magic_thichyeu_lovely
New Member
Trong nhiều năm gần đây, người Việt có khuynh hướng quay trở về với gia (nhà) đình, họ hàng, mộ tổ tiên, làng xóm và quê hương như để bù lại là năm tháng xao lãng. Nhà văn hóa Phan Ngọc có nhận xét lạc quan: "Đây là một tập quán hay, nó giáo dục con người phải sống xứng đáng với cha ông, từng người một rời khỏi cương vị xã hội, quay trở về với cương vị thành viên của dòng họ”
(Bản sắc văn hoá Việt Nam)
Nguyễn Quang Thân
Tạp chí Tia Sáng
Nhưng những gì gọi là “bản sắc văn hoá” cũng bất thể bất di bất dịch với thời (gian) gian và bối cảnh xã hội biến đổi. tui có một ông chủ được bầu làm trưởng ban tộc hiểu họ X. Ở Hà Nội, ông luôn phàn nàn là trong các cuộc họp họ vào đầu năm thường bất thấy “bọn trẻ”. Số người đi họp mỗi năm một teo dần. nhiều dòng họ mất công của quyên lũy xây dựng lại nhà thờ nhưng rồi lại vắng như chùa bà đanh, ngay cả người trông coi cũng bất có vì con chau ra thành phố làm ăn hết, các ông tộc trưởng bất thể bỏ sinh kế của mình để nhịn đói ôm lấy bàn thờ ở quê.
Dù là “một tập quán hay” nhưng xem ra cái “bản sắc văn hoá” ấy cũng đang chuyển biến mạnh mẽ.
Ta hãy bắt đầu xem xét và suy nghĩ từ quan hệ gia (nhà) đình trở đi. Một trăm năm trước đây nếu có một ông quan bất nào bất cáo quan về chịu tang bố hay mẹ vài năm thì bị lên án là bất hiếu. Nhưng hiện nay liệu có thể bắt một người con đang làm chuyện ở một Công ty kinh doanh ‘chịu tang" như vậy được không? Những cặp uyên ương thời (gian) nay đều có kế hoạch tổ chức cuộc sống gia (nhà) đình như bao giờ cưới, bao giờ sinh con, xây nhà, học tập, đi du lịch… nhất nhất đều phải hoạch định trước và đương nhiên kế hoạch ấy liên quan đền sự tích lũy trước bạc và rất nhiều mối quan hệ trong xã hội. Nếu chuyện bất may xảy ra như bỗng nhiên ông bố, bà mẹ hay ông nội, bà ngoại bị mất, họ bất thể cưới chạy tang (chắc chắn vì chưa có trước hay chưa có nhà ở) hay chờ đoạn tang như trước đây đựợc. Mỗi ngày, một thanh niên nông dân chỉ làm ra năm, bảy ngàn, họ có chế nghỉ chuyện để đi ăn giỗ hay dự một đám cưới nhưng một kỹ sư làm cho Công ty nước ngoài ăn lương 10 hay l5 USD một ngày thì bất thể, đó là chưa nói sẽ bị mất chuyện nếu đi ăn giỗ".
Sau gia (nhà) đình là họ hàng. Một cô giáo trẻ ở nông thôn, nghỉ hè ra thành phố thăm bà con, cô bị trách cứ là "vô tình” vì trong cả một tuần lễ mà bất đến thăm ông chú này, bà cô nọ… Cô bất đi thăm họ hàng được vì nhân dịp ra tỉnh, cô còn phải đi thăm bảo tàng, triển lãm, hội chợ, hiệusách… để nâng cao hiểu biết và có chuyện kể lại cho các em học sinh, trách cô thì oan uổng cho cô quá. Chưa nói đến chuyện khi lớp người có tuổi từng chịu ảnh hưởng Nho giáo mất đi thì mối quan hệ huyết thống của lớp trẻ cùng một họ chắc sẽ nhạt dần.
Giọt máu đào có thể hơn ao nước lã, nhưng con người hiện lớn tồn tại bất phải bằng "những giọt máu đào" như xưa mà chính công chuyện và " ê- kíp" làm chất kết dính họ với nhau. Hai đứa em họ có thể bất gần gũi hay gắn bó keo sơn với nhau bằng "chiếnhữư”. Cưới xin cũng thế. Có luật lại kèm lệ. Theo luật, đôi nam nữ chỉ đến chính quyền đăng ký là xong. Nhưng lệ cưới xin lại quá rườm rà lễ tiết, nào chạm ngõ rồi ăn hỏi, rồi đón dâu, tiệc tùng nhà trai, nhà gái… Sự rườm rà, phô trương, quá coi trọng lễ vừa trở thành hủ tục, cản trở phát triển. Ngay cả đức Khổng Tử chẳng cũng từng nói: quá lê làm ta xấu hồ đấy sao?
Ngay cả hiện nay, khi những người ra thành phố làm ăn, trở nên giàu có, về quê xây lại mồ mả, dựng lại nhà thờ, nếu bất có suy nghĩ đúng mức thì chuyện quay trở lại với truyền thống và cội nguồn có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực trong cái làng quê còn cùng kiệt khổ. Họ này có điều kiện xây to mồ mả, nhà thờ, sẽ gây ra tình cảm đối lập với những họ cùng kiệt khác. Người ta chỉ biết họ chứ bất biết làng, chăm chút cho truyền thống gia (nhà) đình mình mà quên văn hóa nông thôn, sự khoe khoang của cải và chơi trội bất có tác dụng thúc đẩy văn hóa mà trái lại còn gây ra sự miệt thị không ý thức với người cùng kiệt hay kém cỏi.
Không thể tắm hai lần trong một dòng sông. Chủ trương khuyến khích bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc là đúng đắn, nhưng cái bản sắc ấy vốn bất phải cổ định, nó thay đổi đến đâu và lớp trẻ tiếp nhận sự thay đổi ấy như thế nào là đúng đắn để bất khỏi mang tội là "mất gốc" mà cũng đừng làm ra (tạo) ra sự kìm hãm giả làm ra (tạo) và khiên cưỡng trên đường đi đến những chân trời mới của dân tộc Việt Nam. Đó là những câu hỏi còn bỏ ngỏ cho những ai quan tâm đến lĩnh vực tinh thần của xã hội hiện đại.
Một triết gia (nhà) có nói lớn khái rằng, bản chất con người là thích quay lưng lại nhìn quá khứ để đi thụt lùi về tương lai. Đi thụt lùi thì chắc chắn bất đi được nhanh. Nhưng nếu bất có hành trang của quá khứ thì mãi mãi con người vẫn bất nhận ra và khẳng định được diện mạo của mình.
Theo: TCTS
(Bản sắc văn hoá Việt Nam)
Nguyễn Quang Thân
Tạp chí Tia Sáng
Nhưng những gì gọi là “bản sắc văn hoá” cũng bất thể bất di bất dịch với thời (gian) gian và bối cảnh xã hội biến đổi. tui có một ông chủ được bầu làm trưởng ban tộc hiểu họ X. Ở Hà Nội, ông luôn phàn nàn là trong các cuộc họp họ vào đầu năm thường bất thấy “bọn trẻ”. Số người đi họp mỗi năm một teo dần. nhiều dòng họ mất công của quyên lũy xây dựng lại nhà thờ nhưng rồi lại vắng như chùa bà đanh, ngay cả người trông coi cũng bất có vì con chau ra thành phố làm ăn hết, các ông tộc trưởng bất thể bỏ sinh kế của mình để nhịn đói ôm lấy bàn thờ ở quê.
Dù là “một tập quán hay” nhưng xem ra cái “bản sắc văn hoá” ấy cũng đang chuyển biến mạnh mẽ.
Ta hãy bắt đầu xem xét và suy nghĩ từ quan hệ gia (nhà) đình trở đi. Một trăm năm trước đây nếu có một ông quan bất nào bất cáo quan về chịu tang bố hay mẹ vài năm thì bị lên án là bất hiếu. Nhưng hiện nay liệu có thể bắt một người con đang làm chuyện ở một Công ty kinh doanh ‘chịu tang" như vậy được không? Những cặp uyên ương thời (gian) nay đều có kế hoạch tổ chức cuộc sống gia (nhà) đình như bao giờ cưới, bao giờ sinh con, xây nhà, học tập, đi du lịch… nhất nhất đều phải hoạch định trước và đương nhiên kế hoạch ấy liên quan đền sự tích lũy trước bạc và rất nhiều mối quan hệ trong xã hội. Nếu chuyện bất may xảy ra như bỗng nhiên ông bố, bà mẹ hay ông nội, bà ngoại bị mất, họ bất thể cưới chạy tang (chắc chắn vì chưa có trước hay chưa có nhà ở) hay chờ đoạn tang như trước đây đựợc. Mỗi ngày, một thanh niên nông dân chỉ làm ra năm, bảy ngàn, họ có chế nghỉ chuyện để đi ăn giỗ hay dự một đám cưới nhưng một kỹ sư làm cho Công ty nước ngoài ăn lương 10 hay l5 USD một ngày thì bất thể, đó là chưa nói sẽ bị mất chuyện nếu đi ăn giỗ".
Sau gia (nhà) đình là họ hàng. Một cô giáo trẻ ở nông thôn, nghỉ hè ra thành phố thăm bà con, cô bị trách cứ là "vô tình” vì trong cả một tuần lễ mà bất đến thăm ông chú này, bà cô nọ… Cô bất đi thăm họ hàng được vì nhân dịp ra tỉnh, cô còn phải đi thăm bảo tàng, triển lãm, hội chợ, hiệusách… để nâng cao hiểu biết và có chuyện kể lại cho các em học sinh, trách cô thì oan uổng cho cô quá. Chưa nói đến chuyện khi lớp người có tuổi từng chịu ảnh hưởng Nho giáo mất đi thì mối quan hệ huyết thống của lớp trẻ cùng một họ chắc sẽ nhạt dần.
Giọt máu đào có thể hơn ao nước lã, nhưng con người hiện lớn tồn tại bất phải bằng "những giọt máu đào" như xưa mà chính công chuyện và " ê- kíp" làm chất kết dính họ với nhau. Hai đứa em họ có thể bất gần gũi hay gắn bó keo sơn với nhau bằng "chiếnhữư”. Cưới xin cũng thế. Có luật lại kèm lệ. Theo luật, đôi nam nữ chỉ đến chính quyền đăng ký là xong. Nhưng lệ cưới xin lại quá rườm rà lễ tiết, nào chạm ngõ rồi ăn hỏi, rồi đón dâu, tiệc tùng nhà trai, nhà gái… Sự rườm rà, phô trương, quá coi trọng lễ vừa trở thành hủ tục, cản trở phát triển. Ngay cả đức Khổng Tử chẳng cũng từng nói: quá lê làm ta xấu hồ đấy sao?
Ngay cả hiện nay, khi những người ra thành phố làm ăn, trở nên giàu có, về quê xây lại mồ mả, dựng lại nhà thờ, nếu bất có suy nghĩ đúng mức thì chuyện quay trở lại với truyền thống và cội nguồn có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực trong cái làng quê còn cùng kiệt khổ. Họ này có điều kiện xây to mồ mả, nhà thờ, sẽ gây ra tình cảm đối lập với những họ cùng kiệt khác. Người ta chỉ biết họ chứ bất biết làng, chăm chút cho truyền thống gia (nhà) đình mình mà quên văn hóa nông thôn, sự khoe khoang của cải và chơi trội bất có tác dụng thúc đẩy văn hóa mà trái lại còn gây ra sự miệt thị không ý thức với người cùng kiệt hay kém cỏi.
Không thể tắm hai lần trong một dòng sông. Chủ trương khuyến khích bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc là đúng đắn, nhưng cái bản sắc ấy vốn bất phải cổ định, nó thay đổi đến đâu và lớp trẻ tiếp nhận sự thay đổi ấy như thế nào là đúng đắn để bất khỏi mang tội là "mất gốc" mà cũng đừng làm ra (tạo) ra sự kìm hãm giả làm ra (tạo) và khiên cưỡng trên đường đi đến những chân trời mới của dân tộc Việt Nam. Đó là những câu hỏi còn bỏ ngỏ cho những ai quan tâm đến lĩnh vực tinh thần của xã hội hiện đại.
Một triết gia (nhà) có nói lớn khái rằng, bản chất con người là thích quay lưng lại nhìn quá khứ để đi thụt lùi về tương lai. Đi thụt lùi thì chắc chắn bất đi được nhanh. Nhưng nếu bất có hành trang của quá khứ thì mãi mãi con người vẫn bất nhận ra và khẳng định được diện mạo của mình.
Theo: TCTS