yellow_moon1607
New Member
Download miễn phí Đề tài Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ 3
1. KháI niệm về hội nhập kinh tế quốc tế 3
2. Những đặc trưng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 9
CHƯƠNG II. TIẾN TRÌNH THỰC TRẠNG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 15
1. Tiến trình hội nhập (trong thời gian vừa qua) của Việt Nam 15
2. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay 19
3. Những khó khăn của nước ta trong tiến trình hội nhập hiện nay 25
4. Những thuận lợi của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay 28
CHƯƠNG III. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ 31
1. Xác định quan điểm chủ động quốc tế 31
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình hiện nay 34
KẾT LUẬN 38
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/web-viewer.html?file=jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-demo-2015-10-11-de_tai_gan_chat_viec_xay_dung_nen_kinh_te_doc_lap_tu_chu_voi_HkwOZyCiU8.png /tai-lieu/de-tai-gan-chat-viec-xay-dung-nen-kinh-te-doc-lap-tu-chu-voi-chu-dong-hoi-nhap-kinh-te-quoc-te-87163/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
Sự tách rời giữa tự do hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc điểm của giai đoạn quốc tế hóa trước đây. Trong giai đoạn mới việc hội nhập kinh tế gắn liền với việc tự do hóa kinh tế các thể chế, thị trường kinh tế... Không thể hội nhập kinh tế quốc tế nếu không tự do hóa kinh tế. Đây là đặc điểm mới của xu thế quốc tế hóa hiện nay.
Đương nhiên hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều mức độ nó gắn liền với mức độ của tự do hóa. Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hội nhập kinh tế càng sâu thì tự do hóa càng mạnh. Cơ sở của sự gắn bó chặt chẽ giữa hội nhập và tự do hóa chính là do sự phát triển sâu sắc của phân công lao động quốc tế. Với cơ chế thị trường thống nhất các quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế làm cho các nền kinh tế có sự gắn kết với nhau. Mỗi nền kinh tế là một bộ phận của chính thể toàn cầu. Chỉ có hội nhập mới là cách thức để phát huy những thế mạnh những lợithês so sánh trong phân công lao động quốc tế. Bổ sung những điểm yếu của các nền kinh tế có thể.
Như vậy vấn đề còn lại chỉ là ở chỗ xác định mức độ tiến trình hội nhập và tự do hóa như thế nào cho phù hợp với trình độ nền kinh tế. Đây là điều cần tính toán, cần nhắc với mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
3. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan nhưng đang chịu tác động lớn từ Mỹ. Và một số nước TB phát triển. Hiển nhiên là quá trình toàn cầu hóa gắn liền với sự phát triển của CNTB. CNTB lợi dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật tạo ra sự phát triển sản xuất mạnh mẽ. Và chínhtrong sự phát triển sản xuất với mục tiêu lợi nhuận các tổ chức độc quyền cạnh tranh với nhau gay gắt. Kết quả là hình thành những liên manh độc quyền không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi quốc tế. Chúng cấu kết với nhau chi phối các quan hệ kinh tế quốc tế. Như vậy khó có thể thay thế ngay thời kỳ đầu quá trình quốc tế hóa đã chịu sự chi phối của CNTB.
Chương II. tiến trình thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1. Tiến trình hội nhập trong thời gian vừa qua của Việt Nam
Nghiên cứu vấn đề này ta mới nhận thấy rằng: chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không phải là một điều hoàn toàn mới mẻ đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó chính là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo và từng hoàn cảnh, từng giai đoạn của đất nước những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 nă, 1945, Người đã nói: "Chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác.... Chúng ta sẽ mời những nàh chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu đến đây giúp việc cho chúng ta trong việc kiến thiết quốc gia..." cuối năm 1946 trong "Lời kêu gọi Liên hiệp quốc" Người lại viết "Trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dưới đây":
1) Đối với Lào và Miên (Campuchia), nước Việt Nam luôn tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền.
2) Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
Một là nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
Hai là, nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán quá cảnh quốc tế.
Ba là, nước Việt Nam tham gia một tổ chức hợp tác quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hiệp quốc.
Tuy nhiên trong thời gian đó, do hoàn cảnh lịch sử, quan hệ quốc tế của nước ta chỉ giới hạn trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) khối liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là Việt Nam chỉ có quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa, mà chủ yếu là nước ta dựa vào sự giúp đỡ của họ, đặc biệt là Liên Bang Xô Viết.
Tiếp theo đó là hai cuộc kháng chiến trường kỳ thần thánh chống Pháp và chống Mỹ của dân ta. Mọi nguồn lực, sức người, sức của đểu được tập trung tối đa cho chiến tranh, các vấn đề khác tạm thời gác lại.
Đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nước ta lại tập trung khôi phục nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung có sự giúp đỡ to lớn của xã hội chủ nghĩa trong Hợp đồng tương trợ kinh tế (SEV)?
Đồng thời nhận thấy xu thế toàn cầu hoá đang ngày càng tăng lên, các quốc gia ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ từng trường hợp vào nhau, do đó nếu nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế của thời đại mà mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển. Đại hội VI của Đảng (12 - 1986), trong khi quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Tuy nhiên trong tình hình cuộc chiến tranh lạnh lúc đó tiếp diễn, Mỹ vẫn ngoan cố kéo dàu việc bao vây, cấm vận chống lại nước ta thì việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhậ kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm tiếp theo đó chủ yếu nghiêng về một phía - Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEU).
Phải trải qua gần 5 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta bắt đầu vận hành có kết quả, đồng thời đứng trước thực tế của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, Liên Xô cũng đang trượt dài tới bờ vực của sự tan rã, đại hội VII của Đảng (6 - 1991) mới đề ra các luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo, tổng quát cho việc thị trường chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế rộng rãi ở nước ta. "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển"; "Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi".
Đại hội Đảng lần thứ VIII ( 6- 1996) tiếp tục cụ thể hoá các luận điểm trên và quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhậ kinh tế khu vực và thế giới" Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ IV khoá VIII (12 - 1997) cũng đã đưa ra nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Một là, trên vấn đề phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút nguồn lực bên ngoài.
Hai là, tiến hành khẩn trương, vững chắc ...