành độc lập. Tháng 3-1957, nước Cộng hoà Gana ra đời, mở đầu thời kỳ vùng dậy của các nước Tây Phi. Đến năm 1960, đã có 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập và năm 1960 đi vào lịch sử với tên gọi “Năm châu Phi”. Bằng việc công nhận nền độc lập của hàng loạt các nước Á, Phi, Mỹ latinh, các nước đế quốc phương Tây bắt buộc phải thừa nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Nhìn chung, thời kỳ này cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Đó là nhân tố quốc tế hết sức thuận lợi đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, một số nước khi giành được độc lập lại có những khuynh hướng chính trị - xã hội khác, thậm chí ở nhiều nước, giới cầm quyền vẫn tiếp tục đi theo con đường cai trị của thực dân phương Tây. Trước thực tiễn đó, Nhà nước Việt Nam vừa ủng hộ chính sách hoà bình, trung lập để tập hợp lực lượng tiến bộ thế giới, vừa tranh thủ vận động các lực lượng khác nhau cho cuộc đấu tranh của dân tộc. Chính sách tăng cường đoàn kết với các nước Á - Phi đấu tranh vì độc lập, dân tộc của Đảng đã từng bước tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều nước, dẫn đến sự ủng hộ quốc tế rộng lớn đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế và quân sự phát triển nhất thế giới tư bản. Với ưu thế về vũ khí hạt nhân, Mỹ có tham vọng bá chủ toàn cầu. Ngày 6-4-1946, Tổng thống Truman tuyên bố: “Ngày nay, Hoa Kỳ là quốc gia mạnh, nghĩa là với một sức mạnh như thế, chúng ta có nghĩa vụ nắm quyền lãnh đạo thế giới”1. Để thực hiện tham vọng, Mỹ thực thi “Học thuyết Truman”, “Kế hoạch Macsan”, phát động và đẩy mạnh Chiến tranh lạnh, hòng bao vây Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân, giành giật các thuộc địa và áp đặt các nước đế quốc khác trong quỹ đạo của Mỹ.
Ở Việt Nam, cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dũng của nhân dân ta với đỉnh cao thắng là chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu đã buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Thắng lợi này mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mới, với những điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy những khó khăn, phức tạp. Đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và sau khi quân đội Pháp rút đi, nhân dân ta phải tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, bảo đảm đời sống, củng cố, xây dựng miền Bắc. Trước mắt, miền Bắc phải đối mặt với những khó khăn chồng chất - hậu quả của gần một thế kỷ thuộc địa và hơn chín năm chiến tranh. 90% dân số miền Bắc vốn sống bằng nghề nông, nhưng nền sản xuất nông nghiệp manh mún, cùng kiệt nàn, kỹ thuật canh tác lạc hậu, đời sống người nông dân còn thiếu thốn mọi bề. Nông nghiệp - ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc bị thiệt hại nghiêm trọng: 1.430.000 ha đất bị bỏ hoang, 8 công trình thuỷ nông lớn và nhiều công trình thuỷ nông vừa và nhỏ bị phá huỷ. Phần lớn ruộng đất chỉ làm một vụ, năng suất rất thấp, kỹ thuật sản xuất thô sơ, thiên tai liên tiếp. Nông thôn xơ xác, tiêu điều vì địch càn quét, đốt phá. Hoà bình lập lại, nhưng nạn đói vẫn liên tiếp xảy ra. Tháng 9-1954, miền Bắc có nửa triệu người chết đói. Nền công nghiệp chỉ vẻn vẹn có 20 xí nghiệp công nghiệp với thiết bị cũ kỹ, nhiều thứ đã hư hỏng, những bộ phận còn tốt và các tài liệu kỹ thuật quan trọng đều đã bị thực dân Pháp chuyển vào Nam. Tỷ trọng của công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công - nông nghiệp từ 10% năm 1939, tụt xuống còn 1,5% khi miền Bắc được giải phóng. Bên cạnh đó, tình trạng của tiểu - thủ công nghiệp cũng rất sa sút, không mấy sáng sủa, nhất là không có nguyên liệu sản xuất. Nhiều ngành, nghề thủ công truyền thống bị mai một hay mất hẳn. Hệ thống giao thông, bưu điện bị hư hỏng và xuống cấp.
Tình hình chính trị - xã hội miền Bắc còn nhiều bất ổn. Hoà bình lập lại nhưng tình hình an ninh còn rất phức tạp do thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các lực lượng phản động phá hoại. Trước, trong và sau ngày đình chiến, địch cưỡng ép di cư vào Nam hàng chục vạn người, phần lớn là đồng bào theo đạo Thiên chúa, công chức, nhà buôn, nhà giáo, bác sĩ, nhân viên kỹ thuật… Địch gài lại hàng ngàn gián điệp, hàng trăm nhóm phản động, cùng với các toán biệt kích được tung ra miền Bắc phá hoại các cơ sở kinh tế, các công trình công cộng. Các phần tử tay sai, các đảng phái phản động lén lút kích động quần chúng, gây bạo loạn ở một số địa phương, tung truyền đơn, tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng, của Chính phủ Việt Nam, hòng lung lạc quần chúng, gây hoang mang, dao động trong nhân dân. Ở biên giới phía Bắc, hàng ngàn thổ phỉ được các thế lực phản động Pháp, Mỹ, Tưởng tiếp tay, hoạt động phá hoại. Tại nhiều vùng khác nhau, ngụy quân, ngụy quyền cũ vẫn lén lút hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Sau chiến tranh, nhiều vấn đề xã hội chưa có điều kiện giải quyết. Vấn đề tôn giáo, dân tộc, giai cấp vốn đã phức tạp do chính sách chia rẽ của người Pháp, lúc này càng phức tạp hơn vì kẻ thù kích động. Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định tình hình, xây dựng lại đất nước là sự nghiệp mới mẻ, đầy gian khổ và khó khăn, trong khi đó, chính quyền cơ sở mới hình thành, chưa được củng cố, kiện toàn. Trình độ nhận thức và năng lực tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý xã hội của cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế. Đây là những khó khăn to lớn mà miền Bắc phải đối mặt trong những ngày tháng đầu tiên có hòa bình. Bên cạnh những thách thức đã nêu trên, trong bối cảnh, tình hình mới, dù còn nhiều khó khăn, nhưng thuận lợi vẫn là căn bản. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng trở thành hậu phương lớn của cả nước, có quân đội hùng mạnh, chính quyền hùng mạnh, Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Miền Nam, nhân dân giác ngộ chính trị cao, đã cùng cả nước làm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công và kháng chiến thắng lợi. Nhân dân ta có một đảng vững mạnh, có kinh nghiệm lãnh đạo, với đội ngũ đảng viên, đoàn viên hơn một triệu người, lại được nhân dân tiến bộ thế giới đồng tình ủng hộ. Thuận lợi đó sẽ được nhân lên thành sức mạnh to lớn để chiến thắng.
Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Nam Việt Nam trở thành chỗ đứng chân của hai tập đoàn tay sai thân Pháp và thân Mỹ, là nơi tranh giành ảnh hưởng giữa chúng với nhau. Do phải lệ thuộc ngày càng nhiều vào Mỹ trong quá trình tiến hành chiến tranh Đông Dương và bị bại trận, bị những khó khăn lớn ở chính nước Pháp, thực dân Pháp đã phải rút dần ra khỏi miền Nam nước ta, chuyển giao quyền lực cho đế quốc Mỹ- một cuộc chuyển giao quyền lực không êm thấm. Vì thế, ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ tuyên bố công khai không bị ràng buộc bởi các điều khoản của Hiệp định, can thiệp sâu, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để thực hiện âm mưa cơ bản, lâu dài đó, trước mắt, Mỹ tập trung nỗ lực giúp cho Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ, loại bỏ các thế lực thân Pháp, nắm trọn quyền thống trị miền Nam. Như vậy, miền Nam tạm thời thuộc quyền kiểm soát của Mỹ - Ngụy. Từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng, chấp hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, phần lớn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc, toàn bộ hoạt động của cách mạng phải chuyển sang cách hợp pháp, bất hợp pháp, công khai và bí mật. Đó là một thay đổi lớn tác động mạnh tới tâm tư, tình cảm của đồng bào, đồng chí miền Nam, trở thành một trong những khó khăn to lớn mà cách mạng ở miền Nam phải đối diện. Đi đôi với quá trình hất cẳng Pháp, tiêu diệt các thế lực thân Pháp, Mỹ - Diệm đồng thời dồn nỗ lực vào việc đánh phá cơ sở cách mạng, khủng bố nhân dân. Có trong tay sức mạnh về kinh tế và quân sự và bộ máy ngụy quân, ngụy quyền lớn mạnh, kẻ thù thẳng tay đàn áp, khủng bố các phong trào đấu tranh của nhân dân, tàn sát cán bộ, đảng viên, ráo riết đánh phá các cơ sở cách mạng, gây cho chúng ta nhiều tổn thất nặng nề. Từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến rừng núi, từ chót mũi Cà Mau đến bờ Nam sông Bến Hải bao trùm không khí trả thù, khủng bố, ruồng ráp căng thẳng. Máu của những đảng viên cộng sản và của đồng bào miền Nam tiếp tục đổ trên đường phố, xóm thôn. Bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo, thâm độc, Mỹ - Diệm mưu toan sẽ nhanh chóng tiêu diệt được lực lượng cách mạng và khuất phục được nhân dân ta. Sau chín năm ròng kháng chiến, miền Nam chưa một ngày có hoà bình. Một lần nữa, cách mạng miền Nam lại đứng trước những thử thách vô cùng to lớn, tưởng chừng khó vượt qua.
Như vậy, sau Hiệp định Giơnevơ, tình hình quốc tế và trong nước vừa có thuận lợi vừa có những khó khăn, phức tạp. Đặc điểm lớn nhất, chi phối toàn bộ yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng cả nước là đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam chưa hoàn thành. Cuộc đấu tranh vì nước Việt Nam độc lập thống nhất, dân chủ, hoà bình chưa kết thúc; cuộc đấu tranh đó còn phải tiếp tục dưới nhiều hình thức và bằng những phương pháp thích hợp. Cuộc đấu tranh này đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên cả hai miền Nam – Bắc nhiều vấn đề mới, phức tạp phải giải quyết để đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục tiến lên. Tình thế mới của đất nước đòi hỏi sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng phải tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén, chủ động, linh hoạt và vững vàng, đặc biệt phải nhanh chóng đưa ra được đường lối chống Mỹ, cứu nước phù hợp, hiệu quả, phát huy cao độ sức mạnh nội lực, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất nước nhà.
Trong những năm 1954-1959, ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đến khi phong trào "Đồng khởi" nổ ra và lan rộng mạnh mẽ, Đảng ta đã bám sát tình hình thực tiễn, những diễn biến, sự vận động nội tại của phong trào cách mạng Việt Nam và trên thế giới, phân tích âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, phân tích so sánh lực lượng giữa ta - địch, để đưa ra những quyết sách lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong điều kiện vừa có những thuận lợi cơ bản, song cũng có những thách thức, khó khăn vô cùng to lớn. Trong từng bước đi lên của cách mạng, Đảng đã kịp thời xác định những vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến thành bại của cách mạng, đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng chiến lược và sách lược cho cách mạng cả nước, cũng như cách mạng từng miền. Đó là mục tiêu bất di, bất dịch thực hiện hòa bình, dân chủ, độc lập, tự do trong cả nước. Trong chiến lược chung ấy, thực hiện củng cố miền Bắc thành nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà được coi là nhiệm vụ quan trọng, phải thực hiện đồng thời với nhiệm vụ đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm ở miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó đồng thời cũng là những nhận thức quan trọng được Đảng đúc rút qua quá trình tìm tòi, tổng kết thực tiễn những năm tháng đấu tranh gian khổ và hy sinh xương máu 1954-1959, trở thành cơ sở để Đảng hoạch định đường lối cứu nước độc lập, tự chủ, nhằm hoàn thành mục tiêu thiêng liêng của dân tộc: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
2. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước độc lập, tự chủ
Năm 1960, về căn bản, miền Bắc nước ta đã hoàn thành nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ giai cấp địa chủ, phong kiến, giải phóng va thực hiện các quyền dân chủ về ruộng đất cho người nông dân; tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954-1957), đẩy mạnh thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế - văn hoá (1958-1960). Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh đã hoàn thành. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp trên đà phát triển, sự nghiệp giáo dục, văn hoá phát triển mạnh mẽ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Thắng lợi của sự nghiệp củng cố miền Bắc là nguồn động viên to lớn để nhân dân miền Bắc bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Ở miền Nam, dưới ánh sáng Nghị quyết 15 (1-1959), một phong trào "Đồng khởi" mạnh mẽ bùng dậy. Sau thắng lợi của phong trào "Đồng khởi", đặc biệt là sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm ngày càng phát triển. Nhân dân cả nước một lòng phấn đấu và được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới.
Bước vào Nhà trắng. Tổng thống Đảng Dân chủ G. Kennơdi thay đổi chiến lược toàn cầu từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản ứng linh hoạt”. Đầu những năm 1960, để đối phó với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, Mỹ đưa thêm lực lượng đặc biệt vào Việt Nam, tăng cường viện trợ quân sự. Từ năm 1961, Mỹ đã lập Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự (MACV); ngày 15 -5-1962, Mỹ đưa quân vào Thái Lan. Số quân của Mỹ ở miền Nam nước ta đã tăng dần từ 3.000 tên vào tháng 12-1960 đến 23.000 vào tháng 12-19642. Dùng lực lượng nguỵ quân với cố vấn và vũ khí hiện đại, Mỹ càn quét, bình định, dồn dân hòng tiêu diệt Quân giải phóng miền Nam. Tuy nhiên, trên chiến trường miền Nam, đấu tranh vũ trang ngày càng phát triển nhanh chóng, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, đẩy đế quốc Mỹ và chế độ tay sai vào thế bị động, lúng túng, khủng hoảng triền miên.
Trước những chuyển biến của tình hình, đồng thời, để đáp ứng yêu cầu của ngày càng cao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng (9-1960) nhóm họp và xác định nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay là: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế giới"3. Hiện nay, do đế quốc
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
• ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
1. Bối cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt là những năm đầu của thập kỷ 50 (XX), hệ thống xã hội chủ nghĩa được thành lập, nối liền từ châu Âu sang châu Á và ngày càng lớn mạnh, trở thành hệ thống thế giới.
Sự lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống xã hội chủ nghĩa là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của cách mạng thế giới, trở thành chỗ dựa cho cách mạng Việt Nam. Song vào những năm cuối thập kỷ 50 (XX), giữa các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện những bất đồng nghiêm trọng về nhiều vấn đề khác nhau, nhất là về quan điểm chính trị, về vị thế và ảnh hưởng quốc tế, về lợi ích dân tộc... trong đó đặc biệt là mâu thuẫn giữa Liên Xô - Trung Quốc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa bắt đầu có sự rạn nứt, dẫn đến sự phân liệt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Lợi dụng tình thế này, các lực lượng phản cách mạng trên thế giới, đứng đầu là đế quốc Mỹ tìm cách khoét sâu mâu thuẫn, chia rẽ, làm suy yếu hệ thống xã hội chủ nghĩa và giảm thiểu sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam, gây ra không ít khó khăn cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Sau năm 1945, thắng lợi của các lực lượng chống phát xít đã mở ra thời kỳ mới trong sự nghiệp giải phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, nhất là những nước trong khu vực châu Á, châu Phi, châu Mỹ latinh. Ở những mức độ khác nhau, các nước này đã và đang đứng lên giành độc lập, tự do như Triều Tiên, Việt Nam, Inđônêsia, Philippin. Miến Điện... Đặc biệt, sự ra đời của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã tạo nên sự thay đổi mới trong cán cân lực lượng trên vũ đài quốc tế. Sự gia nhập của Trung Hoa vào hệ thống xã hội chủ nghĩa đã làm cho so sánh lực lượng trở nên có lợi cho cách mạng, đồng thời tấn công trực diện vào hệ thống chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Bên cạnh đó, thắng lợi của cách mạng Việt Nam làm cho cuộc đấu tranh của các dân tộc Đông Dương như được tiếp thêm sức mạnh. Sự đoàn kết gắn bó giữa ba nước Đông Dương Việt Nam - Lào - Campuchia càng thêm chặt chẽ, nhằm đối phó với những âm mưu, thủ đoạn xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ. Từ nửa cuối những năm 50 (thế kỷ XX), phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh ở châu Phi, châu Mỹ Latinh, làm tan rã từng mảng hệ thống thuộc địa, đưa nhiều quốc gia bước vào thời kỳ độc lập về chính trị, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế. Tháng 4-1955, tại Băng-đung (Inđônêxia), 29 nước Á-Phi đã họp và ra Bản tuyên bố gồm 10 nguyên tắc hoà bình, trung lập. Đó là một đóng góp quan trọng vào phong trào chống chủ nghĩa thực dân, củng cố nền độc lập của các nước Á-Phi và bảo vệ hoà bình thế giới. Sau Hội nghị Băngđung, phong trào giải phóng dân tộc phát triển như vũ bão. Năm 1956, ở châu Phi, 3 nước Bắc Phi - Tuynidi, Marốc, Xu đăng giành độc lập. Tháng 3-1957, nước Cộng hoà Gana ra đời, mở đầu thời kỳ vùng dậy của các nước Tây Phi. Đến năm 1960, đã có 17 nước châu Phi tuyên bố độc lập và năm 1960 đi vào lịch sử với tên gọi “Năm châu Phi”. Bằng việc công nhận nền độc lập của hàng loạt các nước Á, Phi, Mỹ latinh, các nước đế quốc phương Tây bắt buộc phải thừa nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Nhìn chung, thời kỳ này cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Đó là nhân tố quốc tế hết sức thuận lợi đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, một số nước khi giành được độc lập lại có những khuynh hướng chính trị - xã hội khác, thậm chí ở nhiều nước, giới cầm quyền vẫn tiếp tục đi theo con đường cai trị của thực dân phương Tây. Trước thực tiễn đó, Nhà nước Việt Nam vừa ủng hộ chính sách hoà bình, trung lập để tập hợp lực lượng tiến bộ thế giới, vừa tranh thủ vận động các lực lượng khác nhau cho cuộc đấu tranh của dân tộc. Chính sách tăng cường đoàn kết với các nước Á - Phi đấu tranh vì độc lập, dân tộc của Đảng đã từng bước tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều nước, dẫn đến sự ủng hộ quốc tế rộng lớn đối với sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.
Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ là nước có tiềm lực kinh tế và quân sự phát triển nhất thế giới tư bản. Với ưu thế về vũ khí hạt nhân, Mỹ có tham vọng bá chủ toàn cầu. Ngày 6-4-1946, Tổng thống Truman tuyên bố: “Ngày nay, Hoa Kỳ là quốc gia mạnh, nghĩa là với một sức mạnh như thế, chúng ta có nghĩa vụ nắm quyền lãnh đạo thế giới”1. Để thực hiện tham vọng, Mỹ thực thi “Học thuyết Truman”, “Kế hoạch Macsan”, phát động và đẩy mạnh Chiến tranh lạnh, hòng bao vây Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân, giành giật các thuộc địa và áp đặt các nước đế quốc khác trong quỹ đạo của Mỹ.
Ở Việt Nam, cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dũng của nhân dân ta với đỉnh cao thắng là chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu đã buộc chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ (7-1954), công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta. Thắng lợi này mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mới, với những điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy những khó khăn, phức tạp. Đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và sau khi quân đội Pháp rút đi, nhân dân ta phải tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, bảo đảm đời sống, củng cố, xây dựng miền Bắc. Trước mắt, miền Bắc phải đối mặt với những khó khăn chồng chất - hậu quả của gần một thế kỷ thuộc địa và hơn chín năm chiến tranh. 90% dân số miền Bắc vốn sống bằng nghề nông, nhưng nền sản xuất nông nghiệp manh mún, cùng kiệt nàn, kỹ thuật canh tác lạc hậu, đời sống người nông dân còn thiếu thốn mọi bề. Nông nghiệp - ngành kinh tế chủ yếu của miền Bắc bị thiệt hại nghiêm trọng: 1.430.000 ha đất bị bỏ hoang, 8 công trình thuỷ nông lớn và nhiều công trình thuỷ nông vừa và nhỏ bị phá huỷ. Phần lớn ruộng đất chỉ làm một vụ, năng suất rất thấp, kỹ thuật sản xuất thô sơ, thiên tai liên tiếp. Nông thôn xơ xác, tiêu điều vì địch càn quét, đốt phá. Hoà bình lập lại, nhưng nạn đói vẫn liên tiếp xảy ra. Tháng 9-1954, miền Bắc có nửa triệu người chết đói. Nền công nghiệp chỉ vẻn vẹn có 20 xí nghiệp công nghiệp với thiết bị cũ kỹ, nhiều thứ đã hư hỏng, những bộ phận còn tốt và các tài liệu kỹ thuật quan trọng đều đã bị thực dân Pháp chuyển vào Nam. Tỷ trọng của công nghiệp trong giá trị tổng sản lượng công - nông nghiệp từ 10% năm 1939, tụt xuống còn 1,5% khi miền Bắc được giải phóng. Bên cạnh đó, tình trạng của tiểu - thủ công nghiệp cũng rất sa sút, không mấy sáng sủa, nhất là không có nguyên liệu sản xuất. Nhiều ngành, nghề thủ công truyền thống bị mai một hay mất hẳn. Hệ thống giao thông, bưu điện bị hư hỏng và xuống cấp.
Tình hình chính trị - xã hội miền Bắc còn nhiều bất ổn. Hoà bình lập lại nhưng tình hình an ninh còn rất phức tạp do thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và các lực lượng phản động phá hoại. Trước, trong và sau ngày đình chiến, địch cưỡng ép di cư vào Nam hàng chục vạn người, phần lớn là đồng bào theo đạo Thiên chúa, công chức, nhà buôn, nhà giáo, bác sĩ, nhân viên kỹ thuật… Địch gài lại hàng ngàn gián điệp, hàng trăm nhóm phản động, cùng với các toán biệt kích được tung ra miền Bắc phá hoại các cơ sở kinh tế, các công trình công cộng. Các phần tử tay sai, các đảng phái phản động lén lút kích động quần chúng, gây bạo loạn ở một số địa phương, tung truyền đơn, tài liệu xuyên tạc chính sách của Đảng, của Chính phủ Việt Nam, hòng lung lạc quần chúng, gây hoang mang, dao động trong nhân dân. Ở biên giới phía Bắc, hàng ngàn thổ phỉ được các thế lực phản động Pháp, Mỹ, Tưởng tiếp tay, hoạt động phá hoại. Tại nhiều vùng khác nhau, ngụy quân, ngụy quyền cũ vẫn lén lút hoạt động chống phá chính quyền cách mạng. Sau chiến tranh, nhiều vấn đề xã hội chưa có điều kiện giải quyết. Vấn đề tôn giáo, dân tộc, giai cấp vốn đã phức tạp do chính sách chia rẽ của người Pháp, lúc này càng phức tạp hơn vì kẻ thù kích động. Khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định tình hình, xây dựng lại đất nước là sự nghiệp mới mẻ, đầy gian khổ và khó khăn, trong khi đó, chính quyền cơ sở mới hình thành, chưa được củng cố, kiện toàn. Trình độ nhận thức và năng lực tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý xã hội của cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế. Đây là những khó khăn to lớn mà miền Bắc phải đối mặt trong những ngày tháng đầu tiên có hòa bình. Bên cạnh những thách thức đã nêu trên, trong bối cảnh, tình hình mới, dù còn nhiều khó khăn, nhưng thuận lợi vẫn là căn bản. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng trở thành hậu phương lớn của cả nước, có quân đội hùng mạnh, chính quyền hùng mạnh, Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Miền Nam, nhân dân giác ngộ chính trị cao, đã cùng cả nước làm cuộc Cách mạng tháng Tám thành công và kháng chiến thắng lợi. Nhân dân ta có một đảng vững mạnh, có kinh nghiệm lãnh đạo, với đội ngũ đảng viên, đoàn viên hơn một triệu người, lại được nhân dân tiến bộ thế giới đồng tình ủng hộ. Thuận lợi đó sẽ được nhân lên thành sức mạnh to lớn để chiến thắng.
Sau Hiệp định Giơnevơ, miền Nam Việt Nam trở thành chỗ đứng chân của hai tập đoàn tay sai thân Pháp và thân Mỹ, là nơi tranh giành ảnh hưởng giữa chúng với nhau. Do phải lệ thuộc ngày càng nhiều vào Mỹ trong quá trình tiến hành chiến tranh Đông Dương và bị bại trận, bị những khó khăn lớn ở chính nước Pháp, thực dân Pháp đã phải rút dần ra khỏi miền Nam nước ta, chuyển giao quyền lực cho đế quốc Mỹ- một cuộc chuyển giao quyền lực không êm thấm. Vì thế, ngay khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ tuyên bố công khai không bị ràng buộc bởi các điều khoản của Hiệp định, can thiệp sâu, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để thực hiện âm mưa cơ bản, lâu dài đó, trước mắt, Mỹ tập trung nỗ lực giúp cho Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp nghị Giơnevơ, loại bỏ các thế lực thân Pháp, nắm trọn quyền thống trị miền Nam. Như vậy, miền Nam tạm thời thuộc quyền kiểm soát của Mỹ - Ngụy. Từ chỗ có chính quyền, có quân đội, có vùng giải phóng, chấp hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, phần lớn cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc, toàn bộ hoạt động của cách mạng phải chuyển sang cách hợp pháp, bất hợp pháp, công khai và bí mật. Đó là một thay đổi lớn tác động mạnh tới tâm tư, tình cảm của đồng bào, đồng chí miền Nam, trở thành một trong những khó khăn to lớn mà cách mạng ở miền Nam phải đối diện. Đi đôi với quá trình hất cẳng Pháp, tiêu diệt các thế lực thân Pháp, Mỹ - Diệm đồng thời dồn nỗ lực vào việc đánh phá cơ sở cách mạng, khủng bố nhân dân. Có trong tay sức mạnh về kinh tế và quân sự và bộ máy ngụy quân, ngụy quyền lớn mạnh, kẻ thù thẳng tay đàn áp, khủng bố các phong trào đấu tranh của nhân dân, tàn sát cán bộ, đảng viên, ráo riết đánh phá các cơ sở cách mạng, gây cho chúng ta nhiều tổn thất nặng nề. Từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến rừng núi, từ chót mũi Cà Mau đến bờ Nam sông Bến Hải bao trùm không khí trả thù, khủng bố, ruồng ráp căng thẳng. Máu của những đảng viên cộng sản và của đồng bào miền Nam tiếp tục đổ trên đường phố, xóm thôn. Bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo, thâm độc, Mỹ - Diệm mưu toan sẽ nhanh chóng tiêu diệt được lực lượng cách mạng và khuất phục được nhân dân ta. Sau chín năm ròng kháng chiến, miền Nam chưa một ngày có hoà bình. Một lần nữa, cách mạng miền Nam lại đứng trước những thử thách vô cùng to lớn, tưởng chừng khó vượt qua.
Như vậy, sau Hiệp định Giơnevơ, tình hình quốc tế và trong nước vừa có thuận lợi vừa có những khó khăn, phức tạp. Đặc điểm lớn nhất, chi phối toàn bộ yêu cầu và nhiệm vụ của cách mạng cả nước là đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam chưa hoàn thành. Cuộc đấu tranh vì nước Việt Nam độc lập thống nhất, dân chủ, hoà bình chưa kết thúc; cuộc đấu tranh đó còn phải tiếp tục dưới nhiều hình thức và bằng những phương pháp thích hợp. Cuộc đấu tranh này đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trên cả hai miền Nam – Bắc nhiều vấn đề mới, phức tạp phải giải quyết để đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục tiến lên. Tình thế mới của đất nước đòi hỏi sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng phải tỉnh táo, sáng suốt, nhạy bén, chủ động, linh hoạt và vững vàng, đặc biệt phải nhanh chóng đưa ra được đường lối chống Mỹ, cứu nước phù hợp, hiệu quả, phát huy cao độ sức mạnh nội lực, tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, hoàn thành nhiệm vụ lịch sử đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất nước nhà.
Trong những năm 1954-1959, ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đến khi phong trào "Đồng khởi" nổ ra và lan rộng mạnh mẽ, Đảng ta đã bám sát tình hình thực tiễn, những diễn biến, sự vận động nội tại của phong trào cách mạng Việt Nam và trên thế giới, phân tích âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, phân tích so sánh lực lượng giữa ta - địch, để đưa ra những quyết sách lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong điều kiện vừa có những thuận lợi cơ bản, song cũng có những thách thức, khó khăn vô cùng to lớn. Trong từng bước đi lên của cách mạng, Đảng đã kịp thời xác định những vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến thành bại của cách mạng, đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng chiến lược và sách lược cho cách mạng cả nước, cũng như cách mạng từng miền. Đó là mục tiêu bất di, bất dịch thực hiện hòa bình, dân chủ, độc lập, tự do trong cả nước. Trong chiến lược chung ấy, thực hiện củng cố miền Bắc thành nền tảng vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà được coi là nhiệm vụ quan trọng, phải thực hiện đồng thời với nhiệm vụ đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm ở miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó đồng thời cũng là những nhận thức quan trọng được Đảng đúc rút qua quá trình tìm tòi, tổng kết thực tiễn những năm tháng đấu tranh gian khổ và hy sinh xương máu 1954-1959, trở thành cơ sở để Đảng hoạch định đường lối cứu nước độc lập, tự chủ, nhằm hoàn thành mục tiêu thiêng liêng của dân tộc: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
2. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước độc lập, tự chủ
Năm 1960, về căn bản, miền Bắc nước ta đã hoàn thành nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ giai cấp địa chủ, phong kiến, giải phóng va thực hiện các quyền dân chủ về ruộng đất cho người nông dân; tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954-1957), đẩy mạnh thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế - văn hoá (1958-1960). Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh đã hoàn thành. Sản xuất nông nghiệp, công nghiệp trên đà phát triển, sự nghiệp giáo dục, văn hoá phát triển mạnh mẽ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể. Thắng lợi của sự nghiệp củng cố miền Bắc là nguồn động viên to lớn để nhân dân miền Bắc bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Ở miền Nam, dưới ánh sáng Nghị quyết 15 (1-1959), một phong trào "Đồng khởi" mạnh mẽ bùng dậy. Sau thắng lợi của phong trào "Đồng khởi", đặc biệt là sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam ra đời, cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm ngày càng phát triển. Nhân dân cả nước một lòng phấn đấu và được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới.
Bước vào Nhà trắng. Tổng thống Đảng Dân chủ G. Kennơdi thay đổi chiến lược toàn cầu từ “trả đũa ồ ạt” sang “phản ứng linh hoạt”. Đầu những năm 1960, để đối phó với sự phát triển của cách mạng Việt Nam, Mỹ đưa thêm lực lượng đặc biệt vào Việt Nam, tăng cường viện trợ quân sự. Từ năm 1961, Mỹ đã lập Bộ Chỉ huy viện trợ quân sự (MACV); ngày 15 -5-1962, Mỹ đưa quân vào Thái Lan. Số quân của Mỹ ở miền Nam nước ta đã tăng dần từ 3.000 tên vào tháng 12-1960 đến 23.000 vào tháng 12-19642. Dùng lực lượng nguỵ quân với cố vấn và vũ khí hiện đại, Mỹ càn quét, bình định, dồn dân hòng tiêu diệt Quân giải phóng miền Nam. Tuy nhiên, trên chiến trường miền Nam, đấu tranh vũ trang ngày càng phát triển nhanh chóng, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, đẩy đế quốc Mỹ và chế độ tay sai vào thế bị động, lúng túng, khủng hoảng triền miên.
Trước những chuyển biến của tình hình, đồng thời, để đáp ứng yêu cầu của ngày càng cao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng (9-1960) nhóm họp và xác định nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay là: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế giới"3. Hiện nay, do đế quốc
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: luận án Việt Nam tranh thủ nguồn viện trợ quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975) -pdf, đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước 1954 -1975, Sau chiến tranh chống Mỹ, bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng đứng trước nhiều khó khăn. Hậu quả chiến tranh, những vấn đề về xã hội phải giải quyết rất lớn. Nền kinh tế quốc dân mất cân đối; sản xuất không đủ tiêu dùng. Trong khi đó, các thế lực thù địch tìm mọi cách chống phá thành quả cách mạng vừa giành được cũng như công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam thống nhất.