thang_ngo_2002

New Member
Link tải miễn phí Luận văn: Giả trinh thám trong Tên tui là Đỏ của Orhan Pamuk : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 02 45
Nhà xuất bản: ĐHKHXH & NV
Ngày: 2014
Chủ đề: Văn học
Văn học nước ngoài
Văn học Thổ Nhĩ Kỳ
Miêu tả: 96 tr. + CD-ROM + Tóm tắt
Luận văn ThS. Văn học nước ngoài -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thổ Nhĩ Kỳ được coi là ngã tư của các nền văn minh, nơi gặp nhau
của phương Đông và phương Tây. Sự giàu có của nền văn hóa nói chung và
văn học nói riêng của miền đất này chưa được nhiều bạn đọc Việt Nam biết
đến. Luận văn mong phần nào đưa nền văn học Thổ Nhĩ Kỳ đến gần hơn với
độc giả Việt.
Từng được New York Times ca ngợi là “một ngôi sao mới mọc ở
phương Đông”, Orhan Pamuk là một hiện tượng trong văn học Thổ Nhĩ Kỳ
cũng như văn học thế giới. Ông giành được nhiều giải thưởng văn học trong
và ngoài nước. Ông được các nhà nghiên cứu văn học đánh giá cao về những
đóng góp nghệ thuật kể chuyện cũng như thái độ thẳng thắn đề cập tới các
căng thẳng sâu xa giữa phương Đông và phương Tây, giữa tập quán và thế
tục, khiến người đọc bị ám ảnh.
1.2. Đời sống văn học Thổ Nhĩ Kỳ được đánh thức trong lòng người đọc
Việt Nam bởi tiểu thuyết Tên tui là Đỏ của Orhan Pamuk. Tác phẩm có sức
lôi cuốn kỳ diệu với sự kết hợp sắc bén giữa truyện trinh thám gay cấn với
câu chuyện tình yêu lãng mạn, mâu thuẫn và hòa hợp giữa các nền văn hóa.
Tác phẩm không những là sáng tác tiêu biểu của Orhan Pamuk mà còn thể
hiện những bước đổi mới của nền văn học hậu hiện đại.
Tên tui là Đỏ ra mắt năm 2000 và được trao giải thưởng IMPAC năm
2003 và giải Nobel Văn học năm 2006. Cuốn sách được dịch ra 24 ngôn ngữ.
Tác phẩm được đánh giá là một kiệt tác với nội hàm dữ dội của một cây bút
bậc thầy. Thông qua bản dịch tiếng Việt của dịch giả Phạm Viêm Phương,
Huỳnh Kim Oanh, Nhà xuất bản Văn học và Nhã Nam, độc giả sẽ ngỡ ngàng6
phát hiện về một Thổ Nhĩ Kỳ cổ kính và rực rỡ, truyền thống và hiện đại,
phàm tục và linh thánh ẩn dưới vẻ ngoài của một câu chuyện trinh thám.
Tiểu thuyết Tên tui là Đỏ là một tác phẩm có cách thể hiện độc đáo.
Trên nền các vụ án mạng gay cấn đến nghẹt thở, chuyện tình lãng mạn đến
cảm phục, tác phẩm đề cập đến sự va chạm văn hóa giữa phương Đông và
phương Tây một cách lý thú. Cuốn tiểu thuyết được đông đảo bạn đọc đón
nhận. Tên tui là Đỏ không chỉ là nét đột phá về hình thức nghệ thuật, mà còn
là một khám phá mới mẻ của tác giả Orhan Pamuk trong việc thể hiện những
vấn đề lớn của văn hóa. Đô thành Istanbul cuối thế kỷ XVI chứa đựng bề dày
văn hóa mà tiêu biểu là cuốn sách của các nhà tiểu họa Hồi giáo. Tác phẩm là
một thách thức với độc giả, không chỉ ở vụ án ly kỳ, bí ẩn đến phút chót, mà
người đọc sẽ cảm nhận và ngấm dần một nền văn hóa trong thời buổi va chạm
Đông – Tây. Với những độc đáo về hình thức và sâu sắc về nội dung, Tên tôi
là Đỏ không chỉ gây tò mò đối với độc giả mà còn là mảnh đất màu mỡ để
khám phá cho những ai đam mê văn chương.
1.3. Truyện trinh thám lôi cuốn độc giả bởi những điều bí ẩn đến từ vụ
án và hành trình giải mã thông minh của thám tử. Edgar Allan Poe là người
khai sinh “trò chơi trí tuệ” này. Barry Lewis cho rằng thể loại trinh thám là
một trong những ứng cử viên cho tư cách bạn đồng hành đúng nghĩa của hậu
hiện đại bởi việc truy tìm những manh mối, cám dỗ đứng song song, gần gũi
với việc độc giả săn tìm ý nghĩa của văn bản. T.Todorov đưa ra những quy tắc
của thể loại này và chúng trở thành mẫu mực cho các nhà văn khai thác mảng
trinh thám. Nếu chiếu theo những điều này, Tên tui là Đỏ đã vi phạm quy tắc
của tiểu thuyết trinh thám cổ điển. Orhan Pamuk đã mượn cái khung của tiểu
thuyết trinh thám để nêu lên những câu chuyện về tình yêu, về văn hóa, nghệ
thuật. Ông đã vượt qua những quy tắc của thể loại để hướng đến những vấn
đề mang tính khái quát, tạo nên một dạng trinh thám riêng mang màu sắc cá
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi7
nhân. Tên tui là Đỏ là một “biến tấu lạ lùng” của thể loại trinh thám. Đó chính
là giả trinh thám của văn học hậu hiện đại.
Với những lý do kể trên, chúng tui quyết định lựa chọn đề tài Giả trinh
thám trong Tên tui là Đỏ của Orhan Pamuk. Hy vọng từ góc độ này, chúng
tui có thể góp thêm một cách nhìn vào việc giải mã tác phẩm văn học của
Orhan Pamuk.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về truyện trinh thám và giả trinh thám
Khái niệm truyện trinh thám được dùng để chỉ thể loại văn xuôi hư cấu
được khai sinh bởi Edgar Allan Poe (1809 – 1849) với bộ ba tác phẩm Vụ án
đường Morgue, Lá thư bị mất và Bí mật của Marie Roger, sau đó được tiếp
nối với Wikie Collins, Arthur Conan Doyle, John Dicson Carr, Agatha
Christie, Stanley Gardner… Adgar Poe quan niệm truyện trinh thám là một
thể loại văn học duy lý, một trò chơi trí tuệ mà “người chiến thắng là người
bước vào đầu óc địch thủ, đồng nhất với hắn” [12, 637]. Ông xem truyện trinh
thám là một bài toán hóc búa, phức tạp, trong đó các chi tiết được gài đặt tạo
nên tình thế gay cấn, bí ẩn có vẻ không giải được, nhưng cuối cùng thám tử
đã sáng tỏ tất cả nhờ suy luận, phán đoán theo phương pháp diễn dịch.
Connan Doyle cũng nhấn mạnh vào phép lý luận, nhưng với ông là “phép suy
luận ngược chiều”. Người ta nói cho anh cái kết cục và tự anh phải tìm ra tất
cả những sự việc đã dẫn đến cái kết cục ấy.
Bắt đầu từ Edgar Allan Poe, truyện trinh thám đã được nâng lên tầm văn
học, để từ đó đến nay, nó làm nên lịch sử thể loại cũng như tên tuổi của nhiều
thế hệ nhà văn. Hành trình phát triển của truyện trinh thám là một quá trình
biến đổi. Truyện trinh thám cổ điển cuốn hút bạn đọc bởi những bí ẩn của vụ
án, kích thích họ khát khao khám phá khi nhà văn sử dụng kĩ thuật hé mở dần
dần rồi tiết lộ ở đoạn kết.8
Các vấn đề lý thuyết về loại hình truyện trinh thám đã được các nhà
nghiên cứu phương Tây đề cập đến từ khá sớm trong Loại hình của tiểu
thuyết trinh thám (Todorov, Đặng Anh Đào dịch), Về truyện trinh thám
(Borges, Ngô Tự Lập dịch). Ở Việt Nam, loại hình này cũng được giới nghiên
cứu chú ý, có thể kể đến Đặng Anh Đào với Nữ tác gia và truyện trinh thám,
Nguyễn Duy Bình với Bàn về tiểu thuyết trinh thám, Nguyễn Vi Khanh với
Cái chết trong văn chương: từ siêu hình, lãng mạn đến kinh dị và trinh
thám…
Nhìn sự phát triển và biến đổi của truyện trinh thám, Todorov chỉ ra sự
tiếp nối của ba hình thái tiểu thuyết ẩn ngữ, tiểu thuyết đen và tiểu thuyết
phân vân hồi hộp. Tiểu thuyết ẩn ngữ hay còn gọi là tiểu thuyết trinh thám cổ
điển phát triển giữa hai cuộc đại chiến. Dấu hiệu nổi bật của tiểu thuyết ẩn
ngữ thể hiện trong kết cấu hầu như không thay đổi: một cốt truyện trinh thám
được cấu thành trên hai câu chuyện – truyện về tội ác và truyện về cuộc điều
tra, trong đó truyện về tội ác kết thúc thì mới bắt đầu truyện về cuộc điều tra.
Câu chuyện thứ hai mới thực sự là câu chuyện chính, kể về những biến ảo
khôn lường của trí tuệ đặc biệt thấu suốt mọi tội ác để cuối cùng đưa nó ra
công lý. Vụ giết người ở phần mở đầu là một câu đố, toàn bộ diễn tiến còn lại
của câu chuyện là tiến trình giải đố. Đây cũng chính là lý do vì sao tiểu thuyết
trinh thám cổ điển được gọi là “tiểu thuyết câu đố” hay “tiểu thuyết ẩn ngữ”.
Tiểu thuyết ẩn ngữ dựa trên khuôn mẫu của Edgar Poe đã phát huy những tìm
tòi của ông, đó là yếu tố về bí mật căn phòng đóng kín, những động cơ, nhóm
người – nhân chứng và bị tình nghi được tập hợp từ đầu, những dấu hiệu lừa
phỉnh thoạt nhìn. Tiểu thuyết đen khởi nguồn từ nước Mỹ trước đại chiến thứ
hai và nở rộ ở Pháp. Sự tìm tòi khảo sát thay thế cho sự hồi cố ở tiểu thuyết ẩn
ngữ. Niềm quan tâm thích thú của độc giả chuyển từ sự hiếu kì trên hành trình
đi từ kết quả đến nguyên nhân chuyển sang sự phân vân hồi hộp trên hành
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi9
trình từ nguyên nhân đến kết quả. Theo Todorov, sự thay đổi này là do “các
nhân vật chính của tiểu thuyết ẩn ngữ (thám tử, bạn anh ta, người kể chuyện)
theo định nghĩa, là bất khả xâm phạm: chẳng điều gì có thể xảy ra với họ.
Tình thế đảo ngược trong tiểu thuyết đen: mọi sự đều có thể xảy ra và thám tử
nếu không liều mạng thì cũng liều sức khỏe” [46, 15]. Tiểu thuyết phân vân
hồi hộp giữ lại những đặc điểm của cả hai tiểu thuyết trên. Đó là câu chuyện
về tội ác và cuộc điều tra, sự bí ẩn, mở rộng câu chuyện thứ hai ra ngoài phạm
vi truy đuổi tội phạm đơn thuần. Ở đây, câu chuyện thứ hai được đặt vào vị trí
trung tâm, nhân vật trung tâm không ngừng rơi vào trạng thái lâm nguy, các
tình huống lắt léo, bí ẩn được tăng cường.
Trong Edgar Poe và truyện trinh thám, Jorge Luis Borges đã từng khẳng
định “Văn học của chúng ta đang hướng về sự hỗn loạn… Trong thời đại cực
kì hỗn loạn ấy, có một thứ vẫn còn giữ, giữ một cách khiêm tốn, những giá trị
truyền thống: đó là truyện trinh thám” [12, 707]. Bởi J.L.Borges cho rằng “ta
không thể hình dung một truyện trinh thám không có phần mở đầu thắt nút và
cởi nút”, tức là không có nhân vật thám tử và hành trình điều tra vụ án của
anh ta. Nói một cách khác, sự thật và hành trình kiếm tìm sự thật chính là hạt
nhân truyền thống của văn chương trinh thám. Trong Về truyện trinh thám,
ông cũng nhắc đến những nguyên tắc truyền thống của truyện: bí ẩn phải
được khám phá bằng trí tuệ, bằng cách thức của tư duy. Nghiên cứu các sáng
tác của Edgar Allan Poe, ông hướng truyện trinh thám vào địa hạt của văn học
kì ảo, những điều kì ảo đó có nguồn gốc trí tuệ chứ không phải là tưởng
tượng. Truyện trinh thám vẫn giữ được những giá trị truyền thống với kết cấu
mở đầu, thắt nút, và mở nút bằng vô số tình tiết hỗn loạn.
Velardi Patrich trong Plot, charater and setting: a study of mystery and
detective fiction nghiên cứu kết cấu của truyện trinh thám. Ông xây dựng mẫu
số chung cho thể loại này để từ đó mỗi nhà văn tự tạo cho mình một câu10
chuyện trinh thám riêng. Người kể chuyện giới thiệu vài bằng chứng và mối
nghi ngờ. Cao trào của câu chuyện là lúc thám tử công bố tên tội phạm trong
sự ngỡ ngàng của các nhân vật khác và chính người đọc. Truyện trinh thám là
loại truyện xoay quanh một bí ẩn cần được giải đáp, trong đó nhất định phải
có tên tội phạm và hành trình điều tra phá án. Bằng sự thông minh và dũng
cảm, thám tử sẽ lý giải bằng cách nào mà bí ẩn được giải quyết.
Theo Cao Vũ Trân trong bài viết Georges Simenon và tiểu thuyết trinh
thám Pháp thế kỉ XX thì “Hiểu một cách chung nhất, tiểu thuyết trinh thám là
một loại nghệ thuật xác định tội phạm chủ yếu dựa vào phương pháp suy luận
– một trình độ động não ở đẳng cấp cao – trong quá trình nghiên cứu và phát
hiện tội phạm. Đây là một thể loại văn học duy lý và kì ảo” [43, 72]. Trong
những phân tích của mình, Cao Vũ Trân cũng đề cập đến hình thức trinh thám
– điều tra truyền thống.
Tiếp tục triển khai mối quan tâm về tiểu thuyết trinh thám, Nguyễn Duy
Bình trong Bàn về tiểu thuyết trinh thám nêu đặc thù về mặt hình thức. Ông
đưa ra những tiêu chí bắt buộc đối với một cuốn tiểu thuyết trinh thám. Về
nhân vật, truyện trinh thám cần có bộ ba nạn nhân – tội phạm – thám tử. Thủ
phạm không được là thủ phạm chuyên nghiệp, không được là thám tử, phải
giết người vì lí do riêng của cá nhân. Về cốt truyện, truyện tồn tại một điều bí
ẩn và mọi sự phải được giải thích một cách duy lý. Về điểm nhìn trần thuật,
truyện trinh thám mở đầu bằng cái nhìn bên ngoài, sự kiện bày ra như một mê
cung. Trên hành trình giải đáp bí ẩn, điểm nhìn dần dịch chuyển vào bên
trong nhân vật thám tử.
Sang thế kỉ XX, một số nhà văn hiện đại đã phát triển kĩ thuật kể chuyện,
phá vỡ những luật lệ của truyện trinh thám cổ điển, hình thành lối văn phong
mới, tạo nên niềm hứng thú mới. Hành trình truy tìm manh mối song song với
việc độc giả đi tìm ý nghĩa của văn bản, nhân vật đi tìm bản ngã, nhà văn giải
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi11
mã văn hóa… “Các nguyên tắc của truyện trinh thám được ưa thích sử dụng
bởi nó đặt tác phẩm vào một hành trình. Các nhà hậu hiện đại giữ nguyên mục
đích truy tìm vốn là bản chất của truyện trinh thám, nhưng lại thay đổi mục
đích truy tìm bằng cách đan cài vào đó nhiều chủ đề, nhiều tuyến cốt truyện”
[7, 39]. Sự hỗn độn của cuộc sống được thể hiện bằng chính sự mù mịt của
cái mê cung mà thám tử tham gia vào cuộc truy tìm. Sự phỏng nhại hình thức
và nguyên tắc của truyện trinh thám truyền thống đã sáng tạo nên loại truyện
giả trinh thám. Truyện trinh thám trở thành một phần không thể thiếu của văn
học hậu hiện đại.
William Spanos là người đầu tiên đề xuất thuật ngữ “giả trinh thám”
(anti-detective). Năm 1972, trong bài viết Thám tử và giới hạn: vài lưu ý về
hư cấu văn chương hậu hiện đại, Spanos nêu ra nguyên tắc giải quyết các
nghi vấn và cho rằng “câu chuyện giả trinh thám là một dạng mẫu gốc của hư
cấu văn chương hậu hiện đại” [8, 351]. Từ đó đến nay, nhiều bài viết và công
trình tiếp tục sử dụng thuật ngữ giả trinh thám để bàn về một xu hướng phát
triển của truyện trinh thám hậu hiện đại. Truyện trinh thám hậu hiện đại
không đặt trọng tâm vào việc tìm ra thủ phạm, không nhất nhất phải tuân thủ
những định khung đã được các nhà nghiên cứu truyện trinh thám đề ra từ
trước đến nay. Đặt giả trinh thám trong sự đối sánh với tiểu thuyết trinh thám
cổ điển, Laurence Devillairs đã chỉ ra những nét đặc trưng và sức lôi cuốn
riêng của mỗi thể loại (Tiểu thuyết trinh thám – một niềm may mắn của văn
học, Đào Duy Hiệp dịch).
Dáng dấp mơ hồ trong những trang viết bí ẩn của truyện trinh thám luôn
là động lực thôi thúc niềm đam mê của các nhà nghiên cứu. Ở Việt Nam,
PGS.TS Đặng Anh Đào, trong Nữ tác gia và truyện trinh thám, đã chỉ ra sự
đổi mới của truyện trinh thám trong đời sống văn học hiện đại, đặc biệt là
bùng nổ yếu tố miêu tả và phân tích tâm lý: “Truyện trinh thám hiện đại càng12
phải khai thác những vấn đề bất ổn của nhân cách, bản năng” [21, 123].
Chúng tui chú ý đến bài viết Giả trinh thám trong tự sự hậu hiện đại (Tạp chí
Khoa học, số 2/2011). Ở đây, PGS.TS Lê Huy Bắc đã đề cập đến cấu trúc này
trong văn chương hậu hiện đại thông qua ba tác phẩm Tên của đóa hồng
(Umberto Eco), Tên tui là Đỏ (Orhan Pamuk) và Thành phố thủy tinh (Paul
Auster). Ông chỉ ra rằng, các tác giả sử dụng hình thức truyện trinh thám đầy
lôi cuốn để đan cài vào đó các vấn đề lịch sử, tôn giáo ở thời Trung cổ (Tên
của đóa hồng), câu chuyện tình yêu lãng mạn và lịch sử về nền tiểu họa Thổ
Nhĩ Kì (Tên tui là Đỏ) hay khám phá chính bản thân mình (Thành phố thủy
tinh). Với ba tác phẩm tiêu biểu này, ông đã chỉ ra cách tân lối viết của các tác
giả theo hướng hậu hiện đại và khẳng định rằng sự sáng tạo của con người là
không giới hạn, khi nhà văn vượt qua những giới hạn của thể loại trinh thám
truyền thống để làm mới cho tác phẩm của mình. Ở một công trình quy mô
hơn – Phê bình văn học hậu hiện đại Việt Nam, Lê Huy Bắc đã tập hợp những
bài viết đặc thù nhất về nghiên cứu lý thuyết và phê bình văn học hậu hiện đại
ở Việt Nam trong khoảng mười năm trở lại đây, trong đó dành sự chú ý không
nhỏ đến tiểu thuyết giả trinh thám. Bộ ba New York của Paul Auster và Bốn
bề bờ bụi của Akutagawa Ryunosuke được nghiên cứu dưới góc độ tác phẩm
giả trinh thám – một vấn đề của chủ nghĩa hậu hiện đại. Cả hai bài nghiên cứu
đi vào vấn đề người kể chuyện, người nghe chuyện, cốt truyện, kết cấu và
nhân vật để khẳng định mục đích của các câu chuyện trinh thám không đặt ở
việc tìm kiếm hung thủ và chân lý sự việc, mà nhấn mạnh quá trình kể
chuyện, vào sự đánh mất bản thể và đi tìm bản thể ra sao. Ở luận văn Tự sự
phản trinh thám trong Thành phố thủy tinh của Paul Auster, tác giả Đặng Thị
Bích Hồng phân tích thấu đáo đặc điểm giả trinh thám trong tác phẩm thông
qua ba vấn đề lớn: cốt truyện, nhân vật và người kể chuyện.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi13
Như vậy, tiểu thuyết giả trinh thám là sản phẩm của văn học hậu hiện
đại, hay nói cách khác, nó góp phần làm nên bộ mặt của tự sự hậu hiện đại.
Trên cơ sở những đặc trưng của thể loại trinh thám, tiểu thuyết giả trinh thám
là sự phá vỡ tất cả những vấn đề thuộc về nền tảng thể loại. Kiểu con người
suy lý vốn được tôn sùng, giờ không những bị phủ nhận mà còn bị đem ra
giễu nhại. Thám tử trong tiểu thuyết trinh thám và tiểu thuyết giả trinh thám
đi tìm những câu trả lời khác nhau xuất phát từ những quan điểm nhận thức
khác nhau của thời đại đã sản sinh ra họ. Hành trình của thám tử trong tự sự
hậu hiện đại không đặt mục đích tìm hung thủ là trọng tâm, anh ta không bất
khả chiến bại trong việc giải mã bí ẩn. Cùng với hành trình truy tìm tội phạm
là quá trình tự trinh thám. Đôi khi, cuối cuộc hành trình, anh ta chỉ còn một
mã biểu đạt. Độc giả ít quan tâm đến việc thám tử sẽ thành công hay thất bại
mà dõi theo quá trình ấy để tìm ra những cái được biểu đạt khác nhau.
2.2. Về Orhan Pamuk và Tên tui là Đỏ
Orhan Pamuk là cái tên được nhắc đến khá nhiều trên các tờ báo nước
ngoài. Sức ảnh hưởng của ông không dừng lại ở những cống hiến cho văn
học, mà còn ở sự lột tả chân thực tâm hồn u buồn của thành phố Hồi giáo
Istanbul, đề cập đến những vấn đề thuộc về tôn giáo, chính trị. Chính vì thế,
ông gặp phải không ít rắc rối với một loạt tác phẩm đề cập đến sự tương tác
phức tạp giữa các giá trị truyền thống của đạo Hồi và nền văn minh phương
Tây. Tuy nhiên, trên tất cả, giá trị văn chương của ông được công nhận với
các giải thưởng Hòa bình, giải thưởng Medicis và cao nhất là giải Nobel Văn
học 2006. Diễn văn công bố của Viện Hàn lâm đã ghi nhận: “Trong quá trình
đi sâu tìm hiều tâm hồn u uẩn, sầu muộn của thành phố quê hương, Orhan
Pamuk đã phát hiện ra những biểu tượng của sự va chạm, trộn lẫn giữa nhiều
nền văn hóa” [33]. Trên các tờ báo như Spectator, Observer, New Yorker,
Guardian, tiểu thuyết Tên tui là Đỏ được đánh giá cô đọng bởi các tính từ14
Tuyệt diệu, Kỳ vĩ, Lộng lẫy, Bất hủ… Tờ New Yorker nhận định: “Pamuk đã
chứng tỏ sự kiên nhẫn và khả năng xây dựng của những người kể chuyện thế
kỷ XIX và các truyền nhân của họ, Proust và Mann… và năng lực tưởng
tượng của ông được gắn kèm với một cảm quan sâu xa về bí ẩn và song
nghĩa” [38]. Trong cuốn tiểu luận Những màu khác, Orhan Pamuk dành ba
chương kể lại quá trình sáng tác Tên tui là Đỏ và bộc bạch những suy nghĩ
của mình về cuốn tiểu thuyết tâm đắc này.
Orhanpamuk.net, nytimes.com là những website dành nhiều bài viết cho
Tên tui là Đỏ. Trong bài viết My name is Red, Eric J.Iannelli đặc biệt chú ý
đến sự đa tầng người kể chuyện, mê cung đầy bí ẩn của vụ án, và hơn thế là
các cuộc tranh biện văn hóa không hồi kết. Cùng hướng nghiên cứu đó, Dick
Davis, trong Murder and joy, cho rằng Tên tui là Đỏ đã vượt qua những quy
tắc của thể loại để đem đến cho độc giả nhiều hơn một vụ án.
Ở Việt Nam, tên tuổi và tác phẩm của Orhan Pamuk chưa được biết đến
nhiều. Orhan Pamuk được Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Văn Thắng giới thiệu sơ
lược trong cuốn 103 nhà văn đoạt giải Nobel (1901-2006). Trong mục giới
thiệu sách, dịch giả Phạm Viêm Phương bày tỏ cảm xúc trong quá trình dịch
tác phẩm này, đồng thời đưa ra một số nhận định mang tính khái quát về tác
phẩm.
Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Tên tui là Đỏ chiếm số
lượng ít ỏi với đề tài luận văn Thạc sĩ Đại học Sư phạm Hà Nội năm 2009:
Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết Tên tui là Đỏ của Orhan Pamuk của
Hà Hoàng Hà. Đây được coi là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn
vẹn nhất về tác phẩm. Công trình đi vào tiếp cận và giải quyết những vấn đề
nổi bật về nghệ thuật kể chuyện của tác phẩm như cốt truyện, giọng điệu và
người kể chuyện.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi15
Trên các website, phần nhiều các bài viết đều nêu khái quát một số nét
đặc trưng, tiêu biểu về bút pháp hay mang tính chất giới thiệu về tác phẩm
xuất sắc, một số bài viết dừng lại ở việc giới thiệu sách, chưa đi sâu nghiên
cứu cặn kẽ. Trong khoảng thời gian hai năm 2007- 2008, chúng tui nhận thấy
mối quan tâm của báo mạng đến Orhan Pamuk và Tên tui là Đỏ rất lớn. Nhân
sự kiện Orhan Pamuk đạt giải Nobel và tác phẩm Tên tui là Đỏ được xuất bản
ở Việt Nam, các trang nhanam.vn, phongdiep.net, vietbao.vn… giới thiệu
cuộc đời và vài nét cơ bản về nội dung cuốn tiểu thuyết. Trên eVan, bài viết
Orhan Pamuk: Nghệ thuật không có trung tâm của Nhật Chiêu nhận định
tổng quan về lối viết của tác giả. Tại Hội thảo Orhan Pamuk – giữa Đông và
Tây tổ chức ngày 11 tháng 3 năm 2008, Mai Sơn giới thiệu về tiểu thuyết Tên
tui là Đỏ và nhìn nhận ở khía cạnh nội dung của tác phẩm Tên tui là Đỏ: Bản
đại luận về nghệ thuật. Cùng hướng nghiên cứu đó, Hoài Nam có bài viết Sự
va chạm giữa hai nền nghệ thuật hội họa trên trang cand.com.vn.
Trong Giải mã hiện tượng văn học Orhan Pamuk, Thăng Xuyên tiếp cận
Pamuk ở khía cạnh nhà văn trong mối quan hệ với dân tộc mình và toàn nhân
loại. Ông bám chắc vào gốc rễ dân tộc mình để sáng tạo nhưng không quên đi
những yếu tố mang tầm thời đại. Tác giả bài viết cũng có nhận xét ưu ái cho
tác phẩm Tên tui là Đỏ: “Sáng tác của ông, nhất là những cuốn như “Tên tôi
là Đỏ” và “Tuyết”, cho thấy ông là nhà văn Thổ Nhĩ Kì từ trong máu. Phải là
một nhà văn gắn bó cật ruột với Tổ quốc sinh ra mình cùng với toàn bộ bề
dày lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ… của nó thì mới có thể viết sách như vậy”
[47]. Phạm Nhật Chiêu, trong bài viết Orhan Pamuk – nghệ thuật không có
trung tâm trên khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, cho rằng nhà văn đã thâu tóm
toàn bộ thế giới, ông thuộc về cả Đông và Tây. Thanh điệu độc đáo trong văn
phong của ông luôn dễ nhận ra trong thế giới đa thanh, bởi màu đỏ biết nói
kia không nói cho độc giả biết về chân lý nhưng lại đem đến sức ảm ảnh lạ kì.16
Tóm lại, trừ một vài tài liệu có đề cập chút ít đến kĩ thuật viết hậu hiện
đại trong tiểu thuyết trinh thám của Orhan Pamuk, chúng tui chưa thấy có
công trình nào đi sâu nghiên cứu giả trinh thám trong Tên tui là Đỏ. Vì vậy,
việc chúng tui nghiên cứu Giả trinh thám trong Tên tui là Đỏ của Orhan
Pamuk là một việc làm cần thiết nhằm đến một cái nhìn sâu sắc và toàn diện
hơn nữa về một tác phẩm từng chiếm được niềm mến mộ của độc giả toàn thế
giới.
3. Phạm vi, đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
Tên tui là Đỏ (2000) là cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tiên của Orhan
Oamuk. Chúng tui khảo sát tác phẩm dựa trên bản dịch Tiếng Việt của Phạm
Viêm Phương và Huỳnh Kim Oanh, Nhà xuất bản Văn học phối hợp với Nhà
sách Nhã Nam, Hà Nội, xuất bản tại Việt Nam năm 2008.
Luận văn của chúng tui đặt trọng tâm nghiên cứu vấn đề giả trinh thám
trong Tên tui là Đỏ, qua đó làm nổi rõ sự đi ngược những nguyên tắc của tiểu
thuyết trinh thám, cũng là quá trình làm mới thể loại này theo hướng hậu hiện
đại. Từ việc tiếp cận vấn đề trên, chúng tui chỉ ra phong cách nghệ thuật độc
đáo, hiện đại và những đóng góp của Orhan Pamuk đối với nền văn học Thổ
Nhĩ Kỳ nói riêng và văn học thế giới nói chung.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ vấn đề liên quan đến đề tài, chúng tui chủ yếu thực hiện
phương pháp tiếp cận tác phẩm trên bình diện trần thuật học kết hợp với
phương pháp liên ngành. Nhằm khai thác tác phẩm ở khía cạnh giả trinh
thám, chúng tui đặt cuốn tiểu thuyết trong mối liên hệ với các vấn đề lịch sử,
xã hội, văn hóa. Liên hệ tác phẩm với lịch sử, xã hội, đặc biệt là nghệ thuật
hội họa Thổ Nhĩ Kì trong giai đoạn va chạm Đông – Tây để hướng tới lý giải
một cách chính xác nhất các vấn đề nằm ngoài trinh thám mà tác phẩm đề
cập.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi17
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tui sẽ phối hợp chặt chẽ các thao
tác khảo sát, thống kê, phân tích hệ thống; khái quát, tổng hợp tác phẩm theo
đặc trưng thể loại, lý thuyết hệ thống, thi pháp học… để các kết luận trong
luận văn tăng thêm độ tin cậy và sức thuyết phục.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được kết cấu theo ba chương:
Chương 1: Kiến tạo mê cung tội lỗi
Chương 2: Lúng túng trong mê cung
Chương 3: Thoát khỏi mê cung tội lỗi
6. Đóng góp của luận văn
Ứng dụng lý thuyết hậu hiện đại để tìm hiểu Tên tui là Đỏ, chúng tôi
muốn làm sáng tỏ những đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện, đồng thời từ đó
soi chiếu vào nội dung, thấy được sự xung đột, cọ xát văn hóa Đông – Tây thể
hiện trong quan niệm về nghệ thuật hội họa. Ngoài ra, chúng tui hy vọng công
trình sẽ có đóng góp phần nào vào việc nhận diện dấu ấn của một tác giả văn
học đương đại có tầm vóc quốc tế nhưng còn xa lạ với độc giả Việt Nam.18
CHƢƠNG 1.
KIẾN TẠO MÊ CUNG TỘI LỖI
Nói tới mê cung, chắc hẳn chúng ta sẽ liên tưởng tới cung điện vô cùng
phức tạp ở đảo Crete trong thần thoại Hy Lạp, nơi nhốt vị thần nửa người nửa
bò Minotaur. Mê cung huyền thoại đó do các thợ thủ công lành nghề và nghệ
sĩ tài năng thuộc dòng dõi Daedalus xây dựng. Mê cung không chỉ nhốt
Minotaur mà còn là nơi chính Daedalus bị giam cầm.
Mê cung không chỉ là kiến trúc phức tạp, mà nó còn được dùng để chỉ
những vấn đề mơ hồ, rắc rối, khó tìm ra lời giải đáp. Chúng tui xem tác phẩm
Tên tui là Đỏ cũng giống như một mê cung. Hành trình lạc lối trong mê cung
của nhân vật cũng chính là hành trình mà độc giả trải nghiệm tác phẩm.
Chúng tui tiếp cận tác phẩm ở phương diện giả trinh thám theo cách mà nhân
vật, người kể chuyện tạo ra mê cung, vùng vẫy trong đó và thoát ra khỏi đó
như thế nào. Nếu coi các vụ án mạng là những bí ẩn thì hẳn tác phẩm chưa thể
được gọi là mê cung. Từ một điểm mở đầu là cái chết thảm thương như thách
đố con người bước vào cuộc điều tra, câu chuyện đã mở ra nhiều nhánh rẽ
khác nhau. Các nhánh rẽ này khiến không chỉ độc giả mà chính nhân vật –
những người trong cuộc cũng trở nên hoang mang. Câu chuyện không chỉ đi
một chiều theo hướng tìm ra kẻ thủ ác mà còn trổ nhánh sang cuộc tìm kiếm
tình yêu, tìm kiếm chân lý, tìm kiếm sự tồn tại của con người, nghệ thuật và
tôn giáo. Theo chúng tôi, giả trinh thám chính là sự đánh lạc hướng, tạo ra
hàng loạt các câu chuyện chồng chéo, các cuộc truy tìm rối rắm phục vụ
những mục đích khác nhau. Vì thế, chúng tui mạnh dạn lựa chọn “mê cung”
như một cách khám phá tác phẩm có cách sáng tác “giả trinh thám”.
Ở chương này, chúng tui tập trung vào vấn đề giả trinh thám ở khía cạnh
nhân vật và người kể chuyện. Nhân vật đóng vai trò là người kể chuyện, lối
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi19
kể “trổ nhánh” đã khiến người đọc bị lạc bước, đôi khi giật mình tự hỏi không
biết liệu người kể chuyện có muốn kể về vụ án trong một câu chuyện trinh
thám hay không. Nhân vật – người kể chuyện kiến tạo mê cung để rồi chính
mình trở thành nạn nhân hoang mang trong đó. Mỗi nhân vật, ở vị trí của
mình, tạo ra một cung đường hướng đến lời giải của vụ án. Nhưng thực tế,
câu chuyện không đi theo cách của các nhà trinh thám thường làm. Cách
người kể chuyện nhập vào nhân vật khiến tác phẩm tựa như cái mạng nhện
sẵn sàng giăng bẫy. Tác phẩm là bản hợp xướng của nhiều tiếng nói. Cách kể
như đối thoại với người đọc đã khéo léo kéo độc giả lạc bước vào mê cung.
Vụ án là cái cớ cho tất cả nhân vật tỏa đi các hướng khác nhau, vừa che giấu
tội ác vừa khám phá bí ẩn, để tạo ra một cõi mơ hồ kích thích sự kiếm tìm.
1.1. Ngƣời kể chuyện không đáng tin
Người kể chuyện (narrator) là một thuật ngữ công cụ của tự sự học, được
xem là khái niệm trung tâm nhất trong phân tích trần thuật. Theo Todorov,
“người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng
tượng… không thể có trần thuật thiếu người kể chuyện”. Ý kiến của Todorov
khẳng định vai trò của người kể chuyện. Tuy nhiên, xung quanh khái niệm
này còn có nhiều quan điểm khác nhau. Có thể phân chia các dạng thức người
kể chuyện trên tiêu chí điểm nhìn hay dựa vào quyền năng của người kể
chuyện… Do đó người kể chuyện khoác lên mình nhiều chức năng trong mỗi
câu chuyện. Về mối quan hệ của người kể chuyện và tác giả, theo W.Kayser,
người kể chuyện là “một vai trò được tác giả nghĩ ra và ước định”. Hay nói
như R. Barthes, “tác giả thực tế của văn bản không có điểm gì chung với
người kể chuyện”. Thực ra, người kể chuyện là trung gian giữa tác giả và thực
tại được miêu tả. Giữa người kể chuyện và tác giả có thể có những điểm
tương đồng, song không hoàn toàn trùng khít. Người kể chuyện có thể trực20
tiếp can thiệp vào văn bản với vai trò của người tổ chức cấu trúc truyện kể, có
thể chỉ xuất hiện một cách hàm ẩn. Với xu hướng nghiên cứu lớp ngôn từ của
người trần thuật, G.Genette cho rằng có hai hình thức cơ bản của người kể
chuyện: người kể chuyện ngoại sự tức là người kể chuyện với tư cách là nhân
vật vắng bóng trong câu chuyện mà anh ta kể, hay anh ta là ngưởi kể chuyện
nội sự khi hiện diện với tư cách là một nhân vật trong câu chuyện. Theo cấp
độ giao tiếp, W.Booth phân chia người kể chuyện thành người kể chuyện ẩn
tàng (implied narrator) và người kể chuyện tường minh (real narrator). Cùng
với sự phát triển của các thể loại tự sự, vấn đề người kể chuyện cũng ngày
càng trở nên linh hoạt. Lối kể chuyện trải qua một quá trình dài đổi mới trong
kĩ thuật tiểu thuyết, từ người kể chuyện ở ngôi thứ ba với con mắt của người
“biết tuốt” bao quát mọi diễn biến của câu chuyện, đến ngưởi kể chuyện ở
ngôi thứ hai, khi anh ta tự đặt mình vào vị trí độc giả, người kể chuyện ở ngôi
thứ nhất xưng “tôi” mang lại cảm giác trung thực, tin cậy. Xuất hiện trong tác
phẩm, người kể chuyện có thể vô hình hay được “nhân vật hóa”, thì “nhân vật
ấy” vẫn có thể “đáng tin cậy” hay “không đáng tin cậy”. Người kể chuyện
đáng tin cậy sẽ chỉ dẫn độc giả, phán xét các giá trị, đưa ra kết luận cuối cùng
cho mọi ẩn số của tác phẩm. Nhưng người kể chuyện “không đáng tin cậy”
im lặng khiến độc giả phát huy chức năng động để lý giải tác phẩm. Như vậy,
người kể chuyện xưng “tôi”, ở chừng mực nào đó, vẫn khiến người đọc không
khỏi hoài nghi về tính khách quan của câu chuyện.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................... 5
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 7
3. Phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu .............................................. 16
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 16
5. Bố cục của luận văn .................................................................................... 17
6. Đóng góp của luận văn................................................................................ 17
CHƢƠNG 1. KIẾN TẠO MÊ CUNG TỘI LỖI ........................................ 18
1.1. Người kể chuyện không đáng tin............................................................ 19
1.2. Nhân vật giả trinh thám........................................................................... 28
1.3. Lối kể “trổ nhánh”.................................................................................... 35
Tiểu kết............................................................................................................ 41
CHƢƠNG 2. LÚNG TÚNG TRONG MÊ CUNG ..................................... 43
2.1. Hành trình truy tìm hung thủ.................................................................... 47
2.2. Hành trình tìm kiếm tình yêu ................................................................... 55
2.3. Hành trình giải mã văn hóa...................................................................... 62
Tiểu kết............................................................................................................ 67
CHƢƠNG 3. THOÁT KHỎI MÊ CUNG TỘI LỖI.................................. 69
3.1. Dụ ngôn nghệ thuật .................................................................................. 70
3.2. Cuộc tranh luận bất tận về nghệ thuật...................................................... 79
Tiểu kết............................................................................................................ 90
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 96
KẾT LUẬN
Truyện trinh thám luôn được đặt trong mối quan hệ thể loại với những
quy tắc vốn đã được ấn định cho thể loại này. Todorov khi bàn về truyện trinh
thám cũng khẳng định “một kiệt tác lớn thường được sáng tạo nên, theo một
cách nào đó, một thể loại mới, đồng thời cũng vi phạm những quy tắc của thể
loại vốn lưu hành trước đó” [29]. Theo đó, Tên tui là Đỏ xứng đáng là “một
kiệt tác lớn” bởi nó vừa vi phạm chuẩn mực của thể loại truyện trinh thám cổ
điển, vừa tạo ra chuẩn mực mới cho truyện trinh thám hậu hiện đại. Sự trật
khớp giữa khái niệm đã định hình và thực tế sáng tác, giữa nguyên tắc và sự
phá vỡ nguyên tắc, chính là sự sáng tạo. Tên tui là Đỏ chính là bằng chứng
của sự đổi mới trong hoạt động sáng tạo.
Khác với thể loại trinh thám truyền thống thường tổ chức cốt truyện
xung quanh một nút thắt và chuỗi các manh mối, Orhan Pamuk dùng cốt
truyện trinh thám để nêu lên những vấn đề: tình yêu, sự sống và những bí mật
văn hóa. Ông đã tạo nên một dạng trinh thám riêng mang màu sắc cá nhân,
với sự hòa trộn giữa những yếu tố truyền thống của tiểu thuyết trinh thám với
nỗi trăn trở không nguôi về giá trị văn hóa nhân loại. Đặc điểm giả trinh thám
đã hướng tác phẩm đến dòng chảy chung của văn học hậu hiện đại.
1. Người kể chuyện đã phát huy hết khả năng của mình khi miêu tả các
cảnh huống, tâm sự cá nhân. Thêm vào đó, nhà văn sử dụng hàng loạt điểm
nhìn trần thuật, nhân vật chính là người kể chuyện xưng “tôi”. Những ngưởi
kể chuyện này, tự thân đã là những công cụ “gây rối” hữu hiệu trong tác
phẩm. Chúng tạo nên nhiều hệ giọng điệu cũng như các quan điểm về sự vật,
hiện tượng. Từ câu chuyện của mỗi cá nhân người kể chuyện, người đọc phải
tham gia vào các câu chuyện “trổ nhánh”.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Last edited by a moderator:
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top