Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Tình hình nghiên cứu 2
1.3 Mục tiêu của Luận văn 3
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
1.5 Phương pháp nghiên cứu 4
1.6 Cơ cấu của Luận văn 4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CĂN BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG 5
1.1 Khái quát chung về tranh chấp thương mại và các cách giải quyết tranh chấp thương mại 5
1.1.1 Khái quát chung về tranh chấp thương mại 5
1.1.2 Các cách giải quyết tranh chấp thương mại 11
1.2 Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 18
1.2.1 Khái niệm 18
1.2.2 Nguyên tắc 20
1.2.3 Các hình thức thương lượng 26
1.2.4 Điều kiện áp dụng 31
1.2.5 Lợi ích của việc lựa chọn cách giải quyết thương mại bằng thương lượng 33
1.2.6 Hình thức pháp lý và hiệu lực của giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG 39
2.1 Các quy định pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 39
2.1.1 Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 40
2.1.2 Các quy định về vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết . 42
2.2 Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở Việt Nam 46
2.3 Nguyên nhân những khiếm khuyết cơ bản của Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 55
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG 60
3.1 Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 60
3.2 Định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lựợng 61
3.3 Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 67
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam với những bước phát triển của nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế được tự do và bình đẳng trong kinh doanh. Trong điều kiện như vậy, tranh chấp xảy ra không những là vấn đề khó tránh khỏi mà ngày càng trở nên phức tạp. Để đảm bảo quyền tự do cho các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, thì việc tạo dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp thỏa đáng và hiệu quả góp phần tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn để thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững trật tự và ổn định xã hội là đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy Thương lượng là cách khá phổ biến để giải quyết các tranh chấp trong đời sống kinh tế - xã hội nói chung và trong tranh chấp thương mại nói riêng. Đây là cách thường được giới kinh doanh nghĩ đến đầu tiên khi có tranh chấp xảy ra bởi những tính ưu việt của nó: Đơn giản của cách thực hiện; ít tốn kém; kông bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phức tạp; uy tín cũng như bí mật kinh doanh được bảo đảm tối đa, tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các bên; tiết kiệm được thời gian, công sức của các bên. Nhà nước ta đã cố gắng cải thiện, đổi mới hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại nhằm tạo ra nhiều cách giải quyết tranh chấp thương mại khác nhau phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế để các nhà kinh doanh có cơ hội lựa chọn giải pháp cho họ. Sự đổi mới này diễn ra trong cả lý luận và thực tiễn, trong luật nội dung cũng như luật tố tụng và luật về tổ chức bộ máy. Tuy niên, phải thừa nhận một thực tế là hoạt động thương mại đang ngày càng phát triển nhanh chóng và nảy sinh nhiều vấn đề mà hệ thống pháp luật đôi khi không kịp điều chỉnh và dẫn đến hậu quả có những bất cập.
Thương lượng là một cách giải quyết tranh chấp thương mại với những ưu việt của nó, nhưng trong các văn bản pháp luật thì thương lượng chỉ dừng lại ở việc quy định đó là một cách giải quyết tranh chấp cho nên trong thực tiễn áp dụng, cách này chưa bộc lộ hết ưu điểm vốn có của mình, đặc biệt là vấn đề thực thi khi thương lượng giữa các bên được hoàn thành đang bị bỏ ngỏ. Vì thế, cách không những không phát huy được ưu việt của nó mà đôi khi còn trở thành vướng mắc trong quá trình giải quyết gây thiệt hại cho các bên trong quan hệ tranh chấp, đặc biệt là thiệt hại cho những nhà kinh doanh nhỏ, thiếu kinh nghiệm. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng đúng cách giải quyết tranh chấp bằng thương lượng chắc chắn sẽ hỗ trợ không chỉ trong những tranh chấp thương mại nói riêng mà còn trong các tranh chấp của đời sống xã hội nói chung. Mặt khác, việc tìm ra các biện pháp để đưa cách giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trở nên phổ biến và ngày càng được giới kinh doanh lựa chọn là một trong những công việc rất quan trọng và cấp bách hiện nay . Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng” có một ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
1.2 Tình hình nghiên cứu
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng đang là vấn đề không chỉ nhận được sự quan tâm của giới kinh doanh mà còn là vấn đề quan tâm của các nhà khoa học pháp lý nhằm tạo dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp thươg mại hiệu quả, góp phần tạo ra một môi trường thuận lợi, thúc đẩy cho hoạt động thương mại phát triển. Chính vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về những vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
Đến nay đã có một số công trình và bài viết nghiên cứu sau: “ Thương lượng, hòa giải – lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp kinh doanh” của PGS. TS Trần Đình Hảo; “Tranh chấp hợp đồng và các cách giải quyết tranh chấp hợp đồng” của TS Phan Chí Hiếu; “Các cách giải quyết tranh chấp chủ yếu tại Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế và đầu tư nước ngoài” của TS Hoàng Thế Liên; “ Về vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” của TS Hoàng Phước Hiệp; “Về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của TS Phạm Hữu Nghị…Và nhiều các công trình nghiên cứu Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ và Khóa luận tốt nghiệp khác nghiên cứu các đề tài liên quan đến vấn đề này.
Tuy vậy, cho đến nay, chưa có công trình, bài viết nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng tại Việt Nam. Vì vậy, đề tài khóa luận tốt nghiệp này về cơ bản là mới, chưa được nghiên cứu tổng thể, toàn diện.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình đã được ra nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện vấn đề này trong lý luận và thực tiễn.
1.3 Mục tiêu của Luận văn
Việc Nghiên cứu đề tài nhằm đạt được mục tiêu tổng quát là tìm ra được các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Để đạt được mục tiêu tổng quát này, khóa luận cần đạt được những mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu khái quát vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó làm rõ các vấn đề lý luận mới, các yêu cầu mới liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
Thứ hai, nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành và các cách giải quyết tranh chấp thương mại đặc biệt là cách thương lượng từ đó làm rõ những mặt được, mặt còn hạn chế, bất hợp lý, bất cập trong pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
Thứ ba, Đưa ra một số kiến nghị và đề xuất hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lựơng phù hợp với tình hình mới, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả đáp ứng được các yêu cầu mới trong nền kinh tế.
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chủ yếu những vấn đề về lý luận, thực tiễn pháp luật và cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, xu hướng vận động của chúng trong thời gian tới, những vấn đề đặt ra đối với pháp luật và cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng nói riêng.
Tranh chấp thương mại là một vấn đề khá rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài khóa luận tốt nghiệp và điền kiện có hạn nên đề tài chỉ giới hạn vấn đề nghiên cứu trong phạm vi giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trên cơ sở lý luận và thực tiễn theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Giới hạn này cho phép đảm bảo.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành các mục tiêu của đề tài, trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng khóa luận đã được thực hiện trên cơ sở của phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh. Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
1.6 Cơ cấu của khóa luận
Cơ cấu của khóa luận bao gồm:
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm 03 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận căn bản về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
- Chương 3: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
Phần kết luận
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CĂN BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG
1.1 Khái quát chung về tranh chấp kinh doanh thương mại và các cách giải quyết tranh chấp thương mại
1.1.1 Khái quát chung về tranh chấp kinh doanh thương mại
Tranh chấp là một hiện tượng khách quan trong xã hội. Từ khi hàng hóa xuất hiện thì cũng diễn ra các hoạt động thương mại, con người bắt đầu tiến hành các trao đổi hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Những mâu thuẫn xuất phát từ việc sản xuất, trao đổi và thông thương hàng hóa cũng bắt đầu xuất hiện, đó là tranh chấp thương mại. Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế càng phát triển, tranh chấp chấp càng trở nên đa dạng và phức tạp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh, những bất đồng, xung đột xảy ra giữa các chủ thể kinh doanh là điều khó tránh khỏi, tranh chấp đã trở thành một hện tượng bình thường đối với mọi nền kinh tế. Giải quyết được các mâu thuẫn, tranh chấp này sẽ góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế phát triển.
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Thuật ngữ này mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở Việt Nam mấy năm gần đây. Trước đây trong cơ chế kế hoặch hóa thuật ngữ tranh chấp chấp kinh tế là thuật ngữ quen thuộc đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam. Với ý nghĩa là tất cả các hoạt động kinh tế thực hiện theo mô hình kế hoạch hóa tập trung trên cơ sở chỉ tiêu, kế hoạch của nhà nước. Nguyên nhân là trong thời kì đó, chúng ta chịu ảnh hưởng của nền Luật học Xô viết cùng với sự tồn tại của một ngành Luật độc lập là ngành luật kinh tế. Trong thời kì mà hoạt động kinh tế chủ yếu là kế hoạch hóa tập trung với sự thống trị của khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sử dụng mệnh lệnh hành chính thì mọi hoạt động kinh tế chủ yếu do nhà nước thực hiện và chi phối. Kinh tế tư nhân, tư bản không có điều kiện phát triển. Các đơn vị kinh tế đều hoạt động thông qua kế hoạch và sử dụng hợp đồng kinh tế làm công cụ thực hiện kế hoạch được giao. Do đó, các tranh chấp kinh tế trong thời kì kế hoạch hóa tập trung đôi khi đồng nghĩa với tranh chấp hợp đồng kinh tế.
Khái niệm “Tranh chấp kinh tế” là một khái niệm có nội hàm rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có nội dung kinh tế. Trong các văn bản Pháp lý trước đây như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và theo Nghị định số 116/NĐ-CP của chính phủ ngày 5/9/1994 đã liệt kê các tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế bao gồm: Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng kí kinh doanh; Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu; các tranh chấp khác theo quy định pháp luật. Với một khái niệm có nội hàm rộng và việc pháp luật chúng ta gắn cho các tranh chấp điển hình có nội dung kinh tế trên đã tạo ra sự không tương thích và không phù hợp với các hoạt động thương mại nữa.
Thuật ngữ “tranh chấp kinh tế” ít được sử dụng trong các văn bản Pháp lý quốc tế mà thay vào đó là thuật ngữ “tranh chấp thương mại” (commerce dispute) hay thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh” (business dispute). Ví dụ, như trong bản Quy tắc hòa giải không bắt buộc và Quy tắc trọng tài của Phòng thương mại quốc tế (ICC) đều sử dụng thuật ngữ tranh chấp kinh doanh. Điều 1 bản Quy tắc hòa giải không bắt buộc quy định “Tất cả các tranh chấp kinh doanh có đặc điểm quốc tế có thể được đưa ra hòa giải bởi một hòa giải viên duy nhất do Phòng thương mại quốc tế chỉ định”. Trong Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế cũng sử dụng thuật ngữ “thương mại”.
Trên thực tế, khái niệm tranh chấp thương mại được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau và có nhiều tên gọi khác nhau: Tranh chấp kinh tế, tranh chấp thương mại, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Các nhà nghiên cứu luôn cố gắng phân biệt sự khác nhau giữa tranh chấp kinh tế và tranh chấp kinh doanh. TS Nguyền Thị Kim Vinh Xác định “Trong các loại hình tranh chấp kinh tế, tranh chấp trong kinh doanh là loại hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó một số trường hợp khái niệm tranh chấp trong kinh doanh và khái niệm tranh chấp kinh tế được sử dụng với ý nghĩa tương đương với nhau”.
Có ý kiến lại cho rằng: “Tranh chấp trong kinh doanh là một dạng của tranh chấp kinh tế, biểu hiện những mâu thuẫn hay xung đột về quyền, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hay thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”.
Ở Việt Nam, Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật thương mại ngày 10/5/1997 song, theo điều 238, Luật thương mại 1997 có quy định: Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hay thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại.
Ngoài ra, khái niệm “Hoạt động thương mại” theo quy định của Luật thương mại năm 1997 lại có nội hàm rất hẹp so với quan niệm phổ biến của các nước trên thế giới về thương mại. Theo Điều 1 của Luật mẫu UNICTRAL về trọng tài thương mại được Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế thông qua ngày 21/6/1958 có quy định các mối quan hệ mang tính chất thương mại, bao gồm, nhưng không giới hạn, các giao dịch sau đây: Mọi giao dịch thương mại về việc cung cấp hay trao đổi hàng hóa hay dịch vụ; thỏa thuận về phân phối; Đại diện thương mại; hóa đơn chứng từ; bán – cho thuê; Xây dựng nhà máy; Dịch vụ tư vấn; Đề án thiết kế tổng hợp; Giấy phép; Đầu tư; Cấp chi phí; Giao dịch ngân hàng; Bảo hiểm; Các thỏa thuận về khai thác hay chuyển nhượng; Hợp tác giữa các xí nghiệp và các hình thức về hợp tác công nghiệp hay thương mại; Vận chuyển hành khách hay hàng hóa bằng đường không, đường biển, đường sắt, đường bộ. Như vậy, những tranh chấp thương mại theo Luật mẫu là rất rộng. Bao gồm các tranh chấp phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại theo hợp đồng hay không theo hợp đồng. Trong Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) khái niệm thương mại cũng được hiểu rất rộng. Đều 2 của Hiệp định này nêu rõ WTO sẽ đảm bảo khung định chế chung cho việc thực hiện các quan hệ thương mại giữa các thành viên về những vấn đề liên quan đến các Hiệp định trong Phụ lục. Trong khi đó, Phụ lục vốn được coi là các văn bản cấu thành khung pháp lý của WTO bao trùm rất nhiều lĩnh vực không chỉ là thương mại hàng hóa mà cả thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Tất cả các tranh chấp có liên quan đến thương mại đều được giải quyết theo thủ tục mới được quy định tại các Hiệp định kí tại vòng đàm phán Uruguay.
Cho nên, có thể nhận thấy Quan niệm về tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại theo Luật thương mại năm 1997 đã loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là tranh chấp thương mại, mặc dù xét về bản chất hoàn toàn có thể coi là các tranh chấp thương mại. Điều này đã tạo ra những xung đột pháp luật, giữa luật quốc gia với luật quốc tế, trong đó có cả những công ước quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công ước New York năm 1958), gây không ít trở ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập.
Sau khi Việt Nam kí kết hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ ngày 13/7/2000 và được Quốc hội phê chuẩn ngày 28/11/2001, quan niệm về thương mại và tranh chấp thương mại của chúng ta đã được mở rộng và mang bản chất của thương mại. Khái niệm thương mại bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ và đầu tư. Còn tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh giữa các bên trong giao dịch thương mại (Điều 9.4 Chương I). Ngoài ra Hiệp định thương mại Vệt Nam – Hoa Kỳ còn phân biệt thêm về thương mại nhà nước. Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam sửa đổi và ban hành hàng loạt các văn bản quan trọng sau này về thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại.
Các quan niệm về thương mại như trong Hiệp định Việt Nam – Hoa Kỳ tiếp tục được thể hiện trong Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và Luật thương mại năm 2005.
Ngày 25/2/2003 Pháp lệnh trọng tài thương mại ra đời mặc dù không đưa ra được khái niệm về tranh chấp thương mại mà đưa ra khái niệm “Hoạt động thương mại” theo đó Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Khái niệm này đã tạo ra được sự tương đồng trong quan niệm về “Thương mại” và “Tranh chấp thương mại” của Pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. Là tiền đề cho việc ra đời các văn bản Pháp luật tiếp theo trong lĩnh vực thương mại.
Theo Điều 29, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 có liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, gồm có: Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán hàng hoá; Cung ứng dịch vụ; Phân phối; Đại diện, đại lý; Ký gửi; Thuê, cho thuê, thuê mua; Xây dựng; Tư vấn, kỹ thuật; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; Đầu tư, tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai thác; Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Tiếp theo là sự ra đời của Luật Thương mại năm 2005. Luật thương mại năm 2005 cũng không đưa ra khái niệm tranh chấp thương mại mà theo khoản 1, điều 3 đưa ra khái niệm: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Như vậy, khái niệm Hoạt động thương mại của Luật thương mại năm 2005 đã được mở rộng nó là mọi hoạt động có mục đích sinh lời. Hướng tiếp cận này tạo ra sự tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 2005. Khoản 2, điều 4 Luật doanh nghiệp quy định kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hay cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Các khái niệm về thương mại này đã loại bỏ yếu tố “chính sách kinh tế - xã hội so với quy định trong Luật thương mại năm 1997 và không bó hẹp phạm vi chủ thể là thương nhân, đồng thời gần hơn với quan niệm về hoạt động thương mại của WTO và Luật mẫu UNCITRAL.
Đặc biệt, lần đầu tiên, khái niệm thương mại được xác định nằm trong khái niệm dân sự theo nghĩa rộng. Theo Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2005 có xác định các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động được gọi chung là quan hệ dân sự. So với trước đây, khi xác định tranh chấp kinh tế hay tranh chấp thương mại, nhiều người mong muốn phân biệt rạch ròi giữa tranh chấp kinh tế với tranh chấp dân sự để có thể áp dụng các quy định của pháp luật về nội dung cũng như thủ tục giải quyết khác nhau. Do đó, thường xuyên dẫn đến các tranh luận về sự phân biệt tranh chấp thương mại và tranh chấp dân sự trong rất nhiều vụ việc. Đến thời điểm hiện nay, việc xác định tranh chấp thương mại hay tranh chấp dân sự vẫn còn cần thiết nhưng nó không còn quan trọng như trước nữa.
Từ những văn bản pháp lý trên và các nội dung được xem xét Giáo trình Luật Thương mại, tập 2 của trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra quan điểm về tranh chấp Thương mại: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các họat động thương mại.(11, Tr 432).
Hiện nay, khái niệm tranh chấp thương mại vẫn chưa đưa ra được một khái niệm thống nhất, đặc biệt là chưa có văn bản pháp lý nào quy định mà nó mới chỉ dừng lại ở vấn đề quan điểm của một số tác giả trên cơ sở tiếp cận nó thông qua luật nội dung và luật tố tụng.
Theo David Foskett “Một tranh chấp tất nhiên không thể xuất hiện, trừ khi một trái quyền được khẳng định bởi một bên mà lại bị một bên khác chống lại.”
Còn theo như Deluxe Black’s Law Dictionary “Tranh chấp trong lĩnh vực pháp lý được hiểu là các xung đột hay trái ngược liên quan tới các quyền, sự đòi hỏi hay yêu cầu của một bên đối với bên kia, hay sự khẳng định về quyền, sự đòi hỏi hay yêu cầu của một bên bị đáp lại bởi yêu cầu hay sự viện dẫn trái ngược của bên kia.”(1)
Tại Việt Nam ngoài Giáo trình Luật Thương mại, tập 2 của trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra quan điểm về tranh chấp Thương mại như ở trên thì còn có một số quan điểm khác theo như trong cuốn Kỹ năng hành nghề luật sư- Tập III- Hợp đồng và tư vấn hợp đồng của Học viện tư pháp thì “Tranh chấp hợp đồng là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng liên quan tới việc thực hiện (hay không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng”.(48, Tr 53) Với Tiến sĩ luật học Phan Chí Hiếu có nhận định trong Kỷ yếu hội thảo giải quyết tranh chấp kinh doanh và phá sản doanh nghiệp thì “Tranh chấp kinh tế được hiểu là những mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ, lợi ích kinh tế giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ kinh tế” (49, Tr 98) còn Tiến sĩ Luật học Phạm Hữu Nghị lại cho rằng “Tranh chấp trong kinh doanh là mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể kinh doanh”(50, Tr 73). Có thể nhận thấy quan điểm của các tác giả Việt Nam về tranh chấp thương mại là tương đối thống nhất và có thể nhận thấy tranh chấp thương mại là tranh chấp khi có đủ các yếu tố đó là: tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ thương mại (theo hợp đồng hay không theo hợp đồng) xảy ra trước, trong hay sau thỏa thuận của các bên; Những mâu thuẫn phải phát sinh từ hoạt động thương mại; Những mâu thuẫn phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân (trong trường hợp nhất định, các cá nhân, tỏ chức khác không phải là thương nhân cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại, như: tranh chấp công ty và thành viên công ty; giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty hay tranh chấp về giao dịch giữa một bên không nhằm mục đích sinh lợi với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật thương mại).
1.1.2 Các cách giải quyết tranh chấp thương mại
Với nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại, thì các cách giải quyết tranh chấp kinh tế nhìn chung do các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, chọn cách nào và chi tiết thỏa thuận đến đâu phụ thuộc vào quan điểm thái độ của các bên cũng như hệ thống pháp luật thực định và hiệu quả của quá trình tố tụng của nước mà các bên lựa chọn.
Hiện nay, cũng như trên thế giới Việt Nam tồn tại bốn cách giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản, bao gồm: Thương lượng; hòa giải; trọng tài thương mại và tòa án.
Thương lượng, là cách giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên cùng nhau bàn bạc, thảo luận để tự giải quyết bất đồng. Đây là cách đơn giản, không tốn kém và đặc biệt là đảm bảo được quan hệ kinh doanh giữa các bên. (Chi tiết hơn về cách này ở phần sau).
Hòa giải, là cách giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.Đây là cách đòi hỏi bên thứ ba làm trung gian phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn và có sự độc lập . Có như thế, người thứ ba mới có đủ uy tín và độ tin cậy cần thiết để các bên tranh chấp mời làm trung gian. Giống như thương lượng thì quá trình hòa giải của các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của Pháp luật về thủ tục hòa giải. Các bên có thể xác định một thủ tục tiến hành hòa giải qua trung gian, một thủ tục linh hoạt, mềm dẻo, được người trung gian sử dụng, quyết định. Người trung gian có trách nhiệm giải thích cho các bên tranh chấp biết về bản chất của thủ tục hòa giải cũng như những quy ước chủ yếu được áp dụng chủ yếu trong quá trình hòa giải. Kết quả hòa giải thành được thì cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp, mà không có bất kì cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hòa giải.
cách giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. là cách tranh chấp được Pháp luật quy định. Theo đó, thông qua hoạt động của trọng tài viên, việc tranh chấp được giải quyết bằng một phán quyết trọng tài mà hai bên tranh chấp phải thực hiện. Theo cách này, các bên được bảo đảm quyền tự do định đoạt như: lựa chọn tổ chức trọng tài, lựa chọn trọng tài viên…Đây là cách có tính ràng buộc cao, thủ tục cũng đơn giản, nhanh chóng đảm bảo được bí mật kinh doanh và uy tín. Tuy nhiên, để áp dụng cách trọng tài để giải quyết tranh chấp thương mại, đòi hỏi điều kiện các bên phải có thỏa thuận trọng tài: Là môt hình thức pháp lý, thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên về việc đưa tranh chấp ra giải quyết tại tổ chức trọng tài do các bên lựa chọn. Thỏa thuận trọng tài phải được các bên tranh chấp lập ra trước hay sau khi xảy ra tranh chấp và thỏa thuận trọng tài chưa bị tuyên vô hiệu. Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực. Trọng tài vụ việc là cách trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Và trọng tài thường trực (còn gọi là trọng tài quy chế) là hình thức trọng tài được thành lập có tổ chức, có trụ sở cố định, có danh sách trọng tài viên, hoạt động theo điều lệ tổ chức và các quy tắc tố tụng riêng.
cách giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án. Khác với thương lượng, hòa giải hay trọng tài là các cách giải quyết tranh chấp mang tính thỏa thuận tự nguyện hay trên cơ sở quyền lực trao cho trọng tài thì giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án là cách giải quyết tranh chấp thương mại do cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước là Tòa án tiến hành theo trình tự thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ mà Pháp luật quy định. Theo đó, Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước ra một bản án bắt buộc các bên phải chấp hành và nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Ở Việt nam, tranh chấp thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa kinh tế - Tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân.
Như vậy, thương lượng, hòa giải và trọng tài thương mại là các cách giải quyết tranh chấp thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước, mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý trí tự định đoạt của các bên tranh chấp hay phán quyết của bên thứ ba độc lập theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp. Còn Tòa án là cách giải quyết tranh chấp thương mại mang ý chí quyền lực nhà nước, do Tòa án tiến hành theo thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ.
Mỗi cách giải quyết trách chấp thương mại trên đây đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Lựa chọn cách giải quyết tranh chấp nào là quyền của các bên căn cứ vào tính chất, phạm vi, mức độ và thiện chí của các bên có tranh chấp.
Ngoài các cách giải quyết tranh chấp phổ biến và được pháp luật quy định trên thì còn có các cách giải quyết tranh chấp thương mại khác như “tự xử”, hành chính, hoạt động tư vấn, tham vấn.
Giải quyết tranh chấp thương mại luôn là quan tâm hàng đầu của giới kinh doanh. Một cách giải quyết hiệu quả luôn là ưu tiên lựa chọn số một. Hiện nay, ngoài pháp luật quốc gia có những cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của mình trên cơ sở những cách giải quyết trânh chấp phổ biến. Thì các tổ chức cũng có những cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại riêng mà hiện nay giới kinh doanh cũng đang sử dụng những cơ chế này để giải quyết tranh chấp thương mại. Một số cơ chế giải quyết tranh chấp thươg mại trên thế giới như:
Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).WTO là một thiết chế pháp lý của hệ thống thương mại đa bên, là nền tảng của quá trình phát triển các quan hệ thương mại giữa các nước thông qua các cuộc thảo luận, thương lượng và phán xét có tính chất tập thể. WTO có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO như thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án. Được hình thành và phát triển trên nền tảng các quy định về giải quyết các tranh chấp của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại), Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã có những thay đổi tích cực góp phần nâng cao hiệu lực và tác dụng của cơ chế này với mục đích giải quyết ổn thỏa các tranh chấp thương mại quốc tế, duy trì ổn định và phát triển hệ thống thương mại đa phương theo Hiệp định WTO. Bên cạnh đó, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO còn trên nền tảng pháp lý là thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp và thường được gọi là Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp (Gọi tắt là DSU-Dispute Settlement Understanding).
Thứ sáu, tăng cường hiệu quả hoạt động tư vấn pháp luật. Một trong những biện pháp cần được chú trọng trong thời gian tới để góp phần hạn chế những tranh chấp kinh tế đó là việc tăng cường những phát triển hoạt động của các Luật sư theo hướng xã hội hóa và chuyên nghiệp hóa công tác luật sư. Thực tế cho thấy rằng, với số lượng Luật sư quá ít như hiện nay, trong khi dân số đất nước là trên 80 triệu người, cộng với tư tưởng chưa coi trọng vai trò luật sư của các doanh nghiệp thì tình hình tranh chấp thương mại phổ biến phát sinh ngay từ khi kí kết hợp đồng là không thể tránh khỏi. Hiện nay, các đoàn luật sư chủ yếu tập trung vào lĩnh vực tranh tụng trong các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hướng dẫn soạn thảo đơn từ về các vấn đề liên quan. Số lượng vụ việc liên quan đến thương mại, đầu tư, dịch vụ và sở hữu trí tuệ còn ít. Việc tư vấn pháp luật trong hoạt động thương mại đặc biệt việc tư vấn pháp luật cho các dự án đầu tư nước ngoài hiện nay ở Việt Nam hầu hết là do các Luật sư của các hãng luật nước ngoài nắm giữ và chi phối.(52, Tr 30-32). Tuy nhiên để đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư, kinh doanh trong và ngoài nước đòi hỏi Luật sư phải là những người có trình độ chuyên môn cao. Vì vậy, các luật sư Việt Nam phải cố gắng phát huy nội lực của mình để không bị tụt hậu về kiến thức pháp luật so với khu vực và thế giới. Mặt khác cũng cần có kế hoạch đào tạo cho đội ngũ luật sư nhằm đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế. Sự xuất hiện của các Luật sư sẽ có tác dụng loại trừ những tranh chấp không đáng có trong quá trình kí kết và thực hiện các hợp đồng thương mại giữa các nhà doanh nghiệp.
Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện kỹ năng thương lượng. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam kỹ năng thương lượng của các chuyên gia thương luợng còn rất thiếu vì thực tế không một trường đại học nào ở nước ta đào tạo kỹ năng này. Kỹ năng thương lượng là yếu tố quan trọng trong quá trình thương lượng. Vấn đề quan trọng hiện nay là xây dựng một chương trình về kỹ năng thương lượng và đưa vào khung trương trình đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng…Kỹ năng thương lượng giống với kỹ năng đàm phán, Việc phát triển kỹ năng thương lượng là việc phát triển tổng thể kỹ năng thương lượng của tổ chức và cá nhân. Trong khuôn khổ luận văn, tác gia luận văn xin đưa ra một số kỹ năng thương lượng sau:
Một, cải thiện liên tục – học hỏi từ mọi kinh nghiệm. Các nhà quản lý đã khái quát tư duy về xử lý thương lượng trong suốt hai thập kỷ qua. Tư duy xử lý thương lượng dựa trên hai nguyên lý nền tảng. Đầu tiên là hầu hết những điều được thực hiện trong tổ chức – từ việc xử lý báo cáo chi tiêu đến đáp ứng các yêu cầu phát triển sản phảm mới – đều là kết quả của quy trình xử lý thương lượng. Xử lý thương lượng là các hoạt động biến thông tin đầu vào thành thông tin đầu ra có tổng giá trị cao hơn. Nguyên lý thứ hai là việc xử lý thương lượng có thể được cải thiện. Chúng có thể được làm nhanh hơn, rẻ hơn, hay hiệu quả hơn thông qua phân tích, tái thiết và học hỏi kết hợp với nhau, hai nguyên lý nền tảng này là cơ sở cải thiện liên tục – một trong những ý tưởng kinh doanh mạnh mẽ nhất trong thời gian gần đây. Khi áp dụng cho thương lượng, nguyên tắc cải thiện liên tục có thể phát triển tính hiệu quả của năng lực nội bộ của một tổ chức, và qua thời gian, cải thiện kết quả cốt yếu. Vậy tại sao không áp dụng cải thiện liên tục cho quy trình thương lượng? Hãy tưởng tượng tổ chức của bạn sẽ tốt lên như thế nào nếu các cuộc thương lượng của tổ chức với đối tác, nhân viên hiệu quả hơn và có lợi hơn. Chi phí giảm, các mối quan hệ trở lên vững mạnh hơn và có lợi hơn. Bước đầu tiên tiến đến cải thiện liên tục trong thương lượng là xem thương lượng như một quy trình có các bước xử lý khá bao quát. Cho dù cuộc thương lượng liên quan đến hai cá nhân, hay nhiều người tham gia, và cho dù nó nhằm mục đích tạo ra một cuộc tranh cãi gây tổn hại, những bước này nói chung đều có tác dụng. Từng bước trong quy trình này tượng trưng cho một cơ hội cải thiện, và từng bước lên được phân tích với mục tiêut trong tâm trí. Bước thứ hai là tổ chức học hỏi từ quy trình xử lý thương lượng vào lúc diễn ra và kết thúc cuộc thương lượng. Ví dụ, những người tham gia nên liên tục đánh giá quy trình thông qua các cuộc thương lượng và điều chỉnh chiến thuật của mình nếu cần thiết. Họ cũng nên dùng những gì đã học được trong một giai đoạn thương lượng để chuẩn bị cho giai đoạn kế tiếp. Và dĩ nhiên, những người tham gia nên tực hiện việc phân tích rút kinh nghiệm vào cuối mỗi cuộc thương lượng để xác định những gì đã làm, những gì chưa, và kinh nghiệm của họ có thể sử dụng như thế nào để cải thiện kết quả thương lượng trong tương lai. Cuối cùng nên học hỏi từ việc phân tích rút kinh nghiệm theo những hình thức giúp phổ biến kiến thức được phổ biến dễ dàng và có thể tái sử dụng bởi các nhà thương lượng trong tương lai: các khóa huấn luyện, danh mục kiểm tra và cơ sở dữ liệu. Việc nắm bắt và tái sử dụng kiến thức được phản ánh cho các lần thương lượng tiếp theo. Việc tổ chức cải thiện quy trình và năng lực thương lượng, bạn cần thừa nhận sự cần thiết phải vượt qua các rào cản chính sau: Kết quả thương lượng không phải lúc nào cũng rõ ràng; trong một vài trường hợp, những hậu quả thực sự của thương lượng không thể lường được trong một thời gian dài; Khi học hỏi từ kinh nghiệm thương lượng, một người không thể lúc nào cũng khẳng định: “hành động này tạo ra ba kết quả.” Sự xuất hiện nhiều tình huống khác nhau không kiểm soát được sẽ làm cho sự chắc chắn như vậy không thể xảy ra; Các cá nhân có thể không có động cơ chia se kinh nghiệm của họ với người khác. Tuy nhiên, kinh nghiệm, và kiến thức do nó tạo ra, có thể giúp bản thân các nhà thương lượng cải thiện khả năng của mình qua thời gian. Và những bài học rút ra từ kiến thức này có thể truyền lại cho những cá nhân khác.
Hai, thương lượng là một năng lực tổ chức. Đáng tiếc là rất ít công ty áp dụng việc cải thiện liên tục vào các cuộc thương của họ. Họ cũng không suy nghĩ một cách hệ thống về các hoạt động thương lượng của mình như một năng lực chính của tổ chức. Thay vào đó, họ có một quan điểm ngẫu hứng, nhận thức từng cuộc thương lượng như một sự kiện tách biệt với các mục tiêu, chiến thuật, người tham gia và biện pháp thành công của chính họ. Hậu quả là họ đã không lắm bắt được kiến thức để sử dụng trong tương lai. Chính vì điều này, họ hiếm khi đạt được kết quả tốt hơn và thường chịu thiệt thòi trên bàn thương lượng. Một tổ chức có thể cải thiện kỹ năng thương lượng tổng thể và biến kỹ năng này thành năng lực quan trọng bằng các cách sau:
Cung cấp nguồn lực huấn luyện và đào tạo cho những người thương lượng. Những doanh nghiệp muốn tăng năng lực thương lượng của họ, thì họ phải bắt đầu một chương trình đào tạo đặt các nhà thương lượng vào vị trí của thế giới thực tiễn, tiếp theo sẽ là nguồn huấn luyện kỹ thuật mà các nhà thương lượng “thực hiện” sẽ cần trong lĩnh vực này. Những nguồn này giúp cho việc chuẩn bị trước khi thương lượng, cũng có thể là cung cấp các danh mục cho việc kiểm tra cho việc chuẩn bị và việc tiếp cận các bài học được rút ra từ kinh nghiệm thương lượng trước đây. Người thương lượng giỏi là người biết nhận ra mối đe dọa và cơ hội trong một mớ hỗn loạn những thứ không quan trọng. Họ phát triển sự nhận biết thông qua kinh nghiệm, thời gian học đào tạo giúp phát triển hiểu biết, kinh nghiệm tránh nguy cơ phạm lỗi.
Làm rõ các mục tiêu và mong đợi của tổ chức về bất cứ thỏa thuận nào – và khi nào người thương lượng nên bỏ đi. Khi bắt đầu thương lượng với một bên ở ngoài tổ chức, những người thương lượg không nhất thiết phải đoán các mục tiêu và nguyện vọng của tổ chức. Họ nên nhận được sự hướng dẫn rõ ràng từ cấp trên. Và cấp quản lý phải thông báo rõ ràng về mong muốn của mình, và nói cho những người thương lượng biết khi nào nên dừng lại hay từ bỏ cuộc thỏa thuận. Các mục tiêu thương lượng phải phù hợp với các mục tiêu của tổ chức và được hỗ trợ bằng những động cơ đúng.
Yêu cầu mỗi nhóm thương lượng phải triển khai phương án tốt nhất cho một thỏa thuận thương lượng và tìm cách cải thiện nó. Một giải pháp tốt nhất cho một thỏa thuận được thương lượng mạnh tương đương với đối phương đem lại cho người thương lượng khả năng thương lượng. Nó giúp cho người thương lượng biết khi nào thì việc bỏ đi là một hành động thông minh. Các tổ chức nên yêu cầu thay mặt của họ hiểu rõ về phương án tốt nhất cho một thỏa thuận thương lượng của mình và họ đã khám phá nhiều cách để củng cố giải pháp thay thế tốt nhất của họ.
Phát triển cơ chế nắm bắt và tái sử dụng những bài học rút ra từ các cuộc thương lượng trước đây. Ý tưởng nắm bắt kinh nghiệm và tái sử dụng nó cho những tình huống tương tự trong tương lai là một phần thiết yếu của việc quản lý kiến thức phổ biến trong thời đại ngày nay. Điều này đạt được khi các doanh nghiệp có hệ thống trong việc lưu trữ kết quả thương lượng. Thực tế có doanh nghiệp nước ngoài đã phát triển một cơ sở dữ liệu tập trung để giúp các giám đốc dự án thương lượng thỏa thuận với khách hàng. Họ tiến hành, bất cứ giám đốc nào khi thương lượng với khách hàng cũng đều được yêu cầu điền vào một phiếu câu hỏi ngắn nắm bắt các biện pháp được thực hiện, kết quả đạt được, và những bài học nhận biết được. Các kết quả báo cáo này được đưa vào một cơ sở dữ liệu và có sẵn cho các giám đốc dự án khác khi họ chuẩn bị cho những cuộc thương lượng sắp tới với khách hàng.
Phát triển các biện pháp thực hiện thương lượng và liên kết với phần thưởng. Điều này đòi hỏi cấp quản lý phải tạo ra sự tương xứng giữa mục tiêu của mình, và cách đánh giá và thưởng cho người thương lượng. Đánh giá có thể là: cuộc thương lượng có giúp bạn và khách hàng xây dựng mối quan hệ để làm việc có hệu quả trong suốt quá trình thỏa thuận không; Những cuộc thương lượng này có tạo ra môi trường mà trong đó cả hai bên có thể tham gia vào những cuộc đối thoại mang tính xây dựng và giải quyết vấn đề hay không; Thỏa thuận này có đáp ứng các quyền lợi của bạn và của đối tác ở mức độ chấp nhận được hay không; Bạn đã tìm kiếm các giải pháp sáng tạo và hiệu quả có khả năng đạt được lợi ích chung; Bạn đã dùng những tiêu chuẩn khách quan để đánh giá và lựa chọn phương án mà hai bên chấp nhận; Bạn đã đề xuất một phương án thay thế tốt nhất cho một thỏa thuận được thương lượng, và bạ chắc là giải pháp thay thế này hiệu quả; Bạn đã tạo ra những cam kết được hoạch định tốt, thiết thực và khả thi mà cả hai bên đều hiểu và sẵn sàng thực hiện. Theo cách đánh giá này bạn sẽ có cách phát triển giải pháp thương lượng và gắn với phần thưởng cho người thương lượng.
Chúng ta đều hiểu năng lực thương lượng là tổng năng lực của tổ chức và năng lực của các thành viên. Vậy kỹ năng của một nhà thương lượng hiệu quả là người biết:
Xếp mục tiêu thương lượng tương ứng với mục tiêu của tổ chức. Một nhà thương lượng hiệu quả hoạt động trong một cơ cấu hỗ trợ các mục tiêu chiến lược của tổ chức. Cho nên đòi hỏi mục tiêu phải rõ ràng được truyền đạt từ cấp quản lý, nó bảo đảm cho sự tương xứng giữa mục tiêu với cách cư xử của thay mặt thương lượng và kết quả thương lượng.
Chuẩn bị kỹ lưỡng và sử dụng từng giai đoạn thương lượng để chuẩn bị sâu hơn. Trong các cuộc thương lượng hiệu quả, người đến bàn thương lượng luôn chuẩn bị sẵn sàng các giữ kiện và đề xuất. Họ cần nhận được sự hỗ trợ, đồng chuẩn bị của các đồng nghiệp, phòng ban và cả tổ chức.
Dùng các buổi thương lượng để học hỏi nhiều hơn về những vấn đề có nguy cơ thua và giải pháp thay thế tốt nhất cho thỏa thuận được thương lượng. Trong thương lượng, các nhà thương lượng luôn hoạt động trong một màn sương của sự không chắc chắn. Thuận lợi thường nghiêng về bên thu thập thông tin thông qua chuẩn bị và đối thoại, cho phép họ xuyên qua màn sương đó.
Cần sự thông minh để xác định được quyền lợi của cả hai bên, và sự sáng tạo để nghĩ ra các phương án, tạo ra lợi ích dẫn đến tình huống hai bên cùng thắng. Một người thương lượng thực sự giỏi có thể thay dổi cuộc chơi nếu biết đương đầu với những gì người khác xem là trò chơi được mất ngang nhau. Người này có thể giúp cho đối phương thấy được lợi ích của việc chia sẻ thông tin và mở rộng cơ hội thỏa thuận.
Có thể tách biệt những vấn đề cá nhân với những vấn đề thương lượng. Nhà thương lượng hoàn hảo biết rằng cuộc thương lượng này không phải là về mình, hay thậm chí về những người đang ngồi bên quanh bàn thương lượng. Người thương lượng này biết hoạt động với tư cách rời khách quan và tập trung vào việc tạo ra kết quả tốt nhất có thể được.
Có thể nhận ra rào cản tiềm tàng cho cuộc thỏa thuận. Những rào cản không phải lúc nào cũng rõ ràng. Một nhà thương lượng khéo léo biết khám phá chúng và trung hòa chúng.
Biết cách tạo liên minh. Không phải mọi chuyên gia thương lượng đều bách chiến bách thắng. Đối phương có thể có quyền lực cao hơn tại bàn thương lượng. Tuy nhiên, một người thương lượng giỏi biết rằng liên minh sẽ giúp những người yếu thế chống lại quyền lực đó. Quan trọng hơn, người này biết cách xây dựng liên minh trên nền tảng các quyền lợi chung.
Một nhà thương lượng giỏi, theo tác giả luận văn để tiếp cận được các kỹ năng trên đòi hỏi có những phẩm chất: Phải có kiến thức, kinh nghiệm gần như toàn diện, phải vừa là một nhà kinh doanh, một luật gia, nhà ngoại giao, tâm lý học, chính trị học và am hiểu pháp luật quốc tế; Chuyên gia này phải có tư duy nhạy bén, giỏi cả suy nghĩ, giỏi cả hành động, phải có năng lực và sự nhẫn lại không nóng vội, hấp tấp biết kiềm chế cảm xúc, không tự ti kiêu căng, có khí tiết có khả năng sáng tạo dồi dào; Phải có khả năng ngôn ngữ tốt, giỏi diễn đạt ý kiến của mình, trình bày vấn đề sáng tỏ, dùng từ chuẩn xác rõ ràng có tính thuyết phục cao và phải có khả năng quan sát để ứng phó tình huống cho phù hợp
Những cuộc thương lượng hiệu quả nhất được xây dựng trên sự tin tưởng. Sự tin tưởng được tạo ra thông qua một giai đoạn thương lượng có những thuận lợi quan trọng cho bước tiếp theo. Những nhà thương lượng giỏi có cách cư xử đúng nguyên tắc xử thế.
Với sự đào tạo và kinh nghiệm, bạn có thể phát triển những kỹ năng này để trở thành một nhà thương lượng hiệu quả (41,Tr 161-174).
Thứ tám, Tổng kết đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Tổng kết rút kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết thương lượng là một khâu quan trọng trong công tác áp dụng pháp luật. Từ vấn đề này có thể học hỏi được những kinh nghiệm quý báu trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, xem xét đánh giá lại những văn bản hiện hành liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, đưa ra các kiến nghị đê hoàn thiện công tác này. Tuy nhiên công tác này không phải lúc nào và ở đâu cũng được thực hiện một cách nghiêm túc. Trong những năm gần đây, việc tổ chức tổng kết sơ kết thực tiễn và phổ biến kinh nghiệm bài học thực tế được đưa thành nhiệm vụ của các doanh nghiệp và các cơ quan xét xử. Tuy nhiên, các báo cáo này thường chỉ lưu hành nội bộ, thậm chí chỉ những người liên quan đến công tác tổng kết mới được biết đến. Có nơi còn xem đây là tài liệu mật. Vì thế việc tiếp cận thông tin liên quan gặp nhiều trở ngại khó khăn. Lý luận phát triển từ thực tiễn và thực tiễn bổ sung cho lý luận. Kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương luợng giúp chúng ta hoàn thiện môi trường pháp lý liên quan đến công tác này, và việc tổng kết này còn làm cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách, nhà làm luật, các nhà làm công tác giảng dạy, đào tạo và đặc biệt là nhà kinh doanh tham khảo trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp. Rất đáng tiếc công tác tổng kết đúc rút kinh nghiệm thực tiễn giải quyết tranh chấp này hầu như chưa được các bên, cơ quan các cấp, thực hiện nghiêm túc. Nó chưa trở thành ý chí của các bên liên quan. Với các nhà nghiên cứu thì vấn đề này chưa được tìm tòi, nghiên cứu một cách đầy đủ, với các doanh nghiệp thì không nỗ lực hết mình tham gia đóng góp ý kiến, xây dựng, với Nhà nước thì chưa có sự quan tâm một cách thích đáng đến vấn đề này. Hi vọng trong tương lại với kiến nghị và nhận xét trên, mong rằng vấn đê này sẽ được quan tâm đầy đủ hơn.
Thứ chín, Nghiên cứu, tiếp thu pháp luật và thông lệ quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong quá trình xây dựng pháp luật trong nước để tiến tới hài hòa pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong xu thế khu vực hóa toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các quốc gia không thể bó hẹp phạm vi hoạt động kinh tế trong nội bộ quốc gia mình mà buộc phải mở rộng sự liên kết theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ thương mại trong khu vực và trên thế giới. Chính quá trình hội nhập này đặt ra yêu cầu mỗi quốc gia phải đổi mới hệ thống pháp luật của mình sao cho vừa đảm bảo tính đặc thù của mỗi quốc gia, vừa phù hợp với sự phát triển chung của thế giới về pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện và không thể đứng ngoài xu thế chung của thế giới. Vì vậy chúng ta cần nghiên cứu, tiếp thu pháp luật và thông lệ quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Để tiếp thu những ưu điểm hợp lý phổ biến một cách chọn lọc để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng của Việt Nam tương đồng với pháp luật và thông lệ quốc tế. Tạo điều kiện hấp dẫn hơn cho pháp luật và thiết chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng của Việt Nam, góp phần thu hút các doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam.
KẾT LUẬN
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng là vấn đề mang tính chất thời sự. Việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện vấn đề này giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn về lý luận cũng như thực tiễn tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Lý luận về vấn đề này ở nước ta hiện nay còn nhiều điều cần tiếp tục hoàn thiện.
Luận văn đã phân tích rõ ràng về tranh chấp thương mại từ đó đi sâu tìm hiểu các cách giải quyết tranh chấp thương mại mà cụ thể là giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Qua đó, có cái nhìn khái quát về thực trạng pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở nước ta hiện nay; Phân tính, đánh giá những ưu điểm và tồn tại của hệ thống này; Nêu thực trạng tình hình thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở nước ta. Trên cơ sở đó đưa ra một số nhận xét về những vấn đề bất cập của hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương luợng, nhận xét nguyên nhân của những bất cập đó để có những định hướng, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng của nước ta.
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng nói riêng. Góp phần tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển lành mạnh, khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp trong nước và quốc tế an tâm kinh doanh, đầu tư, góp vốn phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng còn thể hiện nhiều khiếm khuyết. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng còn nhiều bất cập, yếu kém về kinh nghiệm, năng lực giải quyết. Điều này gây ra những thiệt thòi cho doanh nghiệp cũng như môi truờng, đầu tư, kinh doanh của nước ta.
Những kiến nghị đưa ra nhằm góp phần tiếp tục hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, như để nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Vấn đề này cần xuất phát trên cơ sở các yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và phải đặt trong tổng thể yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Để quá trình hoàn thiện pháp luật cũng như pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng thực sự có hiệu quả thì cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các doanh nghiệp, cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong giai đoạn hiện nay, các quốc gia luôn trong xu thế cạnh tranh trong việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho vấn đề thu hút các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài vào làm ăn tại nước ta. Vì thế, việc xây dựng một hệ thống pháp luật cởi mở, thông thoáng,, một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng hiệu quả và phù hựp với thông lệ quốc tế sẽ là cơ sở tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn đối với các nhà đầu tư kinh doanh nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam và là tiền đề để Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Việc hoàn thiện khung Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng là yêu cầu cần thiết trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là mục tiêu trong chương trình xây dựng và hoàn hiện pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Có thể khẳng định rằng, Nhà nước ta đã có sự quan tâm nhất định trong vấn đề này, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên như thế vẫn là chưa đủ. Mong rằng vấn đề này sẽ được quan tâm nhiều hơn. Nó phải trở thành ý chí của các bên liên quan. Ý chí của các nhà nghiên cứu là nghiên cứu và kiến nghị thành quả đó đi vào thực tiễn chứ không chỉ dừng lại ở hội thảo. Và ý chí của các thương nhân, doanh nghiệp, đối tượng trực tiếp tham gia phải nỗ lực tìm tòi có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu và áp dụng thực tiễn nó. Và quan trọng là ý chí của chủ thể Nhà nước, Nhà nước cần chú trọng hơn nữa vấn đề này, cần lắng nghe và không ngừng hoàn thiện xây dựng pháp luật phù hợp với thực tiễn áp dụng. Vì vậy, chúng ta có thể tin rằng, trong tương lai những khiếm khuyết, bất cập về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng hôm nay sẽ được khắc phục, góp phần vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế của đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh./.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Tình hình nghiên cứu 2
1.3 Mục tiêu của Luận văn 3
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
1.5 Phương pháp nghiên cứu 4
1.6 Cơ cấu của Luận văn 4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CĂN BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG 5
1.1 Khái quát chung về tranh chấp thương mại và các cách giải quyết tranh chấp thương mại 5
1.1.1 Khái quát chung về tranh chấp thương mại 5
1.1.2 Các cách giải quyết tranh chấp thương mại 11
1.2 Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 18
1.2.1 Khái niệm 18
1.2.2 Nguyên tắc 20
1.2.3 Các hình thức thương lượng 26
1.2.4 Điều kiện áp dụng 31
1.2.5 Lợi ích của việc lựa chọn cách giải quyết thương mại bằng thương lượng 33
1.2.6 Hình thức pháp lý và hiệu lực của giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG 39
2.1 Các quy định pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 39
2.1.1 Các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 40
2.1.2 Các quy định về vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia kí kết . 42
2.2 Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở Việt Nam 46
2.3 Nguyên nhân những khiếm khuyết cơ bản của Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 55
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG 60
3.1 Sự cần thiết xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 60
3.2 Định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lựợng 61
3.3 Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng 67
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam với những bước phát triển của nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các thành phần kinh tế được tự do và bình đẳng trong kinh doanh. Trong điều kiện như vậy, tranh chấp xảy ra không những là vấn đề khó tránh khỏi mà ngày càng trở nên phức tạp. Để đảm bảo quyền tự do cho các chủ thể kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, thì việc tạo dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp thỏa đáng và hiệu quả góp phần tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn để thúc đẩy kinh tế phát triển, giữ vững trật tự và ổn định xã hội là đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy Thương lượng là cách khá phổ biến để giải quyết các tranh chấp trong đời sống kinh tế - xã hội nói chung và trong tranh chấp thương mại nói riêng. Đây là cách thường được giới kinh doanh nghĩ đến đầu tiên khi có tranh chấp xảy ra bởi những tính ưu việt của nó: Đơn giản của cách thực hiện; ít tốn kém; kông bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phức tạp; uy tín cũng như bí mật kinh doanh được bảo đảm tối đa, tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các bên; tiết kiệm được thời gian, công sức của các bên. Nhà nước ta đã cố gắng cải thiện, đổi mới hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại nhằm tạo ra nhiều cách giải quyết tranh chấp thương mại khác nhau phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế để các nhà kinh doanh có cơ hội lựa chọn giải pháp cho họ. Sự đổi mới này diễn ra trong cả lý luận và thực tiễn, trong luật nội dung cũng như luật tố tụng và luật về tổ chức bộ máy. Tuy niên, phải thừa nhận một thực tế là hoạt động thương mại đang ngày càng phát triển nhanh chóng và nảy sinh nhiều vấn đề mà hệ thống pháp luật đôi khi không kịp điều chỉnh và dẫn đến hậu quả có những bất cập.
Thương lượng là một cách giải quyết tranh chấp thương mại với những ưu việt của nó, nhưng trong các văn bản pháp luật thì thương lượng chỉ dừng lại ở việc quy định đó là một cách giải quyết tranh chấp cho nên trong thực tiễn áp dụng, cách này chưa bộc lộ hết ưu điểm vốn có của mình, đặc biệt là vấn đề thực thi khi thương lượng giữa các bên được hoàn thành đang bị bỏ ngỏ. Vì thế, cách không những không phát huy được ưu việt của nó mà đôi khi còn trở thành vướng mắc trong quá trình giải quyết gây thiệt hại cho các bên trong quan hệ tranh chấp, đặc biệt là thiệt hại cho những nhà kinh doanh nhỏ, thiếu kinh nghiệm. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng đúng cách giải quyết tranh chấp bằng thương lượng chắc chắn sẽ hỗ trợ không chỉ trong những tranh chấp thương mại nói riêng mà còn trong các tranh chấp của đời sống xã hội nói chung. Mặt khác, việc tìm ra các biện pháp để đưa cách giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trở nên phổ biến và ngày càng được giới kinh doanh lựa chọn là một trong những công việc rất quan trọng và cấp bách hiện nay . Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng” có một ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
1.2 Tình hình nghiên cứu
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng đang là vấn đề không chỉ nhận được sự quan tâm của giới kinh doanh mà còn là vấn đề quan tâm của các nhà khoa học pháp lý nhằm tạo dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp thươg mại hiệu quả, góp phần tạo ra một môi trường thuận lợi, thúc đẩy cho hoạt động thương mại phát triển. Chính vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về những vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
Đến nay đã có một số công trình và bài viết nghiên cứu sau: “ Thương lượng, hòa giải – lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp kinh doanh” của PGS. TS Trần Đình Hảo; “Tranh chấp hợp đồng và các cách giải quyết tranh chấp hợp đồng” của TS Phan Chí Hiếu; “Các cách giải quyết tranh chấp chủ yếu tại Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế và đầu tư nước ngoài” của TS Hoàng Thế Liên; “ Về vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam” của TS Hoàng Phước Hiệp; “Về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” của TS Phạm Hữu Nghị…Và nhiều các công trình nghiên cứu Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ và Khóa luận tốt nghiệp khác nghiên cứu các đề tài liên quan đến vấn đề này.
Tuy vậy, cho đến nay, chưa có công trình, bài viết nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng tại Việt Nam. Vì vậy, đề tài khóa luận tốt nghiệp này về cơ bản là mới, chưa được nghiên cứu tổng thể, toàn diện.
Đề tài được thực hiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình đã được ra nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện vấn đề này trong lý luận và thực tiễn.
1.3 Mục tiêu của Luận văn
Việc Nghiên cứu đề tài nhằm đạt được mục tiêu tổng quát là tìm ra được các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Để đạt được mục tiêu tổng quát này, khóa luận cần đạt được những mục tiêu cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu khái quát vấn đề lý luận về tranh chấp thương mại, trên cơ sở đó làm rõ các vấn đề lý luận mới, các yêu cầu mới liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
Thứ hai, nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành và các cách giải quyết tranh chấp thương mại đặc biệt là cách thương lượng từ đó làm rõ những mặt được, mặt còn hạn chế, bất hợp lý, bất cập trong pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
Thứ ba, Đưa ra một số kiến nghị và đề xuất hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lựơng phù hợp với tình hình mới, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả đáp ứng được các yêu cầu mới trong nền kinh tế.
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu chủ yếu những vấn đề về lý luận, thực tiễn pháp luật và cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, xu hướng vận động của chúng trong thời gian tới, những vấn đề đặt ra đối với pháp luật và cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng nói riêng.
Tranh chấp thương mại là một vấn đề khá rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài khóa luận tốt nghiệp và điền kiện có hạn nên đề tài chỉ giới hạn vấn đề nghiên cứu trong phạm vi giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trên cơ sở lý luận và thực tiễn theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Giới hạn này cho phép đảm bảo.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành các mục tiêu của đề tài, trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng khóa luận đã được thực hiện trên cơ sở của phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh. Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
1.6 Cơ cấu của khóa luận
Cơ cấu của khóa luận bao gồm:
Phần mở đầu
Phần nội dung gồm 03 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận căn bản về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
- Chương 3: Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
Phần kết luận
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CĂN BẢN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI BẰNG THƯƠNG LƯỢNG
1.1 Khái quát chung về tranh chấp kinh doanh thương mại và các cách giải quyết tranh chấp thương mại
1.1.1 Khái quát chung về tranh chấp kinh doanh thương mại
Tranh chấp là một hiện tượng khách quan trong xã hội. Từ khi hàng hóa xuất hiện thì cũng diễn ra các hoạt động thương mại, con người bắt đầu tiến hành các trao đổi hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Những mâu thuẫn xuất phát từ việc sản xuất, trao đổi và thông thương hàng hóa cũng bắt đầu xuất hiện, đó là tranh chấp thương mại. Trong nền kinh tế thị trường các quan hệ kinh tế càng phát triển, tranh chấp chấp càng trở nên đa dạng và phức tạp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh, những bất đồng, xung đột xảy ra giữa các chủ thể kinh doanh là điều khó tránh khỏi, tranh chấp đã trở thành một hện tượng bình thường đối với mọi nền kinh tế. Giải quyết được các mâu thuẫn, tranh chấp này sẽ góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế phát triển.
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Thuật ngữ này mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở Việt Nam mấy năm gần đây. Trước đây trong cơ chế kế hoặch hóa thuật ngữ tranh chấp chấp kinh tế là thuật ngữ quen thuộc đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam. Với ý nghĩa là tất cả các hoạt động kinh tế thực hiện theo mô hình kế hoạch hóa tập trung trên cơ sở chỉ tiêu, kế hoạch của nhà nước. Nguyên nhân là trong thời kì đó, chúng ta chịu ảnh hưởng của nền Luật học Xô viết cùng với sự tồn tại của một ngành Luật độc lập là ngành luật kinh tế. Trong thời kì mà hoạt động kinh tế chủ yếu là kế hoạch hóa tập trung với sự thống trị của khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sử dụng mệnh lệnh hành chính thì mọi hoạt động kinh tế chủ yếu do nhà nước thực hiện và chi phối. Kinh tế tư nhân, tư bản không có điều kiện phát triển. Các đơn vị kinh tế đều hoạt động thông qua kế hoạch và sử dụng hợp đồng kinh tế làm công cụ thực hiện kế hoạch được giao. Do đó, các tranh chấp kinh tế trong thời kì kế hoạch hóa tập trung đôi khi đồng nghĩa với tranh chấp hợp đồng kinh tế.
Khái niệm “Tranh chấp kinh tế” là một khái niệm có nội hàm rộng, bao gồm tất cả các tranh chấp có nội dung kinh tế. Trong các văn bản Pháp lý trước đây như Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16/3/1994 và theo Nghị định số 116/NĐ-CP của chính phủ ngày 5/9/1994 đã liệt kê các tranh chấp được coi là tranh chấp kinh tế bao gồm: Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân, giữa pháp nhân với cá nhân có đăng kí kinh doanh; Các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; Các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu; các tranh chấp khác theo quy định pháp luật. Với một khái niệm có nội hàm rộng và việc pháp luật chúng ta gắn cho các tranh chấp điển hình có nội dung kinh tế trên đã tạo ra sự không tương thích và không phù hợp với các hoạt động thương mại nữa.
Thuật ngữ “tranh chấp kinh tế” ít được sử dụng trong các văn bản Pháp lý quốc tế mà thay vào đó là thuật ngữ “tranh chấp thương mại” (commerce dispute) hay thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh” (business dispute). Ví dụ, như trong bản Quy tắc hòa giải không bắt buộc và Quy tắc trọng tài của Phòng thương mại quốc tế (ICC) đều sử dụng thuật ngữ tranh chấp kinh doanh. Điều 1 bản Quy tắc hòa giải không bắt buộc quy định “Tất cả các tranh chấp kinh doanh có đặc điểm quốc tế có thể được đưa ra hòa giải bởi một hòa giải viên duy nhất do Phòng thương mại quốc tế chỉ định”. Trong Luật mẫu của UNCITRAL về trọng tài thương mại quốc tế cũng sử dụng thuật ngữ “thương mại”.
Trên thực tế, khái niệm tranh chấp thương mại được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau và có nhiều tên gọi khác nhau: Tranh chấp kinh tế, tranh chấp thương mại, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Các nhà nghiên cứu luôn cố gắng phân biệt sự khác nhau giữa tranh chấp kinh tế và tranh chấp kinh doanh. TS Nguyền Thị Kim Vinh Xác định “Trong các loại hình tranh chấp kinh tế, tranh chấp trong kinh doanh là loại hình tranh chấp phổ biến nhất và do đó một số trường hợp khái niệm tranh chấp trong kinh doanh và khái niệm tranh chấp kinh tế được sử dụng với ý nghĩa tương đương với nhau”.
Có ý kiến lại cho rằng: “Tranh chấp trong kinh doanh là một dạng của tranh chấp kinh tế, biểu hiện những mâu thuẫn hay xung đột về quyền, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hay thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời”.
Ở Việt Nam, Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật thương mại ngày 10/5/1997 song, theo điều 238, Luật thương mại 1997 có quy định: Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hay thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại.
Ngoài ra, khái niệm “Hoạt động thương mại” theo quy định của Luật thương mại năm 1997 lại có nội hàm rất hẹp so với quan niệm phổ biến của các nước trên thế giới về thương mại. Theo Điều 1 của Luật mẫu UNICTRAL về trọng tài thương mại được Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế thông qua ngày 21/6/1958 có quy định các mối quan hệ mang tính chất thương mại, bao gồm, nhưng không giới hạn, các giao dịch sau đây: Mọi giao dịch thương mại về việc cung cấp hay trao đổi hàng hóa hay dịch vụ; thỏa thuận về phân phối; Đại diện thương mại; hóa đơn chứng từ; bán – cho thuê; Xây dựng nhà máy; Dịch vụ tư vấn; Đề án thiết kế tổng hợp; Giấy phép; Đầu tư; Cấp chi phí; Giao dịch ngân hàng; Bảo hiểm; Các thỏa thuận về khai thác hay chuyển nhượng; Hợp tác giữa các xí nghiệp và các hình thức về hợp tác công nghiệp hay thương mại; Vận chuyển hành khách hay hàng hóa bằng đường không, đường biển, đường sắt, đường bộ. Như vậy, những tranh chấp thương mại theo Luật mẫu là rất rộng. Bao gồm các tranh chấp phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại theo hợp đồng hay không theo hợp đồng. Trong Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) khái niệm thương mại cũng được hiểu rất rộng. Đều 2 của Hiệp định này nêu rõ WTO sẽ đảm bảo khung định chế chung cho việc thực hiện các quan hệ thương mại giữa các thành viên về những vấn đề liên quan đến các Hiệp định trong Phụ lục. Trong khi đó, Phụ lục vốn được coi là các văn bản cấu thành khung pháp lý của WTO bao trùm rất nhiều lĩnh vực không chỉ là thương mại hàng hóa mà cả thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Tất cả các tranh chấp có liên quan đến thương mại đều được giải quyết theo thủ tục mới được quy định tại các Hiệp định kí tại vòng đàm phán Uruguay.
Cho nên, có thể nhận thấy Quan niệm về tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại theo Luật thương mại năm 1997 đã loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là tranh chấp thương mại, mặc dù xét về bản chất hoàn toàn có thể coi là các tranh chấp thương mại. Điều này đã tạo ra những xung đột pháp luật, giữa luật quốc gia với luật quốc tế, trong đó có cả những công ước quan trọng mà Việt Nam đã là thành viên (Công ước New York năm 1958), gây không ít trở ngại, rắc rối trong thực tiễn áp dụng và chính sách hội nhập.
Sau khi Việt Nam kí kết hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ ngày 13/7/2000 và được Quốc hội phê chuẩn ngày 28/11/2001, quan niệm về thương mại và tranh chấp thương mại của chúng ta đã được mở rộng và mang bản chất của thương mại. Khái niệm thương mại bao gồm thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ và đầu tư. Còn tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh giữa các bên trong giao dịch thương mại (Điều 9.4 Chương I). Ngoài ra Hiệp định thương mại Vệt Nam – Hoa Kỳ còn phân biệt thêm về thương mại nhà nước. Đây là cơ sở quan trọng để Việt Nam sửa đổi và ban hành hàng loạt các văn bản quan trọng sau này về thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại.
Các quan niệm về thương mại như trong Hiệp định Việt Nam – Hoa Kỳ tiếp tục được thể hiện trong Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 và Luật thương mại năm 2005.
Ngày 25/2/2003 Pháp lệnh trọng tài thương mại ra đời mặc dù không đưa ra được khái niệm về tranh chấp thương mại mà đưa ra khái niệm “Hoạt động thương mại” theo đó Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Khái niệm này đã tạo ra được sự tương đồng trong quan niệm về “Thương mại” và “Tranh chấp thương mại” của Pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ quốc tế. Là tiền đề cho việc ra đời các văn bản Pháp luật tiếp theo trong lĩnh vực thương mại.
Theo Điều 29, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 có liệt kê các tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, gồm có: Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán hàng hoá; Cung ứng dịch vụ; Phân phối; Đại diện, đại lý; Ký gửi; Thuê, cho thuê, thuê mua; Xây dựng; Tư vấn, kỹ thuật; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; Đầu tư, tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai thác; Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Tiếp theo là sự ra đời của Luật Thương mại năm 2005. Luật thương mại năm 2005 cũng không đưa ra khái niệm tranh chấp thương mại mà theo khoản 1, điều 3 đưa ra khái niệm: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Như vậy, khái niệm Hoạt động thương mại của Luật thương mại năm 2005 đã được mở rộng nó là mọi hoạt động có mục đích sinh lời. Hướng tiếp cận này tạo ra sự tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 2005. Khoản 2, điều 4 Luật doanh nghiệp quy định kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hay tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hay cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Các khái niệm về thương mại này đã loại bỏ yếu tố “chính sách kinh tế - xã hội so với quy định trong Luật thương mại năm 1997 và không bó hẹp phạm vi chủ thể là thương nhân, đồng thời gần hơn với quan niệm về hoạt động thương mại của WTO và Luật mẫu UNCITRAL.
Đặc biệt, lần đầu tiên, khái niệm thương mại được xác định nằm trong khái niệm dân sự theo nghĩa rộng. Theo Điều 1 Bộ luật dân sự năm 2005 có xác định các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động được gọi chung là quan hệ dân sự. So với trước đây, khi xác định tranh chấp kinh tế hay tranh chấp thương mại, nhiều người mong muốn phân biệt rạch ròi giữa tranh chấp kinh tế với tranh chấp dân sự để có thể áp dụng các quy định của pháp luật về nội dung cũng như thủ tục giải quyết khác nhau. Do đó, thường xuyên dẫn đến các tranh luận về sự phân biệt tranh chấp thương mại và tranh chấp dân sự trong rất nhiều vụ việc. Đến thời điểm hiện nay, việc xác định tranh chấp thương mại hay tranh chấp dân sự vẫn còn cần thiết nhưng nó không còn quan trọng như trước nữa.
Từ những văn bản pháp lý trên và các nội dung được xem xét Giáo trình Luật Thương mại, tập 2 của trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra quan điểm về tranh chấp Thương mại: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các họat động thương mại.(11, Tr 432).
Hiện nay, khái niệm tranh chấp thương mại vẫn chưa đưa ra được một khái niệm thống nhất, đặc biệt là chưa có văn bản pháp lý nào quy định mà nó mới chỉ dừng lại ở vấn đề quan điểm của một số tác giả trên cơ sở tiếp cận nó thông qua luật nội dung và luật tố tụng.
Theo David Foskett “Một tranh chấp tất nhiên không thể xuất hiện, trừ khi một trái quyền được khẳng định bởi một bên mà lại bị một bên khác chống lại.”
Còn theo như Deluxe Black’s Law Dictionary “Tranh chấp trong lĩnh vực pháp lý được hiểu là các xung đột hay trái ngược liên quan tới các quyền, sự đòi hỏi hay yêu cầu của một bên đối với bên kia, hay sự khẳng định về quyền, sự đòi hỏi hay yêu cầu của một bên bị đáp lại bởi yêu cầu hay sự viện dẫn trái ngược của bên kia.”(1)
Tại Việt Nam ngoài Giáo trình Luật Thương mại, tập 2 của trường Đại học Luật Hà Nội có đưa ra quan điểm về tranh chấp Thương mại như ở trên thì còn có một số quan điểm khác theo như trong cuốn Kỹ năng hành nghề luật sư- Tập III- Hợp đồng và tư vấn hợp đồng của Học viện tư pháp thì “Tranh chấp hợp đồng là sự mâu thuẫn, bất đồng ý kiến giữa các bên tham gia quan hệ hợp đồng liên quan tới việc thực hiện (hay không thực hiện) các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng”.(48, Tr 53) Với Tiến sĩ luật học Phan Chí Hiếu có nhận định trong Kỷ yếu hội thảo giải quyết tranh chấp kinh doanh và phá sản doanh nghiệp thì “Tranh chấp kinh tế được hiểu là những mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ, lợi ích kinh tế giữa các chủ thể khi tham gia quan hệ kinh tế” (49, Tr 98) còn Tiến sĩ Luật học Phạm Hữu Nghị lại cho rằng “Tranh chấp trong kinh doanh là mâu thuẫn hay xung đột về quyền và nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp với tư cách là chủ thể kinh doanh”(50, Tr 73). Có thể nhận thấy quan điểm của các tác giả Việt Nam về tranh chấp thương mại là tương đối thống nhất và có thể nhận thấy tranh chấp thương mại là tranh chấp khi có đủ các yếu tố đó là: tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ thương mại (theo hợp đồng hay không theo hợp đồng) xảy ra trước, trong hay sau thỏa thuận của các bên; Những mâu thuẫn phải phát sinh từ hoạt động thương mại; Những mâu thuẫn phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân (trong trường hợp nhất định, các cá nhân, tỏ chức khác không phải là thương nhân cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại, như: tranh chấp công ty và thành viên công ty; giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty hay tranh chấp về giao dịch giữa một bên không nhằm mục đích sinh lợi với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp dụng Luật thương mại).
1.1.2 Các cách giải quyết tranh chấp thương mại
Với nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại, thì các cách giải quyết tranh chấp kinh tế nhìn chung do các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, chọn cách nào và chi tiết thỏa thuận đến đâu phụ thuộc vào quan điểm thái độ của các bên cũng như hệ thống pháp luật thực định và hiệu quả của quá trình tố tụng của nước mà các bên lựa chọn.
Hiện nay, cũng như trên thế giới Việt Nam tồn tại bốn cách giải quyết tranh chấp thương mại cơ bản, bao gồm: Thương lượng; hòa giải; trọng tài thương mại và tòa án.
Thương lượng, là cách giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên cùng nhau bàn bạc, thảo luận để tự giải quyết bất đồng. Đây là cách đơn giản, không tốn kém và đặc biệt là đảm bảo được quan hệ kinh doanh giữa các bên. (Chi tiết hơn về cách này ở phần sau).
Hòa giải, là cách giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.Đây là cách đòi hỏi bên thứ ba làm trung gian phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn và có sự độc lập . Có như thế, người thứ ba mới có đủ uy tín và độ tin cậy cần thiết để các bên tranh chấp mời làm trung gian. Giống như thương lượng thì quá trình hòa giải của các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của Pháp luật về thủ tục hòa giải. Các bên có thể xác định một thủ tục tiến hành hòa giải qua trung gian, một thủ tục linh hoạt, mềm dẻo, được người trung gian sử dụng, quyết định. Người trung gian có trách nhiệm giải thích cho các bên tranh chấp biết về bản chất của thủ tục hòa giải cũng như những quy ước chủ yếu được áp dụng chủ yếu trong quá trình hòa giải. Kết quả hòa giải thành được thì cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp, mà không có bất kì cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hòa giải.
cách giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. là cách tranh chấp được Pháp luật quy định. Theo đó, thông qua hoạt động của trọng tài viên, việc tranh chấp được giải quyết bằng một phán quyết trọng tài mà hai bên tranh chấp phải thực hiện. Theo cách này, các bên được bảo đảm quyền tự do định đoạt như: lựa chọn tổ chức trọng tài, lựa chọn trọng tài viên…Đây là cách có tính ràng buộc cao, thủ tục cũng đơn giản, nhanh chóng đảm bảo được bí mật kinh doanh và uy tín. Tuy nhiên, để áp dụng cách trọng tài để giải quyết tranh chấp thương mại, đòi hỏi điều kiện các bên phải có thỏa thuận trọng tài: Là môt hình thức pháp lý, thể hiện sự thống nhất ý chí của các bên về việc đưa tranh chấp ra giải quyết tại tổ chức trọng tài do các bên lựa chọn. Thỏa thuận trọng tài phải được các bên tranh chấp lập ra trước hay sau khi xảy ra tranh chấp và thỏa thuận trọng tài chưa bị tuyên vô hiệu. Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực. Trọng tài vụ việc là cách trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Và trọng tài thường trực (còn gọi là trọng tài quy chế) là hình thức trọng tài được thành lập có tổ chức, có trụ sở cố định, có danh sách trọng tài viên, hoạt động theo điều lệ tổ chức và các quy tắc tố tụng riêng.
cách giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án. Khác với thương lượng, hòa giải hay trọng tài là các cách giải quyết tranh chấp mang tính thỏa thuận tự nguyện hay trên cơ sở quyền lực trao cho trọng tài thì giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án là cách giải quyết tranh chấp thương mại do cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước là Tòa án tiến hành theo trình tự thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ mà Pháp luật quy định. Theo đó, Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước ra một bản án bắt buộc các bên phải chấp hành và nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Ở Việt nam, tranh chấp thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa kinh tế - Tòa chuyên trách trong hệ thống Tòa án nhân dân.
Như vậy, thương lượng, hòa giải và trọng tài thương mại là các cách giải quyết tranh chấp thương mại không mang ý chí quyền lực nhà nước, mà chủ yếu được giải quyết dựa trên nền tảng ý trí tự định đoạt của các bên tranh chấp hay phán quyết của bên thứ ba độc lập theo thủ tục linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp. Còn Tòa án là cách giải quyết tranh chấp thương mại mang ý chí quyền lực nhà nước, do Tòa án tiến hành theo thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ.
Mỗi cách giải quyết trách chấp thương mại trên đây đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Lựa chọn cách giải quyết tranh chấp nào là quyền của các bên căn cứ vào tính chất, phạm vi, mức độ và thiện chí của các bên có tranh chấp.
Ngoài các cách giải quyết tranh chấp phổ biến và được pháp luật quy định trên thì còn có các cách giải quyết tranh chấp thương mại khác như “tự xử”, hành chính, hoạt động tư vấn, tham vấn.
Giải quyết tranh chấp thương mại luôn là quan tâm hàng đầu của giới kinh doanh. Một cách giải quyết hiệu quả luôn là ưu tiên lựa chọn số một. Hiện nay, ngoài pháp luật quốc gia có những cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của mình trên cơ sở những cách giải quyết trânh chấp phổ biến. Thì các tổ chức cũng có những cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại riêng mà hiện nay giới kinh doanh cũng đang sử dụng những cơ chế này để giải quyết tranh chấp thương mại. Một số cơ chế giải quyết tranh chấp thươg mại trên thế giới như:
Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).WTO là một thiết chế pháp lý của hệ thống thương mại đa bên, là nền tảng của quá trình phát triển các quan hệ thương mại giữa các nước thông qua các cuộc thảo luận, thương lượng và phán xét có tính chất tập thể. WTO có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO như thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án. Được hình thành và phát triển trên nền tảng các quy định về giải quyết các tranh chấp của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại), Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO đã có những thay đổi tích cực góp phần nâng cao hiệu lực và tác dụng của cơ chế này với mục đích giải quyết ổn thỏa các tranh chấp thương mại quốc tế, duy trì ổn định và phát triển hệ thống thương mại đa phương theo Hiệp định WTO. Bên cạnh đó, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO còn trên nền tảng pháp lý là thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp và thường được gọi là Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp (Gọi tắt là DSU-Dispute Settlement Understanding).
Thứ sáu, tăng cường hiệu quả hoạt động tư vấn pháp luật. Một trong những biện pháp cần được chú trọng trong thời gian tới để góp phần hạn chế những tranh chấp kinh tế đó là việc tăng cường những phát triển hoạt động của các Luật sư theo hướng xã hội hóa và chuyên nghiệp hóa công tác luật sư. Thực tế cho thấy rằng, với số lượng Luật sư quá ít như hiện nay, trong khi dân số đất nước là trên 80 triệu người, cộng với tư tưởng chưa coi trọng vai trò luật sư của các doanh nghiệp thì tình hình tranh chấp thương mại phổ biến phát sinh ngay từ khi kí kết hợp đồng là không thể tránh khỏi. Hiện nay, các đoàn luật sư chủ yếu tập trung vào lĩnh vực tranh tụng trong các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hướng dẫn soạn thảo đơn từ về các vấn đề liên quan. Số lượng vụ việc liên quan đến thương mại, đầu tư, dịch vụ và sở hữu trí tuệ còn ít. Việc tư vấn pháp luật trong hoạt động thương mại đặc biệt việc tư vấn pháp luật cho các dự án đầu tư nước ngoài hiện nay ở Việt Nam hầu hết là do các Luật sư của các hãng luật nước ngoài nắm giữ và chi phối.(52, Tr 30-32). Tuy nhiên để đáp ứng đòi hỏi của các nhà đầu tư, kinh doanh trong và ngoài nước đòi hỏi Luật sư phải là những người có trình độ chuyên môn cao. Vì vậy, các luật sư Việt Nam phải cố gắng phát huy nội lực của mình để không bị tụt hậu về kiến thức pháp luật so với khu vực và thế giới. Mặt khác cũng cần có kế hoạch đào tạo cho đội ngũ luật sư nhằm đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế. Sự xuất hiện của các Luật sư sẽ có tác dụng loại trừ những tranh chấp không đáng có trong quá trình kí kết và thực hiện các hợp đồng thương mại giữa các nhà doanh nghiệp.
Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện kỹ năng thương lượng. Tuy nhiên, hiện nay ở Việt Nam kỹ năng thương lượng của các chuyên gia thương luợng còn rất thiếu vì thực tế không một trường đại học nào ở nước ta đào tạo kỹ năng này. Kỹ năng thương lượng là yếu tố quan trọng trong quá trình thương lượng. Vấn đề quan trọng hiện nay là xây dựng một chương trình về kỹ năng thương lượng và đưa vào khung trương trình đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng…Kỹ năng thương lượng giống với kỹ năng đàm phán, Việc phát triển kỹ năng thương lượng là việc phát triển tổng thể kỹ năng thương lượng của tổ chức và cá nhân. Trong khuôn khổ luận văn, tác gia luận văn xin đưa ra một số kỹ năng thương lượng sau:
Một, cải thiện liên tục – học hỏi từ mọi kinh nghiệm. Các nhà quản lý đã khái quát tư duy về xử lý thương lượng trong suốt hai thập kỷ qua. Tư duy xử lý thương lượng dựa trên hai nguyên lý nền tảng. Đầu tiên là hầu hết những điều được thực hiện trong tổ chức – từ việc xử lý báo cáo chi tiêu đến đáp ứng các yêu cầu phát triển sản phảm mới – đều là kết quả của quy trình xử lý thương lượng. Xử lý thương lượng là các hoạt động biến thông tin đầu vào thành thông tin đầu ra có tổng giá trị cao hơn. Nguyên lý thứ hai là việc xử lý thương lượng có thể được cải thiện. Chúng có thể được làm nhanh hơn, rẻ hơn, hay hiệu quả hơn thông qua phân tích, tái thiết và học hỏi kết hợp với nhau, hai nguyên lý nền tảng này là cơ sở cải thiện liên tục – một trong những ý tưởng kinh doanh mạnh mẽ nhất trong thời gian gần đây. Khi áp dụng cho thương lượng, nguyên tắc cải thiện liên tục có thể phát triển tính hiệu quả của năng lực nội bộ của một tổ chức, và qua thời gian, cải thiện kết quả cốt yếu. Vậy tại sao không áp dụng cải thiện liên tục cho quy trình thương lượng? Hãy tưởng tượng tổ chức của bạn sẽ tốt lên như thế nào nếu các cuộc thương lượng của tổ chức với đối tác, nhân viên hiệu quả hơn và có lợi hơn. Chi phí giảm, các mối quan hệ trở lên vững mạnh hơn và có lợi hơn. Bước đầu tiên tiến đến cải thiện liên tục trong thương lượng là xem thương lượng như một quy trình có các bước xử lý khá bao quát. Cho dù cuộc thương lượng liên quan đến hai cá nhân, hay nhiều người tham gia, và cho dù nó nhằm mục đích tạo ra một cuộc tranh cãi gây tổn hại, những bước này nói chung đều có tác dụng. Từng bước trong quy trình này tượng trưng cho một cơ hội cải thiện, và từng bước lên được phân tích với mục tiêut trong tâm trí. Bước thứ hai là tổ chức học hỏi từ quy trình xử lý thương lượng vào lúc diễn ra và kết thúc cuộc thương lượng. Ví dụ, những người tham gia nên liên tục đánh giá quy trình thông qua các cuộc thương lượng và điều chỉnh chiến thuật của mình nếu cần thiết. Họ cũng nên dùng những gì đã học được trong một giai đoạn thương lượng để chuẩn bị cho giai đoạn kế tiếp. Và dĩ nhiên, những người tham gia nên tực hiện việc phân tích rút kinh nghiệm vào cuối mỗi cuộc thương lượng để xác định những gì đã làm, những gì chưa, và kinh nghiệm của họ có thể sử dụng như thế nào để cải thiện kết quả thương lượng trong tương lai. Cuối cùng nên học hỏi từ việc phân tích rút kinh nghiệm theo những hình thức giúp phổ biến kiến thức được phổ biến dễ dàng và có thể tái sử dụng bởi các nhà thương lượng trong tương lai: các khóa huấn luyện, danh mục kiểm tra và cơ sở dữ liệu. Việc nắm bắt và tái sử dụng kiến thức được phản ánh cho các lần thương lượng tiếp theo. Việc tổ chức cải thiện quy trình và năng lực thương lượng, bạn cần thừa nhận sự cần thiết phải vượt qua các rào cản chính sau: Kết quả thương lượng không phải lúc nào cũng rõ ràng; trong một vài trường hợp, những hậu quả thực sự của thương lượng không thể lường được trong một thời gian dài; Khi học hỏi từ kinh nghiệm thương lượng, một người không thể lúc nào cũng khẳng định: “hành động này tạo ra ba kết quả.” Sự xuất hiện nhiều tình huống khác nhau không kiểm soát được sẽ làm cho sự chắc chắn như vậy không thể xảy ra; Các cá nhân có thể không có động cơ chia se kinh nghiệm của họ với người khác. Tuy nhiên, kinh nghiệm, và kiến thức do nó tạo ra, có thể giúp bản thân các nhà thương lượng cải thiện khả năng của mình qua thời gian. Và những bài học rút ra từ kiến thức này có thể truyền lại cho những cá nhân khác.
Hai, thương lượng là một năng lực tổ chức. Đáng tiếc là rất ít công ty áp dụng việc cải thiện liên tục vào các cuộc thương của họ. Họ cũng không suy nghĩ một cách hệ thống về các hoạt động thương lượng của mình như một năng lực chính của tổ chức. Thay vào đó, họ có một quan điểm ngẫu hứng, nhận thức từng cuộc thương lượng như một sự kiện tách biệt với các mục tiêu, chiến thuật, người tham gia và biện pháp thành công của chính họ. Hậu quả là họ đã không lắm bắt được kiến thức để sử dụng trong tương lai. Chính vì điều này, họ hiếm khi đạt được kết quả tốt hơn và thường chịu thiệt thòi trên bàn thương lượng. Một tổ chức có thể cải thiện kỹ năng thương lượng tổng thể và biến kỹ năng này thành năng lực quan trọng bằng các cách sau:
Cung cấp nguồn lực huấn luyện và đào tạo cho những người thương lượng. Những doanh nghiệp muốn tăng năng lực thương lượng của họ, thì họ phải bắt đầu một chương trình đào tạo đặt các nhà thương lượng vào vị trí của thế giới thực tiễn, tiếp theo sẽ là nguồn huấn luyện kỹ thuật mà các nhà thương lượng “thực hiện” sẽ cần trong lĩnh vực này. Những nguồn này giúp cho việc chuẩn bị trước khi thương lượng, cũng có thể là cung cấp các danh mục cho việc kiểm tra cho việc chuẩn bị và việc tiếp cận các bài học được rút ra từ kinh nghiệm thương lượng trước đây. Người thương lượng giỏi là người biết nhận ra mối đe dọa và cơ hội trong một mớ hỗn loạn những thứ không quan trọng. Họ phát triển sự nhận biết thông qua kinh nghiệm, thời gian học đào tạo giúp phát triển hiểu biết, kinh nghiệm tránh nguy cơ phạm lỗi.
Làm rõ các mục tiêu và mong đợi của tổ chức về bất cứ thỏa thuận nào – và khi nào người thương lượng nên bỏ đi. Khi bắt đầu thương lượng với một bên ở ngoài tổ chức, những người thương lượg không nhất thiết phải đoán các mục tiêu và nguyện vọng của tổ chức. Họ nên nhận được sự hướng dẫn rõ ràng từ cấp trên. Và cấp quản lý phải thông báo rõ ràng về mong muốn của mình, và nói cho những người thương lượng biết khi nào nên dừng lại hay từ bỏ cuộc thỏa thuận. Các mục tiêu thương lượng phải phù hợp với các mục tiêu của tổ chức và được hỗ trợ bằng những động cơ đúng.
Yêu cầu mỗi nhóm thương lượng phải triển khai phương án tốt nhất cho một thỏa thuận thương lượng và tìm cách cải thiện nó. Một giải pháp tốt nhất cho một thỏa thuận được thương lượng mạnh tương đương với đối phương đem lại cho người thương lượng khả năng thương lượng. Nó giúp cho người thương lượng biết khi nào thì việc bỏ đi là một hành động thông minh. Các tổ chức nên yêu cầu thay mặt của họ hiểu rõ về phương án tốt nhất cho một thỏa thuận thương lượng của mình và họ đã khám phá nhiều cách để củng cố giải pháp thay thế tốt nhất của họ.
Phát triển cơ chế nắm bắt và tái sử dụng những bài học rút ra từ các cuộc thương lượng trước đây. Ý tưởng nắm bắt kinh nghiệm và tái sử dụng nó cho những tình huống tương tự trong tương lai là một phần thiết yếu của việc quản lý kiến thức phổ biến trong thời đại ngày nay. Điều này đạt được khi các doanh nghiệp có hệ thống trong việc lưu trữ kết quả thương lượng. Thực tế có doanh nghiệp nước ngoài đã phát triển một cơ sở dữ liệu tập trung để giúp các giám đốc dự án thương lượng thỏa thuận với khách hàng. Họ tiến hành, bất cứ giám đốc nào khi thương lượng với khách hàng cũng đều được yêu cầu điền vào một phiếu câu hỏi ngắn nắm bắt các biện pháp được thực hiện, kết quả đạt được, và những bài học nhận biết được. Các kết quả báo cáo này được đưa vào một cơ sở dữ liệu và có sẵn cho các giám đốc dự án khác khi họ chuẩn bị cho những cuộc thương lượng sắp tới với khách hàng.
Phát triển các biện pháp thực hiện thương lượng và liên kết với phần thưởng. Điều này đòi hỏi cấp quản lý phải tạo ra sự tương xứng giữa mục tiêu của mình, và cách đánh giá và thưởng cho người thương lượng. Đánh giá có thể là: cuộc thương lượng có giúp bạn và khách hàng xây dựng mối quan hệ để làm việc có hệu quả trong suốt quá trình thỏa thuận không; Những cuộc thương lượng này có tạo ra môi trường mà trong đó cả hai bên có thể tham gia vào những cuộc đối thoại mang tính xây dựng và giải quyết vấn đề hay không; Thỏa thuận này có đáp ứng các quyền lợi của bạn và của đối tác ở mức độ chấp nhận được hay không; Bạn đã tìm kiếm các giải pháp sáng tạo và hiệu quả có khả năng đạt được lợi ích chung; Bạn đã dùng những tiêu chuẩn khách quan để đánh giá và lựa chọn phương án mà hai bên chấp nhận; Bạn đã đề xuất một phương án thay thế tốt nhất cho một thỏa thuận được thương lượng, và bạ chắc là giải pháp thay thế này hiệu quả; Bạn đã tạo ra những cam kết được hoạch định tốt, thiết thực và khả thi mà cả hai bên đều hiểu và sẵn sàng thực hiện. Theo cách đánh giá này bạn sẽ có cách phát triển giải pháp thương lượng và gắn với phần thưởng cho người thương lượng.
Chúng ta đều hiểu năng lực thương lượng là tổng năng lực của tổ chức và năng lực của các thành viên. Vậy kỹ năng của một nhà thương lượng hiệu quả là người biết:
Xếp mục tiêu thương lượng tương ứng với mục tiêu của tổ chức. Một nhà thương lượng hiệu quả hoạt động trong một cơ cấu hỗ trợ các mục tiêu chiến lược của tổ chức. Cho nên đòi hỏi mục tiêu phải rõ ràng được truyền đạt từ cấp quản lý, nó bảo đảm cho sự tương xứng giữa mục tiêu với cách cư xử của thay mặt thương lượng và kết quả thương lượng.
Chuẩn bị kỹ lưỡng và sử dụng từng giai đoạn thương lượng để chuẩn bị sâu hơn. Trong các cuộc thương lượng hiệu quả, người đến bàn thương lượng luôn chuẩn bị sẵn sàng các giữ kiện và đề xuất. Họ cần nhận được sự hỗ trợ, đồng chuẩn bị của các đồng nghiệp, phòng ban và cả tổ chức.
Dùng các buổi thương lượng để học hỏi nhiều hơn về những vấn đề có nguy cơ thua và giải pháp thay thế tốt nhất cho thỏa thuận được thương lượng. Trong thương lượng, các nhà thương lượng luôn hoạt động trong một màn sương của sự không chắc chắn. Thuận lợi thường nghiêng về bên thu thập thông tin thông qua chuẩn bị và đối thoại, cho phép họ xuyên qua màn sương đó.
Cần sự thông minh để xác định được quyền lợi của cả hai bên, và sự sáng tạo để nghĩ ra các phương án, tạo ra lợi ích dẫn đến tình huống hai bên cùng thắng. Một người thương lượng thực sự giỏi có thể thay dổi cuộc chơi nếu biết đương đầu với những gì người khác xem là trò chơi được mất ngang nhau. Người này có thể giúp cho đối phương thấy được lợi ích của việc chia sẻ thông tin và mở rộng cơ hội thỏa thuận.
Có thể tách biệt những vấn đề cá nhân với những vấn đề thương lượng. Nhà thương lượng hoàn hảo biết rằng cuộc thương lượng này không phải là về mình, hay thậm chí về những người đang ngồi bên quanh bàn thương lượng. Người thương lượng này biết hoạt động với tư cách rời khách quan và tập trung vào việc tạo ra kết quả tốt nhất có thể được.
Có thể nhận ra rào cản tiềm tàng cho cuộc thỏa thuận. Những rào cản không phải lúc nào cũng rõ ràng. Một nhà thương lượng khéo léo biết khám phá chúng và trung hòa chúng.
Biết cách tạo liên minh. Không phải mọi chuyên gia thương lượng đều bách chiến bách thắng. Đối phương có thể có quyền lực cao hơn tại bàn thương lượng. Tuy nhiên, một người thương lượng giỏi biết rằng liên minh sẽ giúp những người yếu thế chống lại quyền lực đó. Quan trọng hơn, người này biết cách xây dựng liên minh trên nền tảng các quyền lợi chung.
Một nhà thương lượng giỏi, theo tác giả luận văn để tiếp cận được các kỹ năng trên đòi hỏi có những phẩm chất: Phải có kiến thức, kinh nghiệm gần như toàn diện, phải vừa là một nhà kinh doanh, một luật gia, nhà ngoại giao, tâm lý học, chính trị học và am hiểu pháp luật quốc tế; Chuyên gia này phải có tư duy nhạy bén, giỏi cả suy nghĩ, giỏi cả hành động, phải có năng lực và sự nhẫn lại không nóng vội, hấp tấp biết kiềm chế cảm xúc, không tự ti kiêu căng, có khí tiết có khả năng sáng tạo dồi dào; Phải có khả năng ngôn ngữ tốt, giỏi diễn đạt ý kiến của mình, trình bày vấn đề sáng tỏ, dùng từ chuẩn xác rõ ràng có tính thuyết phục cao và phải có khả năng quan sát để ứng phó tình huống cho phù hợp
Những cuộc thương lượng hiệu quả nhất được xây dựng trên sự tin tưởng. Sự tin tưởng được tạo ra thông qua một giai đoạn thương lượng có những thuận lợi quan trọng cho bước tiếp theo. Những nhà thương lượng giỏi có cách cư xử đúng nguyên tắc xử thế.
Với sự đào tạo và kinh nghiệm, bạn có thể phát triển những kỹ năng này để trở thành một nhà thương lượng hiệu quả (41,Tr 161-174).
Thứ tám, Tổng kết đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Tổng kết rút kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết thương lượng là một khâu quan trọng trong công tác áp dụng pháp luật. Từ vấn đề này có thể học hỏi được những kinh nghiệm quý báu trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, xem xét đánh giá lại những văn bản hiện hành liên quan đến giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, đưa ra các kiến nghị đê hoàn thiện công tác này. Tuy nhiên công tác này không phải lúc nào và ở đâu cũng được thực hiện một cách nghiêm túc. Trong những năm gần đây, việc tổ chức tổng kết sơ kết thực tiễn và phổ biến kinh nghiệm bài học thực tế được đưa thành nhiệm vụ của các doanh nghiệp và các cơ quan xét xử. Tuy nhiên, các báo cáo này thường chỉ lưu hành nội bộ, thậm chí chỉ những người liên quan đến công tác tổng kết mới được biết đến. Có nơi còn xem đây là tài liệu mật. Vì thế việc tiếp cận thông tin liên quan gặp nhiều trở ngại khó khăn. Lý luận phát triển từ thực tiễn và thực tiễn bổ sung cho lý luận. Kinh nghiệm từ thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương luợng giúp chúng ta hoàn thiện môi trường pháp lý liên quan đến công tác này, và việc tổng kết này còn làm cơ sở cho các nhà hoạch định chính sách, nhà làm luật, các nhà làm công tác giảng dạy, đào tạo và đặc biệt là nhà kinh doanh tham khảo trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp. Rất đáng tiếc công tác tổng kết đúc rút kinh nghiệm thực tiễn giải quyết tranh chấp này hầu như chưa được các bên, cơ quan các cấp, thực hiện nghiêm túc. Nó chưa trở thành ý chí của các bên liên quan. Với các nhà nghiên cứu thì vấn đề này chưa được tìm tòi, nghiên cứu một cách đầy đủ, với các doanh nghiệp thì không nỗ lực hết mình tham gia đóng góp ý kiến, xây dựng, với Nhà nước thì chưa có sự quan tâm một cách thích đáng đến vấn đề này. Hi vọng trong tương lại với kiến nghị và nhận xét trên, mong rằng vấn đê này sẽ được quan tâm đầy đủ hơn.
Thứ chín, Nghiên cứu, tiếp thu pháp luật và thông lệ quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong quá trình xây dựng pháp luật trong nước để tiến tới hài hòa pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế. Trong xu thế khu vực hóa toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, các quốc gia không thể bó hẹp phạm vi hoạt động kinh tế trong nội bộ quốc gia mình mà buộc phải mở rộng sự liên kết theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ thương mại trong khu vực và trên thế giới. Chính quá trình hội nhập này đặt ra yêu cầu mỗi quốc gia phải đổi mới hệ thống pháp luật của mình sao cho vừa đảm bảo tính đặc thù của mỗi quốc gia, vừa phù hợp với sự phát triển chung của thế giới về pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện và không thể đứng ngoài xu thế chung của thế giới. Vì vậy chúng ta cần nghiên cứu, tiếp thu pháp luật và thông lệ quốc tế về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Để tiếp thu những ưu điểm hợp lý phổ biến một cách chọn lọc để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng của Việt Nam tương đồng với pháp luật và thông lệ quốc tế. Tạo điều kiện hấp dẫn hơn cho pháp luật và thiết chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng của Việt Nam, góp phần thu hút các doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam.
KẾT LUẬN
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng là vấn đề mang tính chất thời sự. Việc nghiên cứu một cách tổng quát, toàn diện vấn đề này giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn về lý luận cũng như thực tiễn tranh chấp thương mại và giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Lý luận về vấn đề này ở nước ta hiện nay còn nhiều điều cần tiếp tục hoàn thiện.
Luận văn đã phân tích rõ ràng về tranh chấp thương mại từ đó đi sâu tìm hiểu các cách giải quyết tranh chấp thương mại mà cụ thể là giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng. Qua đó, có cái nhìn khái quát về thực trạng pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở nước ta hiện nay; Phân tính, đánh giá những ưu điểm và tồn tại của hệ thống này; Nêu thực trạng tình hình thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng ở nước ta. Trên cơ sở đó đưa ra một số nhận xét về những vấn đề bất cập của hệ thống pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương luợng, nhận xét nguyên nhân của những bất cập đó để có những định hướng, kiến nghị nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng của nước ta.
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại nói chung và pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng nói riêng. Góp phần tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển lành mạnh, khuyến khích các cá nhân, doanh nghiệp trong nước và quốc tế an tâm kinh doanh, đầu tư, góp vốn phát triển kinh tế, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng còn thể hiện nhiều khiếm khuyết. Thực tiễn giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng còn nhiều bất cập, yếu kém về kinh nghiệm, năng lực giải quyết. Điều này gây ra những thiệt thòi cho doanh nghiệp cũng như môi truờng, đầu tư, kinh doanh của nước ta.
Những kiến nghị đưa ra nhằm góp phần tiếp tục hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng, như để nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Vấn đề này cần xuất phát trên cơ sở các yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và phải đặt trong tổng thể yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Để quá trình hoàn thiện pháp luật cũng như pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng thực sự có hiệu quả thì cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các doanh nghiệp, cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong giai đoạn hiện nay, các quốc gia luôn trong xu thế cạnh tranh trong việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho vấn đề thu hút các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài vào làm ăn tại nước ta. Vì thế, việc xây dựng một hệ thống pháp luật cởi mở, thông thoáng,, một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng hiệu quả và phù hựp với thông lệ quốc tế sẽ là cơ sở tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn đối với các nhà đầu tư kinh doanh nước ngoài vào làm ăn tại Việt Nam và là tiền đề để Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Việc hoàn thiện khung Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng là yêu cầu cần thiết trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là mục tiêu trong chương trình xây dựng và hoàn hiện pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Có thể khẳng định rằng, Nhà nước ta đã có sự quan tâm nhất định trong vấn đề này, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên như thế vẫn là chưa đủ. Mong rằng vấn đề này sẽ được quan tâm nhiều hơn. Nó phải trở thành ý chí của các bên liên quan. Ý chí của các nhà nghiên cứu là nghiên cứu và kiến nghị thành quả đó đi vào thực tiễn chứ không chỉ dừng lại ở hội thảo. Và ý chí của các thương nhân, doanh nghiệp, đối tượng trực tiếp tham gia phải nỗ lực tìm tòi có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu và áp dụng thực tiễn nó. Và quan trọng là ý chí của chủ thể Nhà nước, Nhà nước cần chú trọng hơn nữa vấn đề này, cần lắng nghe và không ngừng hoàn thiện xây dựng pháp luật phù hợp với thực tiễn áp dụng. Vì vậy, chúng ta có thể tin rằng, trong tương lai những khiếm khuyết, bất cập về giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng hôm nay sẽ được khắc phục, góp phần vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế của đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh./.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links