Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Lời mở đầu 4
Chương I. Cơ sở lý luận về định giá doanh nghiệp 5
1.1. Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp 5
1.1.1. Lý thuyết chung về doanh nghiệp 5
1.1.2. Giá trị doanh nghiệp 5
1.2. Định giá doanh nghiệp là gì 6
1.3. Sự cần thiết phải định giá doanh nghiệp 7
1.4. Các nhân tố tác động đến giá trị doanh nghiệp 8
1.4.1. Yếu tố thuộc môi trường vĩ mô 9
1.4.2. Các yếu tố thuộc môi trường ngành 10
1.5. Các phương pháp định giá doanh nghiệp 12
1.5.1. Phương pháp định giá doanh nghiệp theo tài sản 13
1.5.1.1. Khái niệm 13
1.5.1.2. Đối tượng áp dụng 13
1.5.1.3. Quy trình định giá doanh nghiệp theo phương pháp tài sản 13
1.5.1.4. Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản 16
1.5.1.5. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp tài sản 20
1.5.2. Phương pháp định giá doanh nghiệp theo dòng tiền chiết khấu 22
1.5.2.1. Khái niệm 22
1.5.2.2. Đối tượng áp dụng 22
1.5.2.3. Căn cứ xác định 22
1.5.2.4. Công thức xác định 22
1.5.2.5. Ưu điểm và nhược điểm phương pháp DCF 25
1.5.3. Các phương pháp khác 27
1.5.3.1. Phương pháp lợi nhuận 27
1.5.3.2. Phương pháp chiết khấu cổ tức trong tương lai 28
1.5.3.3. Phương pháp hệ số giá trên thu nhập (P/E) 28
Chương II. thực trạng công tác định giá doanh nghiệp tại công ty kim khí Hà Nội 30
2.1. Vài nét khái quát về công ty 30
2.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển 30
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm kinh doanh của công ty 30
2.1.2.1. Chức năng 30
2.1.2.2. Nhiệm vụ 31
2.1.2.3. Đặc điểm kinh doanh của công ty 31
2.1.2.4. Mạng lưới kinh doanh của công ty 32
2.1.3. Tổ chức quản lý của công ty 34
2.2. Thực trạng định giá tại công ty kim khí Hà Nội 36
2.2.1. Căn cứ xác định 36
2.2.2. Hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp 38
2.2.3. Xác định giá trị doanh nghiệp công ty kim khí Hà Nội 39
2.2.3.1. Nguyên tắc định giá 41
2.2.3.2. Phương pháp tính (Phương pháp tài sản) 43
2.2.4. Nhận xét công tác định giá doanh nghiệp tại công ty kim khí Hà nội 51
2.2.4.1. Nguyên nhân tăng giảm tài sản trong ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội
51
2.2.4.2. Kết quả đạt được 55
2.2.4.3. Một số hạn chế 56
2.2.5. Nhận xét chung về quy chế ĐGDN của Nhà nước 57
Chương III. Giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội 60
3.1. Phương hướng phát triển của công ty 60
3.1.1. Mục tiêu, kế hoạch 60
3.1.1.1. Mục tiêu 60
3.1.1.2. Kế hoạch kinh doanh của công ty sau CPH 60
3.1.2. Phương hướng phát triển của công ty 61
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội 62
3.3. Kiến nghị với Nhà nước 66
Kết luận 69
Tài liệu tham khảo 70
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển hướng tới một nền kinh tế thị trường và từng bước CNH-HĐH. Quá trình này đã đặt ra những yêu cầu rất cấp bách đối với những DN trên nhiều lĩnh vực như vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, sức cạnh tranh.
Cũng trong xu thế vận động của nền KTTT, các hoạt động sáp nhập, mua lại, hợp nhất hay thành lập các liên doanh... thường diễn ra một cách thường xuyên. Cơ sở nền tảng của các hoạt động này đều dựa vào các kết quả đánh giá và xác định GTDN. Đồng thời, các kết quả đánh giá vể triển vọng của DN cũng là cơ sở cho các tổ chức, các cá nhân và công chúng đầu tư ra quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán do DN phát hành trên các thị trường tài chính.
Khi nền KTTT phát triển đến một trình độ nhất định, DN cũng trở thành một loại hàng hoá, và khi nhu cầu mua bán, đầu tư rộng rãi trên thị trường thì hoạt động Định giá DN cũng trở nên sôi nổi và ngày càng được chú trọng.
Tiến hành ĐGDN là đi xác định giá trị thực tế của DN. Gía trị thực tế của DN là giá trị của toàn bộ tài sản hiện có của DN mà có tính đến khả năng sinh lời của DN trong tương lai.
Không nằm ngoài xu thế vận động của nền KTTT, công ty Kim khí Hà Nội gần đây cũng tiến hành xác định GTDN khi CPH công ty. Trong quá trình định giá,công ty dã gặp một số khó khăn trong lựa chọn phương pháp định giá,kiểm kê phân loại tài sản, xác định nguyên giá, chất lượng còn lại của tài sản...Những khó khăn này khiến công tác định giá DN không được tiến hành nhanh chóng, kết quả tính thiếu chính xác. Vì vậy, trong quá trình thực tập tại công ty, em đã nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện công tác định giá DN tại công ty kim khí Hà Nội” mong được góp một phần nhỏ bé để nâng cao chất lượng ĐGDN cho công ty, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các chủ thể quan tâm đến kết quả định giá.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về ĐGDN
Chương II: Thực trạng công tác ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN
Chương I : Cơ sở lý luận về định giá doanh nghiệp
1.1.Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp.
1.1.1.Lý thuyết chung về doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thuật ngữ chỉ các tổ chức kinh tế, một tổ chức kinh tế chỉ được gọi là doanh nghiệp nếu nó được thừa nhận về mặt pháp luật trên một số tiêu chuẩn nào đó. Pháp luật các quốc gia thường xây dựng tiêu chuẩn về : mức vốn tối thiểu, mục tiêu hoạt động, ngành nghề kinh doanh, địa điểm kinh doanh và tư cách công dân đứng ra kinh doanh, để từ đó Nhà nước có cơ sở trao cho những tổ chức kinh tế này những quyền lợi và nghĩa vụ trên một tư cách mới đó là doanh nghiệp.
Theo luật doanh nghiệp số 13/1999/QH10 ngày 12 tháng 6 năm 1999 của nước CHXHCN Việt Nam thì: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Xét theo mục tiêu hoạt động, người ta chia doanh nghiệp thànhN kinh doanh và DN công ích.
DN kinh doanh là DN hoạt động chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận
DN công ích chủ yếu là DN Nhà nước, hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà Nước hay trực tiếp thực hiện nhiệm vụ Quốc phòng, an ninh.
Bản thân thuật ngữ DN khi ra đời đã hàm chứa một điều là nó lập ra để kinh doanh, để tìm kiếm thu nhập, tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu. Chính vì vậy, trong chuyên đề này em chỉ nghiên cứu DN ở loại hình DN kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận.
1.1.2 Giá trị doanh nghiệp
DN là một tổ chức kinh tế chứ không giống như nhiều TS thông thường. Nó là một thực thể hoạt động, thông qua sự hoạt động đó mà người ta nhận ra DN. Mặt khác, DN không phải là tập hợp các loại TS vào với nhau, khi thực hiện phá sản, DN không còn tồn tại với tư cách của một tổ chức kinh doanh nữa. Do vậy, GTDN là một khái niệm chỉ được dùng cho những DN đang còn hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
DN là một hệ thống của nhiều TS, mà trong số đó có TS hữu hình như: nhà xưởng, thiết bị vật tư, đồng thời cũng có các TSVH như: lợi thế thương mại, giá trị bản quyền,... Đây là một đặc điểm quan trọng cần lưu ý trong quá trình định giá do không thể nhận biết một cách trực quan, các TSVH có thể bị lãng quên hay bỏ qua. Ngoài ra, việc đánh giá giá trị tạo nên bởi các TSVH nói chung khó khăn hơn giá trị tạo nên bởi TSHH.
Bản thân các yếu tố tạo nên giá trị của một DN luôn có sự thay đổi, luôn có sự tăng hay giảm, có sự xuất hiện hay biến mất của một số yếu tố nào đó. Chính vì vậy, GTDN luôn thay đổi theo thời gian, giá trị của DN là một khái niệm động.
Hơn nữa, do hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực khác nhau, mỗi DN thường có những đặc thù riêng. Và do đó trên nhiều phương diện, giữa các DN thường có những sự khác biệt lớn đặc biệt là DN thuộc các ngành khác nhau. Vì thế, giá trị DN cần được xác định trên cơ sở xem xét các yếu tổ đặc thù của từng ngành.
Các nhà đầu tư thành lập ra DN không nhằm vào việc sở hữu các TSCĐ, TSLĐ mà nhằm vào mục tiêu chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận, tìm kiếm thu nhập. Vì vậy, tại các nước có nền KTTT, GTDN được xác định là các khoản thu nhập trong quá trình sản xuất kinh doanh, theo đó, GTDN được đo bằng lượng thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư.
Tóm lại, GTDN là sự biểu hiện bằng tiền về các khoản thu nhập mà DN mang lại cho các nhà đầu tư trong quá trình sản xuất kinh doanh.
1.2. Định giá doanh nghiệp là gì?
Mỗi một hàng hoá có một giá trị nhất định của nó. Giá trị này là kết tinh của hao phí sức lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Chất của giá trị là lao động. Vì vậy, sản phẩm nào không có sức lao động được kết tinh trong đó thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào mà hao phí sức lao động sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
DN cũng là một loại hàng hoá, và nó cũng có giá trị nhất định bởi cũng phải mất rất nhiều hao phí lao động thì mới có thể tạo dựng được nên một DN.
GTDN là một khái niệm cơ bản khác với giá bán DN trên thị trường.GTDN được đo bằng độ lớn của các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư. Giá bán thực tế DN là mức giá được hình thành trên thị trường,có thể có khoảng cách rất xa so với đánh giá của các chuyên gia kinh tế và các nhà đầu tư. Giá mua, bán DN còn chịu sự tác động của các yếu tố về cung cầu “hàng hoá DN”, cung cầu về chứng khoán và cung cầu về tiền tệ trên thị trường.
GTDN vẫn tồn tại ngay cả khi không có việc mua bán, chuyển nhượng. GTDN chỉ đơn giản là một khái niệm được các nhà đầu tư, các chuyên gia sử dụng trong việc đánh giá tổng thể các khoản thu nhập mà DN có thể đem lại. Để xác định GTDN thường đòi hỏi các chuyên gia về thẩm định giá trị có kiến thức, có kinh nghiệm, có tính trung thực cao trong nghề nghiệp, có như vậy mới đảm bảo được tính trung thực, vô tư, khách quan, hạn chế sự chi phối của yếu tố thị trường làm xuyên tạc GTDN.
ĐGDN tức là xác định giá trị thực tế của DN. Giá trị thực tế của DN là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của DN có tính đến khả năng sinh lời trong tương lai của DN. Giá trị thực tế này được xác định trên cơ sở giá thị trường và chất lượng của tài sản tại thời điểm định giá. Trong đó giá trị thị trường là giá cả được hình thành trên thị trường, được thị trường chấp nhận trên cơ sở cân bằng của quan hệ cung-cầu.
1.3. Sự cần thiết phải ĐGDN
Có thể nói, dường như mỗi quyết định ở tầm vĩ mô cũng như vi mô về phát triển sản xuất kinh doanh đều ít nhiều liên quan đến việc ĐGDN. Việc đề ra các quyết định này luôn là công việc thường nhật của từng DN, trong từng ngành và giữa các khu vực của nền kinh tế,trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Sự cần thiết của ĐGDN xuất phát từ những đòi hỏi sau:
Thứ nhất: Giá trị của DN là cơ sở đầu tiên và quan trọng để ra các quyết định có tính chiến lược cấp DN về:
Lựa chọn loại hình kinh doanh, lựa chọn sản phẩm hay dịch vụ mà DN có hay sẽ có thế mạnh
Lựa chọn công nghệ sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ đã chọn, tổ chức nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
Đầu tư hay giải tư như: góp vốn liên doanh, liên kết, cổ phần hoá DN, khoán, cho thuê, sáp nhập hay giải thể, chia tách DN và chuyển nhượng quyền sở hữu (bán DN).
Đối với hoạt động mua bán, sáp nhập, hợp nhất hay chia tách DN, đây là loại giao dịch diển ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Nó phản ánh các nhu cầu đi tìm nguồn tài trợ cho sự tăng trưởng và phát triển bằng các yếu tố bên ngoài, làm gia tăng một cách nhanh chóng tiềm lực tài chính, nhằm tăng cường khả năng tồn tại trong môi trường tự do cạnh tranh đối với các DN. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá trên một phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động đến DN, trong đó, GTDN là yếu tố có tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để người ta thương thuyết với nhau trong quá trình mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ DN. Đồng thời, khi thị trường chứng khoán VN phát triển thì nhu cầu ĐGDN càng trở nên cấp thiết.
Thứ hai: Khi DN phát hành chứng khoán, nhằm thu hút vốn trên thị trường, người ta cần xác định GTDN, có như vậy mới tính toán được số lượng cần thiết cho mỗi lần phát hành chứng khoán. Mặt khác, giá cả của chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của DN có chứng khoán được giao dịch, trao đổi trên thị trường. Vì vậy, trên thị phương diện quản lý vĩ mô, thông tin về GTDN được coi là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh CK kịp thời nhận ra sự biến động không bình thường của giá chứng khoán, nhận ra những dấu hiệu của hoạt động đầu cơ, thao túng thị trường, động cơ thâu tóm quyền kiểm soát DN, để từ đó sớm có những biện pháp cần thiết để ngăn chặn mối nguy cơ xảy ra khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ hiện tượng của một nền “kinh tế ảo”.
Thứ ba: Đối với các chủ nợ, các nhà đầu tư tiềm năng, các ngân hàng cho vay vốn, ĐGDN làm cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư và các quyết định cho vay. Một DN có cơ sở tài chính vững mạnh, có những cơ hội phát triển trên thị trường sẽ tạo tiền đề cho việc thu hút vốn đầu tư mở rộng hoạt động công ty. Ngược lại, một DN được định giá thấp sẽ có thể bị nhà đầu tư bỏ qua khi không quyết định đầu tư vốn và sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn để mở rộng sản xuất.
Thứ tư: Ở cấp vĩ mô, giá trị của DN là một thông tin quan trọng để Chính phủ có thể đánh giá năng lực sản xuất hiện tại và tương lai của một ngành và của toàn bộ nền kinh tế, nhờ đó để đưa ra các chiến lược phát triển phù hợp.
Tất cả những nhận định trên có thể kết luận ĐGDN là nhu cầu cấp bách và thường xuyên, do vậy cần xây dựng được một hệ thống các phương pháp và tiêu chuẩn để hỗ trợ cho công tác ĐGDN này.
1.4. Các nhân tố tác động đến GTDN
Mỗi DN đều hoạt động trong những điều kiện cụ thể nào đó của môi trường kinh doanh. Các yếu tố môi trường tạo thành những tác lực tác động và hình thành những điều kiện ràng buộc, cưỡng chế đối với DN. Bởi vậy, khi tiến hành ĐGDN cần đánh giá những hoạt động của DN trong sự tương tác với môi trường, giữa tình hình hiện tại và tương lai của môi trường. Trên cơ sở đó xác định những cơ hội và nguy cơ mà môi trường có thể đem lại cho DN. Xuất phát từ những ý nghĩa nêu trên ta nghiên cứu các nhân tố tác động đến GTDN trên hai phạm vi là: các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô và các yếu tố thuộc môi trường vi mô.
1.4.1. Yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
- Môi trường kinh tế_xã hội
DN luôn tồn tại trong một bối cảnh kinh tế cụ thể. Bối cảnh kinh tế đó được nhìn nhận thông qua hàng loạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất, các chỉ số trên thị trường chứng khoán… Các chỉ tiêu này tác động trực tiếp vào DN hay GTDN. Mỗi sự thay đổi nhỏ của các yếu tố trên cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về DN. Nền kinh tế luôn tăng trưởng với tốc độ cao, phản ánh nhu cầu đầu tư và tiêu dùng ngày càng lớn, chỉ số giá chứng khoán phản ánh đúng quan hệ cung cầu, đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi suất có tính kích thích đầu tư sẽ trở thành cơ hội tốt cho DN mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguợc lại, sự suy thoái kinh tế, giá chứng khoán bị thổi phồng mang dấu hiệu “ kinh tế ảo”, lạm phát phi mã là những dấu hiệu xấu đối với DN. Mọi sự đánh giá về DN, trong đó có GTDN sẽ bị đảo lộn.
Những thay đổi trong môi trường xã hội có thể tạo ra những cơ hội và nguy cơ đối với DN. Chẳng hạn, sự thay đổi về phong cách tiêu dùng của người dân, sự thay đổi về cơ cấu dân cư, tuổi thọ,… có thể là cơ hội cho một số DN này, song có thể là nguy cơ đối với DN khác.Ví dụ, khi có quy định cấm hút thuốc lá ở nơi công cộng, có thể là nguy hại cho ngành sản xuất thuốc lá, ngược lại, khi đời sống của người dân được nâng cao, tuổi thọ trung bình tăng thì xuất hiện nhiều cơ hội cho các DN trong ngành chăm sóc sức khoẻ.
Bởi vậy, khi ĐGDN cần xem xét các yếu tố dân cư, tuổi thọ, mức sống, phong cách sống, phong cách tiêu dùng và những tác động của nền kinh tế đối với hoạt động kinh doanh DN. Thông qua nghiên cứu các tiêu thức này có thể xác định tiềm năng phát triển của DN.
- Môi trường chính trị_Pháp luật
Sản xuất kinh doanh chỉ có thể ổn định và phát triển trong một môi trường ổn định về chính trị ở một mức độ nhất định. Sự bất ổn về chính trị, những cuộc bạo động…đều là những nguy cơ gây ra rủi ro lớn cho DN.
Hơn nữa, chính sách phát triển của một quốc gia thường có vai trò định hướng, chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế xã hội, trong đó có các hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, nếu Chính phủ chú trọng phát triển các ngành công nghệ cao thì những DN trong ngành này sẽ có nhiều cơ hội phát triển.Ngược lại, nếu CP chú trọng bảo vệ môi trường tự nhiên thì ngành sản xuất có nhiều chất thải, ô nhiễm môi trường như ngành giấy, dệt,…sẽ chịu sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan bảo vệ môi trường. Hay những rào cản pháp lý như: các đạo luật, chính sách bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, bảo vệ sự cạnh tranh tự do, chống độc quyền… có thể tạo ra cơ hội cho một nhóm DN này, song cũng có thể tạo ra những đe doạ với nhiều DN khác.
Như vậy, khi đánh giá DN cần xem xét tác động của yếu tố chính trị _ pháp luật đối với đối tượng định giá ở thời điểm hiện tại và tương lai. Đồng thời, cũng cần xem xét những đối sách mà DN dự kiến sẽ áp dụng khi các yếu tố môi trường chính trị _pháp luật thay đổi.
- Môi trường công nghệ
Những tiến bộ về công nghệ có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống, và trong DN, tiến bộ công nghệ đã diễn ra các khuynh hướng sau:
Chu kỳ đổi mới công nghệ ngày càng ngắn hơn, nên tốc độ biến các ý tưởng thành các sản phẩm thương mại ngày càng nhanh hơn.
Vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn hơn, do chu kỳ đổi mới công nghệ ngày càng ngắn nên các DN có thể liên tục tung ra thị trường những sản phẩm mới, sản phẩm cải tiến. Do đó, ngày nay các sản phẩm có thể bị lạc hậu rất nhanh chóng.
Trên bình diện xã hội, tiến bộ công nghệ là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh nhân loại. Song trên giác độ DN trong cơ chế thị trường, đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của mỗi DN. Sự thiếu nhạy bén trong việc áp dụng những thành tựu khoa học mới có thể là nguyên nhân đưa DN mau chóng đến chỗ phá sản. Chính vì lẽ đó, ĐGDN đòi hỏi phải xem xét chúng trong môi trường khoa học công nghệ.
Ở trong ví dụ này, chúng ta mặc nhiên chấp nhận việc sử dụng những số liệu quá khứ đối với phần lợi nhuận thặng dư để đưa vào GTDN
Ưu điểm phương pháp
Phương pháp này khắc phục được nhược điểm của 2 phương pháp trên là phương pháp tài sản và phương pháp chiết khấu dòng tiền vì nó cho phép định giá GTDN dưới cả hai góc độ giá trị tài sản và lợi nhuận của DN. Nó đồng thời xem xét đến cả hai khía cạnh lợi ích kinh tế của cả người mua và người bán
Phương pháp này cũng tạo ra khả năng bù trừ các sai sót có thể xảy ra khi xác định GTDN theo từng phương pháp đơn lẻ nêu trên:
+ Với phương pháp định giá theo tài sản: Khi đánh giá tài sản, khó khăn xảy ra khi có những thay đổi về công nghệ ảnh hưởng tới giá trị của tài sản, cũng như khi chúng ta đánh giá những tài sản đặc biệt, những tài sản chuyên dụng với những thông tin thị trường hết sức cùng kiệt nàn về chúng. Thêm vào đó, giá trị thị trường hợp lý thể hiện ra ngoài của tài sản không phản ánh được khả năng tạo ra lợi nhuận của chúng, thậm chí có sự khác biệt đáng kể. Vì vậy, GTDN được xác định theo phương pháp này, nếu được công nhận là tương đối chính xác thì cũng chỉ là sự chính xác trên mức độ của những nhận định chủ quan mà thôi.
+ Với phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF): sẽ là một mức độ phỏng đoán cao những thông tin trong tương lai trong điều kiện mà yếu tố thị trường là không chắc chắn, ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của DN, và thêm những bất định nữa trong việc dự tính được một tỷ lệ chiết khấu hợp lý trong điều kiện những thay đổi của nền kinh tế. Trong thực tế hoàn cảnh như vậy, rõ ràng một mức giá DN đưa ra cũng mang tính chính xác tương đối mà thôi.
Hạn chế: Phương pháp này đòi hỏi phải tính toán nhiều hơn so với 2 phương pháp trên, mất nhiều thời gian và công sức hơn để đưa ra được cả giá trị tài sản cũng như tính toán được giá trị khả năng sinh lời. Hơn nữa, những số liệu để tính toán tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn bình quân của các DN cùng ngành không phải là điều dễ dàng. Một loạt các vấn đề sẽ xuất hiện khi còn có những DN ngoài khu vực, những DN kinh doanh đa dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đối tượng áp dụng: đặc biệt thích hợp với những DN có giá trị tài sản lớn cũng như khả năng thu lợi nhuận siêu ngạch (giá trị tài sản vô hình) cao, đó là những DN đang nằm trong định hướng phát triển của nhà nước, được hưởng những ưu đãi đặc biệt về giá, thuế... mà việc áp dụng phương pháp định giá dựa trên khả năng sinh lời đối với chúng còn có những hạn chế nhất định.
Thứ hai: Công ty phải tính giá trị tài sản vô hình vào giá trị của DN, có thể tiến hành tính giá trị tài sản vô hình theo cách tính goodwill. Phương pháp GW là một trong những phương pháp tính giá trị tài sản vô hình được công nhận như là phương pháp hoàn hảo nhất vì nó kết hợp các giá trị theo tài sản và theo giá trị năng suất,coi DN không chỉ về mặt công nghiệp hay kinh tế mà còn về mặt tài chính và có sự phân chia trong tương lai khi xác định giá bán DN
Công thức:
n Rt - rAt
GW = ∑
t=1 (1+i)t
Trong đó:
Tt: Khoản thu năm t
r: Tỷ suất lợi nhuận bình thường của tài sản
i: Tỷ suất hiện tại hoá
n: Số năm nhận được khoản thu
Tỷ suất hiện tại hoá phản ánh chi phí vốn, rủi ro trong kinh doanh, rủi ro tài chính và rủi ro thanh khoản của DN.
Tỷ suất hiện tại hoá = f(tỷ suất cơ bản, rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro thanh khoản, rủi ro gắn với thị trường...)
Thứ ba: Kiện toàn bộ máy kế toán DN: Khi ĐGDN, tổ chức định gía thường dựa vào số liệu trên sổ sách kế toán để làm cơ sở xác định giá trị tài sản DN, nên số liệu có chính xác thì kết quả xác định mới phản ánh chính xác. Kiện toàn bộ máy kế toán thể hiện ở việc nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên kế toán trong DN, chủ động xử lý các tồn tại tài chính chứ không chờ đến thời điểm CPH mới làm, gây mất thời gian cho công tác định giá.
3.3. Kiến nghị với Nhà nước
Thứ nhất: Thông tin cung cấp trong quá trình định giá phải có độ tin cậy nhất định
Các phương pháp định giá thường đòi hỏi phải có một khối lượng lớn thông tin được cung cấp. Do công việc định giá DN là một việc làm phức tạp, và khá mới mẻ ở nước ta nên thông tin cung cấp càng nhiều càng tốt, song thông tin đó phải có độ tin cậy ở một mức độ nhất định. Đối với các chuyên gia, thông tin có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau, đòi hỏi về mặt xử lý thông tin. Ở Việt Nam hiện nay, các thông tin quan trọng và cần thiết cho công tác xác định GTDN như hệ số tín nhiệm, các chỉ số tài chính trung bình ngành và các chỉ số chứng khoán thì Việt Nam chưa đáp ứng được. Loại thông tin này được công bố, trong nhiều trường hợp, sẽ giúp các chuyên gia định giá không phải sa vào một ma trận các loại thông tin, mà vẫn ước lượng được các tỷ lệ rủi ro và GTDN một cách nhanh chóng. Nó góp phần làm giảm đi tính “nghệ thuật”,tính chủ quan cũng như sự hạn chế về trình độ của người định giá. Chính vì vậy,để không phải mò mẫm với những mớ thông tin được cung cấp, trong chuyên đề này em có kiến nghị:
- Chính phủ cần cho phép thành lập các công ty chuyên xếp hạng và đánh giá hệ số tín nhiệm đối với các DN, hay cho phép loại công ty này của nước ngoài được hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
- cần gấp rút bổ sung thêm vào hệ thống số liệu thống kê của Nhà nước các chỉ tiêu tài chính trung bình ngành. Nó bao gồm khoảng 18 chỉ tiêu mà chuyên gia định giá có thể sử dụng khi chưa có hệ số tín nhiệm. Đòi hỏi này về cơ bản là có thể làm được ngay bằng cách dựa trên các Bảng cân đối kế toán, Báo cáo thu nhập và Báo cáo kiểm toán.
-Thúc đẩy nhanh sự phát triển của Thị trường chứng khoán
TTCK phát triển sẽ chỉ ra giá thị trường của DN hàng ngày trên bảng điện tử. Đó là một thông tin quan trọng để đối chiếu với sự đánh giá của chuyên gia về GTDN có chứng khoán niêm yết và giao dịch trên TTCK. Ngoài ra, giá cả của chứng khoán cũng là một cơ sở quan trọng để người ta định giá các DN có những điều kiện tương tự nhưng không có chứng khoán được niêm yết.
Thứ hai: Tổ chức định giá phải chuyên nghiệp và có trình độ
Trước đây, việc xác định GTDN chủ yếu do các hội đồng ĐGDN của các Bộ, ngành , địa phương, Tổng công ty thực hiện. Dần dần, các hội đồng này được thay thế bằng các tổ chức tài chính trung gian như công ty kiểm toán,công ty chứng khoán, trung tâm thẩm định giá...Việc sử dụng các tổ chức tài chính trung gian xác định GTDN có tác dụng hạn chế sự can thiệp của các cơ quan hành chính Nhà nước, nâng cao tính công khai, minh bạch và tính chuyên nghiệp trong hoạt động định giá, nâng cao trách nhiệm của thay mặt chủ sở hữu vốn Nhà nước tại DN.
Trên thực tế, lĩnh vực định giá DN còn mới mẻ cả về lý thuyết và thực hành. .Một vấn đề đáng băn khoăn hiện nay là các tổ chức tài chính trung gian chưa đáp ứng đủ khả năng xác định GTDN. Việc xác định giá trị giữa công ty kiểm toán và tổng công ty vênh nhau khá lớn do các công ty kiểm toán chỉ căn cứ vào số liệu sổ sách trong khi DN còn rất nhiều lợi thế chưa được tính tới.Để lựa chọn các tổ chức định giá DN phù hợp, có năng lực thực sự và bảo đảm tính đúng đắn kết quả trong việc định giá DN là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc xác định GTDN Muốn vậy, cần có cơ chế quy định cụ thể tiêu chuẩn của một tổ chức được lựa chọn để thực hiện việc định giá DN. Tổ chức đó trước hết phải có đội ngũ cán bộ về số lượng chuyên gia,có trình độ chuyên môn nhất định,có kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Những tổ chức định giá phải đảm bảo đủ những tiêu chuẩn đó thì tổ chức định giá DN mới chất lượng và có độ tin cậy cao. Thực tế hiện nay việc lựa chọn và chỉ định các tổ chức vẫn chủ yếu dựa vào định tính, chưa dựa trên những tiêu chuẩn định lượng cụ thể để lựa chọn. Do đó,có nhiều tổ chức được chọn trong danh sách để thực hiện việc định giá DN chưa thực sự có đủ năng lực chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp để thực hiện một cách có hiệu quả và chuẩn xác kết quả định giá của DN. Đó là còn chưa kể đến cơ chế kiểm tra các đơn vị tham gia thực hiện việc xác định GTDN như quy trình hoạt động, chất lượng chuyên môn, nhân sự...chưa có. Vì những lý do nêu trên, Nhà nước cần thực hiện tốt vai trò của mình trên các mặt:
-Tổ chức đào tạo gấp một đội ngũ các nhà Thẩm định giá bao gồm các kiến thức về: Lý thuyết đầu tư, tài chính doanh nghiệp, kế toán, kiểm toán, phân tích tài chính, thị trường chứng khoán và toán xác suất thống kê.
- Cần có sự phân biệt các lớp đào tạo chuyên sâu về kiến thức chuyên ngành cho đội ngũ nói trên. Vì thực tế, nhà thẩm định giá không thể nắm vững các khía cạnh kỹ thuật phong phú của nhiều ngành.
Thứ ba:Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn về xác định GTDN, nhằm giúp công tác ĐGDN diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và kết quả tính chính xác.
Thứ 4: Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế định giá và bán cổ phần theo hướng gắn với thị trường và đảm bảo khách quan, minh bạch. Trong đó cần bổ sung các quy định mang tính chuẩn mực trong công tác định giá (đặc biệt là đối với đất, tài sản đầu tư dài hạn và giá trị lợi thế kinh doanh trong DN, giá trị các tổng công ty), xoá bỏ cơ chế định giá theo hội đồng để chuyển sang thực hiện công tác định giá qua định chế trung gian (để nâng cao tính chuyên nghiệp và đảm bảo tính khách quan): đẩy mạnh phân cấp về thẩm quyền lựa chọn tổ chức định giá, thẩm tra và quyết định công bố, điều chỉnh giá trị DN cho các bộ;đồng thời khẳng định GTDN được xác định chỉ là cơ sở để xác định quy mô vốn điều lệ và giá khởi điểm để thực hiện đấu giá bán cổ phần, giá trị thực tế của DN CPH sẽ được xác định thông qua kết quả đấu giá. Về bán cổ phần, cần thực hiện cơ chế bán cổ phần qua đấu giá, xoá bỏ cơ chế bán cổ phần theo giá sàn và bán cổ phần lại trả chậm, thực hiện các giải pháp để thực hiện CPH với việc phát triển thị trường vốn, nâng cao tính khách quan, minh bạch trong hoạt động bán cổ phần để khắc phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ DN.
Kết luận
Quá trình CPH ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra nhanh chóng và sôi nổi, đã có nhiều văn bản hướng dẫn của Nhà nước về hướng dẫn xác định GTDN để tiến trình CPH được đẩy nhanh.Tuy nhiên, đến nay vướng mắc trong xác định giá trị DN là vấn đề lợi thế kinh doanh, lợi thế địa lý, giá trị thương hiệu và nhất là vấn đề đất đai. Khó khăn ở chỗ, các yếu tố này rất khác nhau giữa các địa phương, giữa các DN thuộc lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, nên không thể có một văn bản chung để hướng dẫn.Vì vậy, trong triển khai thực hiện thường là không thống nhất giữa các nơi,các thời điểm. Đã có tình trạng giá trị quyền sử đụng đất, giá trị trang thiết bị, giá trị lợi thế bị đánh giá quá cao,hay quá thấp, dẫn đến những khó khăn không đáng có sau chuyển đổi.
Trong thời gian thực tập tại công ty Kim khí Hà Nội, với những kiến thức đã được học trên ghế nhà trường cùng với sự quan tâm giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn - Tiến sĩ: Đặng Ngọc Đức, Ban lãnh đạo cùng các cô chú phòng Tài chính- kế toán, em đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp tại Công ty Kim khí Hà Nội
Do trình độ và thời gian thực tập có hạn, chắc chắn cuốn chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô giáo, các cán bộ phòng Tài chính_kế toán và các bạn.
Một lần nữa em xin chân thành Thank sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo-Tiến sĩ: Đặng Ngọc Đức đã giúp em hoàn thành cuốn chuyên đề này.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Lời mở đầu 4
Chương I. Cơ sở lý luận về định giá doanh nghiệp 5
1.1. Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp 5
1.1.1. Lý thuyết chung về doanh nghiệp 5
1.1.2. Giá trị doanh nghiệp 5
1.2. Định giá doanh nghiệp là gì 6
1.3. Sự cần thiết phải định giá doanh nghiệp 7
1.4. Các nhân tố tác động đến giá trị doanh nghiệp 8
1.4.1. Yếu tố thuộc môi trường vĩ mô 9
1.4.2. Các yếu tố thuộc môi trường ngành 10
1.5. Các phương pháp định giá doanh nghiệp 12
1.5.1. Phương pháp định giá doanh nghiệp theo tài sản 13
1.5.1.1. Khái niệm 13
1.5.1.2. Đối tượng áp dụng 13
1.5.1.3. Quy trình định giá doanh nghiệp theo phương pháp tài sản 13
1.5.1.4. Xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản 16
1.5.1.5. Ưu điểm và nhược điểm của phương pháp tài sản 20
1.5.2. Phương pháp định giá doanh nghiệp theo dòng tiền chiết khấu 22
1.5.2.1. Khái niệm 22
1.5.2.2. Đối tượng áp dụng 22
1.5.2.3. Căn cứ xác định 22
1.5.2.4. Công thức xác định 22
1.5.2.5. Ưu điểm và nhược điểm phương pháp DCF 25
1.5.3. Các phương pháp khác 27
1.5.3.1. Phương pháp lợi nhuận 27
1.5.3.2. Phương pháp chiết khấu cổ tức trong tương lai 28
1.5.3.3. Phương pháp hệ số giá trên thu nhập (P/E) 28
Chương II. thực trạng công tác định giá doanh nghiệp tại công ty kim khí Hà Nội 30
2.1. Vài nét khái quát về công ty 30
2.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển 30
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm kinh doanh của công ty 30
2.1.2.1. Chức năng 30
2.1.2.2. Nhiệm vụ 31
2.1.2.3. Đặc điểm kinh doanh của công ty 31
2.1.2.4. Mạng lưới kinh doanh của công ty 32
2.1.3. Tổ chức quản lý của công ty 34
2.2. Thực trạng định giá tại công ty kim khí Hà Nội 36
2.2.1. Căn cứ xác định 36
2.2.2. Hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp 38
2.2.3. Xác định giá trị doanh nghiệp công ty kim khí Hà Nội 39
2.2.3.1. Nguyên tắc định giá 41
2.2.3.2. Phương pháp tính (Phương pháp tài sản) 43
2.2.4. Nhận xét công tác định giá doanh nghiệp tại công ty kim khí Hà nội 51
2.2.4.1. Nguyên nhân tăng giảm tài sản trong ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội
51
2.2.4.2. Kết quả đạt được 55
2.2.4.3. Một số hạn chế 56
2.2.5. Nhận xét chung về quy chế ĐGDN của Nhà nước 57
Chương III. Giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội 60
3.1. Phương hướng phát triển của công ty 60
3.1.1. Mục tiêu, kế hoạch 60
3.1.1.1. Mục tiêu 60
3.1.1.2. Kế hoạch kinh doanh của công ty sau CPH 60
3.1.2. Phương hướng phát triển của công ty 61
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội 62
3.3. Kiến nghị với Nhà nước 66
Kết luận 69
Tài liệu tham khảo 70
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển hướng tới một nền kinh tế thị trường và từng bước CNH-HĐH. Quá trình này đã đặt ra những yêu cầu rất cấp bách đối với những DN trên nhiều lĩnh vực như vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, sức cạnh tranh.
Cũng trong xu thế vận động của nền KTTT, các hoạt động sáp nhập, mua lại, hợp nhất hay thành lập các liên doanh... thường diễn ra một cách thường xuyên. Cơ sở nền tảng của các hoạt động này đều dựa vào các kết quả đánh giá và xác định GTDN. Đồng thời, các kết quả đánh giá vể triển vọng của DN cũng là cơ sở cho các tổ chức, các cá nhân và công chúng đầu tư ra quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán do DN phát hành trên các thị trường tài chính.
Khi nền KTTT phát triển đến một trình độ nhất định, DN cũng trở thành một loại hàng hoá, và khi nhu cầu mua bán, đầu tư rộng rãi trên thị trường thì hoạt động Định giá DN cũng trở nên sôi nổi và ngày càng được chú trọng.
Tiến hành ĐGDN là đi xác định giá trị thực tế của DN. Gía trị thực tế của DN là giá trị của toàn bộ tài sản hiện có của DN mà có tính đến khả năng sinh lời của DN trong tương lai.
Không nằm ngoài xu thế vận động của nền KTTT, công ty Kim khí Hà Nội gần đây cũng tiến hành xác định GTDN khi CPH công ty. Trong quá trình định giá,công ty dã gặp một số khó khăn trong lựa chọn phương pháp định giá,kiểm kê phân loại tài sản, xác định nguyên giá, chất lượng còn lại của tài sản...Những khó khăn này khiến công tác định giá DN không được tiến hành nhanh chóng, kết quả tính thiếu chính xác. Vì vậy, trong quá trình thực tập tại công ty, em đã nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện công tác định giá DN tại công ty kim khí Hà Nội” mong được góp một phần nhỏ bé để nâng cao chất lượng ĐGDN cho công ty, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các chủ thể quan tâm đến kết quả định giá.
Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về ĐGDN
Chương II: Thực trạng công tác ĐGDN tại công ty kim khí Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện công tác ĐGDN
Chương I : Cơ sở lý luận về định giá doanh nghiệp
1.1.Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp.
1.1.1.Lý thuyết chung về doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thuật ngữ chỉ các tổ chức kinh tế, một tổ chức kinh tế chỉ được gọi là doanh nghiệp nếu nó được thừa nhận về mặt pháp luật trên một số tiêu chuẩn nào đó. Pháp luật các quốc gia thường xây dựng tiêu chuẩn về : mức vốn tối thiểu, mục tiêu hoạt động, ngành nghề kinh doanh, địa điểm kinh doanh và tư cách công dân đứng ra kinh doanh, để từ đó Nhà nước có cơ sở trao cho những tổ chức kinh tế này những quyền lợi và nghĩa vụ trên một tư cách mới đó là doanh nghiệp.
Theo luật doanh nghiệp số 13/1999/QH10 ngày 12 tháng 6 năm 1999 của nước CHXHCN Việt Nam thì: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Xét theo mục tiêu hoạt động, người ta chia doanh nghiệp thànhN kinh doanh và DN công ích.
DN kinh doanh là DN hoạt động chủ yếu vì mục tiêu lợi nhuận
DN công ích chủ yếu là DN Nhà nước, hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà Nước hay trực tiếp thực hiện nhiệm vụ Quốc phòng, an ninh.
Bản thân thuật ngữ DN khi ra đời đã hàm chứa một điều là nó lập ra để kinh doanh, để tìm kiếm thu nhập, tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu. Chính vì vậy, trong chuyên đề này em chỉ nghiên cứu DN ở loại hình DN kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận.
1.1.2 Giá trị doanh nghiệp
DN là một tổ chức kinh tế chứ không giống như nhiều TS thông thường. Nó là một thực thể hoạt động, thông qua sự hoạt động đó mà người ta nhận ra DN. Mặt khác, DN không phải là tập hợp các loại TS vào với nhau, khi thực hiện phá sản, DN không còn tồn tại với tư cách của một tổ chức kinh doanh nữa. Do vậy, GTDN là một khái niệm chỉ được dùng cho những DN đang còn hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
DN là một hệ thống của nhiều TS, mà trong số đó có TS hữu hình như: nhà xưởng, thiết bị vật tư, đồng thời cũng có các TSVH như: lợi thế thương mại, giá trị bản quyền,... Đây là một đặc điểm quan trọng cần lưu ý trong quá trình định giá do không thể nhận biết một cách trực quan, các TSVH có thể bị lãng quên hay bỏ qua. Ngoài ra, việc đánh giá giá trị tạo nên bởi các TSVH nói chung khó khăn hơn giá trị tạo nên bởi TSHH.
Bản thân các yếu tố tạo nên giá trị của một DN luôn có sự thay đổi, luôn có sự tăng hay giảm, có sự xuất hiện hay biến mất của một số yếu tố nào đó. Chính vì vậy, GTDN luôn thay đổi theo thời gian, giá trị của DN là một khái niệm động.
Hơn nữa, do hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực khác nhau, mỗi DN thường có những đặc thù riêng. Và do đó trên nhiều phương diện, giữa các DN thường có những sự khác biệt lớn đặc biệt là DN thuộc các ngành khác nhau. Vì thế, giá trị DN cần được xác định trên cơ sở xem xét các yếu tổ đặc thù của từng ngành.
Các nhà đầu tư thành lập ra DN không nhằm vào việc sở hữu các TSCĐ, TSLĐ mà nhằm vào mục tiêu chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận, tìm kiếm thu nhập. Vì vậy, tại các nước có nền KTTT, GTDN được xác định là các khoản thu nhập trong quá trình sản xuất kinh doanh, theo đó, GTDN được đo bằng lượng thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư.
Tóm lại, GTDN là sự biểu hiện bằng tiền về các khoản thu nhập mà DN mang lại cho các nhà đầu tư trong quá trình sản xuất kinh doanh.
1.2. Định giá doanh nghiệp là gì?
Mỗi một hàng hoá có một giá trị nhất định của nó. Giá trị này là kết tinh của hao phí sức lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Chất của giá trị là lao động. Vì vậy, sản phẩm nào không có sức lao động được kết tinh trong đó thì nó không có giá trị. Sản phẩm nào mà hao phí sức lao động sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao.
DN cũng là một loại hàng hoá, và nó cũng có giá trị nhất định bởi cũng phải mất rất nhiều hao phí lao động thì mới có thể tạo dựng được nên một DN.
GTDN là một khái niệm cơ bản khác với giá bán DN trên thị trường.GTDN được đo bằng độ lớn của các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư. Giá bán thực tế DN là mức giá được hình thành trên thị trường,có thể có khoảng cách rất xa so với đánh giá của các chuyên gia kinh tế và các nhà đầu tư. Giá mua, bán DN còn chịu sự tác động của các yếu tố về cung cầu “hàng hoá DN”, cung cầu về chứng khoán và cung cầu về tiền tệ trên thị trường.
GTDN vẫn tồn tại ngay cả khi không có việc mua bán, chuyển nhượng. GTDN chỉ đơn giản là một khái niệm được các nhà đầu tư, các chuyên gia sử dụng trong việc đánh giá tổng thể các khoản thu nhập mà DN có thể đem lại. Để xác định GTDN thường đòi hỏi các chuyên gia về thẩm định giá trị có kiến thức, có kinh nghiệm, có tính trung thực cao trong nghề nghiệp, có như vậy mới đảm bảo được tính trung thực, vô tư, khách quan, hạn chế sự chi phối của yếu tố thị trường làm xuyên tạc GTDN.
ĐGDN tức là xác định giá trị thực tế của DN. Giá trị thực tế của DN là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của DN có tính đến khả năng sinh lời trong tương lai của DN. Giá trị thực tế này được xác định trên cơ sở giá thị trường và chất lượng của tài sản tại thời điểm định giá. Trong đó giá trị thị trường là giá cả được hình thành trên thị trường, được thị trường chấp nhận trên cơ sở cân bằng của quan hệ cung-cầu.
1.3. Sự cần thiết phải ĐGDN
Có thể nói, dường như mỗi quyết định ở tầm vĩ mô cũng như vi mô về phát triển sản xuất kinh doanh đều ít nhiều liên quan đến việc ĐGDN. Việc đề ra các quyết định này luôn là công việc thường nhật của từng DN, trong từng ngành và giữa các khu vực của nền kinh tế,trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Sự cần thiết của ĐGDN xuất phát từ những đòi hỏi sau:
Thứ nhất: Giá trị của DN là cơ sở đầu tiên và quan trọng để ra các quyết định có tính chiến lược cấp DN về:
Lựa chọn loại hình kinh doanh, lựa chọn sản phẩm hay dịch vụ mà DN có hay sẽ có thế mạnh
Lựa chọn công nghệ sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ đã chọn, tổ chức nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
Đầu tư hay giải tư như: góp vốn liên doanh, liên kết, cổ phần hoá DN, khoán, cho thuê, sáp nhập hay giải thể, chia tách DN và chuyển nhượng quyền sở hữu (bán DN).
Đối với hoạt động mua bán, sáp nhập, hợp nhất hay chia tách DN, đây là loại giao dịch diển ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Nó phản ánh các nhu cầu đi tìm nguồn tài trợ cho sự tăng trưởng và phát triển bằng các yếu tố bên ngoài, làm gia tăng một cách nhanh chóng tiềm lực tài chính, nhằm tăng cường khả năng tồn tại trong môi trường tự do cạnh tranh đối với các DN. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá trên một phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động đến DN, trong đó, GTDN là yếu tố có tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để người ta thương thuyết với nhau trong quá trình mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ DN. Đồng thời, khi thị trường chứng khoán VN phát triển thì nhu cầu ĐGDN càng trở nên cấp thiết.
Thứ hai: Khi DN phát hành chứng khoán, nhằm thu hút vốn trên thị trường, người ta cần xác định GTDN, có như vậy mới tính toán được số lượng cần thiết cho mỗi lần phát hành chứng khoán. Mặt khác, giá cả của chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của DN có chứng khoán được giao dịch, trao đổi trên thị trường. Vì vậy, trên thị phương diện quản lý vĩ mô, thông tin về GTDN được coi là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh CK kịp thời nhận ra sự biến động không bình thường của giá chứng khoán, nhận ra những dấu hiệu của hoạt động đầu cơ, thao túng thị trường, động cơ thâu tóm quyền kiểm soát DN, để từ đó sớm có những biện pháp cần thiết để ngăn chặn mối nguy cơ xảy ra khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ hiện tượng của một nền “kinh tế ảo”.
Thứ ba: Đối với các chủ nợ, các nhà đầu tư tiềm năng, các ngân hàng cho vay vốn, ĐGDN làm cơ sở để đưa ra các quyết định đầu tư và các quyết định cho vay. Một DN có cơ sở tài chính vững mạnh, có những cơ hội phát triển trên thị trường sẽ tạo tiền đề cho việc thu hút vốn đầu tư mở rộng hoạt động công ty. Ngược lại, một DN được định giá thấp sẽ có thể bị nhà đầu tư bỏ qua khi không quyết định đầu tư vốn và sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn để mở rộng sản xuất.
Thứ tư: Ở cấp vĩ mô, giá trị của DN là một thông tin quan trọng để Chính phủ có thể đánh giá năng lực sản xuất hiện tại và tương lai của một ngành và của toàn bộ nền kinh tế, nhờ đó để đưa ra các chiến lược phát triển phù hợp.
Tất cả những nhận định trên có thể kết luận ĐGDN là nhu cầu cấp bách và thường xuyên, do vậy cần xây dựng được một hệ thống các phương pháp và tiêu chuẩn để hỗ trợ cho công tác ĐGDN này.
1.4. Các nhân tố tác động đến GTDN
Mỗi DN đều hoạt động trong những điều kiện cụ thể nào đó của môi trường kinh doanh. Các yếu tố môi trường tạo thành những tác lực tác động và hình thành những điều kiện ràng buộc, cưỡng chế đối với DN. Bởi vậy, khi tiến hành ĐGDN cần đánh giá những hoạt động của DN trong sự tương tác với môi trường, giữa tình hình hiện tại và tương lai của môi trường. Trên cơ sở đó xác định những cơ hội và nguy cơ mà môi trường có thể đem lại cho DN. Xuất phát từ những ý nghĩa nêu trên ta nghiên cứu các nhân tố tác động đến GTDN trên hai phạm vi là: các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô và các yếu tố thuộc môi trường vi mô.
1.4.1. Yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
- Môi trường kinh tế_xã hội
DN luôn tồn tại trong một bối cảnh kinh tế cụ thể. Bối cảnh kinh tế đó được nhìn nhận thông qua hàng loạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất, các chỉ số trên thị trường chứng khoán… Các chỉ tiêu này tác động trực tiếp vào DN hay GTDN. Mỗi sự thay đổi nhỏ của các yếu tố trên cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về DN. Nền kinh tế luôn tăng trưởng với tốc độ cao, phản ánh nhu cầu đầu tư và tiêu dùng ngày càng lớn, chỉ số giá chứng khoán phản ánh đúng quan hệ cung cầu, đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi suất có tính kích thích đầu tư sẽ trở thành cơ hội tốt cho DN mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguợc lại, sự suy thoái kinh tế, giá chứng khoán bị thổi phồng mang dấu hiệu “ kinh tế ảo”, lạm phát phi mã là những dấu hiệu xấu đối với DN. Mọi sự đánh giá về DN, trong đó có GTDN sẽ bị đảo lộn.
Những thay đổi trong môi trường xã hội có thể tạo ra những cơ hội và nguy cơ đối với DN. Chẳng hạn, sự thay đổi về phong cách tiêu dùng của người dân, sự thay đổi về cơ cấu dân cư, tuổi thọ,… có thể là cơ hội cho một số DN này, song có thể là nguy cơ đối với DN khác.Ví dụ, khi có quy định cấm hút thuốc lá ở nơi công cộng, có thể là nguy hại cho ngành sản xuất thuốc lá, ngược lại, khi đời sống của người dân được nâng cao, tuổi thọ trung bình tăng thì xuất hiện nhiều cơ hội cho các DN trong ngành chăm sóc sức khoẻ.
Bởi vậy, khi ĐGDN cần xem xét các yếu tố dân cư, tuổi thọ, mức sống, phong cách sống, phong cách tiêu dùng và những tác động của nền kinh tế đối với hoạt động kinh doanh DN. Thông qua nghiên cứu các tiêu thức này có thể xác định tiềm năng phát triển của DN.
- Môi trường chính trị_Pháp luật
Sản xuất kinh doanh chỉ có thể ổn định và phát triển trong một môi trường ổn định về chính trị ở một mức độ nhất định. Sự bất ổn về chính trị, những cuộc bạo động…đều là những nguy cơ gây ra rủi ro lớn cho DN.
Hơn nữa, chính sách phát triển của một quốc gia thường có vai trò định hướng, chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế xã hội, trong đó có các hoạt động kinh doanh. Chẳng hạn, nếu Chính phủ chú trọng phát triển các ngành công nghệ cao thì những DN trong ngành này sẽ có nhiều cơ hội phát triển.Ngược lại, nếu CP chú trọng bảo vệ môi trường tự nhiên thì ngành sản xuất có nhiều chất thải, ô nhiễm môi trường như ngành giấy, dệt,…sẽ chịu sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan bảo vệ môi trường. Hay những rào cản pháp lý như: các đạo luật, chính sách bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường, bảo vệ sự cạnh tranh tự do, chống độc quyền… có thể tạo ra cơ hội cho một nhóm DN này, song cũng có thể tạo ra những đe doạ với nhiều DN khác.
Như vậy, khi đánh giá DN cần xem xét tác động của yếu tố chính trị _ pháp luật đối với đối tượng định giá ở thời điểm hiện tại và tương lai. Đồng thời, cũng cần xem xét những đối sách mà DN dự kiến sẽ áp dụng khi các yếu tố môi trường chính trị _pháp luật thay đổi.
- Môi trường công nghệ
Những tiến bộ về công nghệ có tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống, và trong DN, tiến bộ công nghệ đã diễn ra các khuynh hướng sau:
Chu kỳ đổi mới công nghệ ngày càng ngắn hơn, nên tốc độ biến các ý tưởng thành các sản phẩm thương mại ngày càng nhanh hơn.
Vòng đời sản phẩm ngày càng ngắn hơn, do chu kỳ đổi mới công nghệ ngày càng ngắn nên các DN có thể liên tục tung ra thị trường những sản phẩm mới, sản phẩm cải tiến. Do đó, ngày nay các sản phẩm có thể bị lạc hậu rất nhanh chóng.
Trên bình diện xã hội, tiến bộ công nghệ là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh nhân loại. Song trên giác độ DN trong cơ chế thị trường, đó không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của mỗi DN. Sự thiếu nhạy bén trong việc áp dụng những thành tựu khoa học mới có thể là nguyên nhân đưa DN mau chóng đến chỗ phá sản. Chính vì lẽ đó, ĐGDN đòi hỏi phải xem xét chúng trong môi trường khoa học công nghệ.
Ở trong ví dụ này, chúng ta mặc nhiên chấp nhận việc sử dụng những số liệu quá khứ đối với phần lợi nhuận thặng dư để đưa vào GTDN
Ưu điểm phương pháp
Phương pháp này khắc phục được nhược điểm của 2 phương pháp trên là phương pháp tài sản và phương pháp chiết khấu dòng tiền vì nó cho phép định giá GTDN dưới cả hai góc độ giá trị tài sản và lợi nhuận của DN. Nó đồng thời xem xét đến cả hai khía cạnh lợi ích kinh tế của cả người mua và người bán
Phương pháp này cũng tạo ra khả năng bù trừ các sai sót có thể xảy ra khi xác định GTDN theo từng phương pháp đơn lẻ nêu trên:
+ Với phương pháp định giá theo tài sản: Khi đánh giá tài sản, khó khăn xảy ra khi có những thay đổi về công nghệ ảnh hưởng tới giá trị của tài sản, cũng như khi chúng ta đánh giá những tài sản đặc biệt, những tài sản chuyên dụng với những thông tin thị trường hết sức cùng kiệt nàn về chúng. Thêm vào đó, giá trị thị trường hợp lý thể hiện ra ngoài của tài sản không phản ánh được khả năng tạo ra lợi nhuận của chúng, thậm chí có sự khác biệt đáng kể. Vì vậy, GTDN được xác định theo phương pháp này, nếu được công nhận là tương đối chính xác thì cũng chỉ là sự chính xác trên mức độ của những nhận định chủ quan mà thôi.
+ Với phương pháp chiết khấu dòng tiền (DCF): sẽ là một mức độ phỏng đoán cao những thông tin trong tương lai trong điều kiện mà yếu tố thị trường là không chắc chắn, ảnh hưởng tới khả năng sinh lời của DN, và thêm những bất định nữa trong việc dự tính được một tỷ lệ chiết khấu hợp lý trong điều kiện những thay đổi của nền kinh tế. Trong thực tế hoàn cảnh như vậy, rõ ràng một mức giá DN đưa ra cũng mang tính chính xác tương đối mà thôi.
Hạn chế: Phương pháp này đòi hỏi phải tính toán nhiều hơn so với 2 phương pháp trên, mất nhiều thời gian và công sức hơn để đưa ra được cả giá trị tài sản cũng như tính toán được giá trị khả năng sinh lời. Hơn nữa, những số liệu để tính toán tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn bình quân của các DN cùng ngành không phải là điều dễ dàng. Một loạt các vấn đề sẽ xuất hiện khi còn có những DN ngoài khu vực, những DN kinh doanh đa dạng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đối tượng áp dụng: đặc biệt thích hợp với những DN có giá trị tài sản lớn cũng như khả năng thu lợi nhuận siêu ngạch (giá trị tài sản vô hình) cao, đó là những DN đang nằm trong định hướng phát triển của nhà nước, được hưởng những ưu đãi đặc biệt về giá, thuế... mà việc áp dụng phương pháp định giá dựa trên khả năng sinh lời đối với chúng còn có những hạn chế nhất định.
Thứ hai: Công ty phải tính giá trị tài sản vô hình vào giá trị của DN, có thể tiến hành tính giá trị tài sản vô hình theo cách tính goodwill. Phương pháp GW là một trong những phương pháp tính giá trị tài sản vô hình được công nhận như là phương pháp hoàn hảo nhất vì nó kết hợp các giá trị theo tài sản và theo giá trị năng suất,coi DN không chỉ về mặt công nghiệp hay kinh tế mà còn về mặt tài chính và có sự phân chia trong tương lai khi xác định giá bán DN
Công thức:
n Rt - rAt
GW = ∑
t=1 (1+i)t
Trong đó:
Tt: Khoản thu năm t
r: Tỷ suất lợi nhuận bình thường của tài sản
i: Tỷ suất hiện tại hoá
n: Số năm nhận được khoản thu
Tỷ suất hiện tại hoá phản ánh chi phí vốn, rủi ro trong kinh doanh, rủi ro tài chính và rủi ro thanh khoản của DN.
Tỷ suất hiện tại hoá = f(tỷ suất cơ bản, rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro thanh khoản, rủi ro gắn với thị trường...)
Thứ ba: Kiện toàn bộ máy kế toán DN: Khi ĐGDN, tổ chức định gía thường dựa vào số liệu trên sổ sách kế toán để làm cơ sở xác định giá trị tài sản DN, nên số liệu có chính xác thì kết quả xác định mới phản ánh chính xác. Kiện toàn bộ máy kế toán thể hiện ở việc nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên kế toán trong DN, chủ động xử lý các tồn tại tài chính chứ không chờ đến thời điểm CPH mới làm, gây mất thời gian cho công tác định giá.
3.3. Kiến nghị với Nhà nước
Thứ nhất: Thông tin cung cấp trong quá trình định giá phải có độ tin cậy nhất định
Các phương pháp định giá thường đòi hỏi phải có một khối lượng lớn thông tin được cung cấp. Do công việc định giá DN là một việc làm phức tạp, và khá mới mẻ ở nước ta nên thông tin cung cấp càng nhiều càng tốt, song thông tin đó phải có độ tin cậy ở một mức độ nhất định. Đối với các chuyên gia, thông tin có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau, đòi hỏi về mặt xử lý thông tin. Ở Việt Nam hiện nay, các thông tin quan trọng và cần thiết cho công tác xác định GTDN như hệ số tín nhiệm, các chỉ số tài chính trung bình ngành và các chỉ số chứng khoán thì Việt Nam chưa đáp ứng được. Loại thông tin này được công bố, trong nhiều trường hợp, sẽ giúp các chuyên gia định giá không phải sa vào một ma trận các loại thông tin, mà vẫn ước lượng được các tỷ lệ rủi ro và GTDN một cách nhanh chóng. Nó góp phần làm giảm đi tính “nghệ thuật”,tính chủ quan cũng như sự hạn chế về trình độ của người định giá. Chính vì vậy,để không phải mò mẫm với những mớ thông tin được cung cấp, trong chuyên đề này em có kiến nghị:
- Chính phủ cần cho phép thành lập các công ty chuyên xếp hạng và đánh giá hệ số tín nhiệm đối với các DN, hay cho phép loại công ty này của nước ngoài được hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam
- cần gấp rút bổ sung thêm vào hệ thống số liệu thống kê của Nhà nước các chỉ tiêu tài chính trung bình ngành. Nó bao gồm khoảng 18 chỉ tiêu mà chuyên gia định giá có thể sử dụng khi chưa có hệ số tín nhiệm. Đòi hỏi này về cơ bản là có thể làm được ngay bằng cách dựa trên các Bảng cân đối kế toán, Báo cáo thu nhập và Báo cáo kiểm toán.
-Thúc đẩy nhanh sự phát triển của Thị trường chứng khoán
TTCK phát triển sẽ chỉ ra giá thị trường của DN hàng ngày trên bảng điện tử. Đó là một thông tin quan trọng để đối chiếu với sự đánh giá của chuyên gia về GTDN có chứng khoán niêm yết và giao dịch trên TTCK. Ngoài ra, giá cả của chứng khoán cũng là một cơ sở quan trọng để người ta định giá các DN có những điều kiện tương tự nhưng không có chứng khoán được niêm yết.
Thứ hai: Tổ chức định giá phải chuyên nghiệp và có trình độ
Trước đây, việc xác định GTDN chủ yếu do các hội đồng ĐGDN của các Bộ, ngành , địa phương, Tổng công ty thực hiện. Dần dần, các hội đồng này được thay thế bằng các tổ chức tài chính trung gian như công ty kiểm toán,công ty chứng khoán, trung tâm thẩm định giá...Việc sử dụng các tổ chức tài chính trung gian xác định GTDN có tác dụng hạn chế sự can thiệp của các cơ quan hành chính Nhà nước, nâng cao tính công khai, minh bạch và tính chuyên nghiệp trong hoạt động định giá, nâng cao trách nhiệm của thay mặt chủ sở hữu vốn Nhà nước tại DN.
Trên thực tế, lĩnh vực định giá DN còn mới mẻ cả về lý thuyết và thực hành. .Một vấn đề đáng băn khoăn hiện nay là các tổ chức tài chính trung gian chưa đáp ứng đủ khả năng xác định GTDN. Việc xác định giá trị giữa công ty kiểm toán và tổng công ty vênh nhau khá lớn do các công ty kiểm toán chỉ căn cứ vào số liệu sổ sách trong khi DN còn rất nhiều lợi thế chưa được tính tới.Để lựa chọn các tổ chức định giá DN phù hợp, có năng lực thực sự và bảo đảm tính đúng đắn kết quả trong việc định giá DN là một vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc xác định GTDN Muốn vậy, cần có cơ chế quy định cụ thể tiêu chuẩn của một tổ chức được lựa chọn để thực hiện việc định giá DN. Tổ chức đó trước hết phải có đội ngũ cán bộ về số lượng chuyên gia,có trình độ chuyên môn nhất định,có kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Những tổ chức định giá phải đảm bảo đủ những tiêu chuẩn đó thì tổ chức định giá DN mới chất lượng và có độ tin cậy cao. Thực tế hiện nay việc lựa chọn và chỉ định các tổ chức vẫn chủ yếu dựa vào định tính, chưa dựa trên những tiêu chuẩn định lượng cụ thể để lựa chọn. Do đó,có nhiều tổ chức được chọn trong danh sách để thực hiện việc định giá DN chưa thực sự có đủ năng lực chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp để thực hiện một cách có hiệu quả và chuẩn xác kết quả định giá của DN. Đó là còn chưa kể đến cơ chế kiểm tra các đơn vị tham gia thực hiện việc xác định GTDN như quy trình hoạt động, chất lượng chuyên môn, nhân sự...chưa có. Vì những lý do nêu trên, Nhà nước cần thực hiện tốt vai trò của mình trên các mặt:
-Tổ chức đào tạo gấp một đội ngũ các nhà Thẩm định giá bao gồm các kiến thức về: Lý thuyết đầu tư, tài chính doanh nghiệp, kế toán, kiểm toán, phân tích tài chính, thị trường chứng khoán và toán xác suất thống kê.
- Cần có sự phân biệt các lớp đào tạo chuyên sâu về kiến thức chuyên ngành cho đội ngũ nói trên. Vì thực tế, nhà thẩm định giá không thể nắm vững các khía cạnh kỹ thuật phong phú của nhiều ngành.
Thứ ba:Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn về xác định GTDN, nhằm giúp công tác ĐGDN diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và kết quả tính chính xác.
Thứ 4: Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế định giá và bán cổ phần theo hướng gắn với thị trường và đảm bảo khách quan, minh bạch. Trong đó cần bổ sung các quy định mang tính chuẩn mực trong công tác định giá (đặc biệt là đối với đất, tài sản đầu tư dài hạn và giá trị lợi thế kinh doanh trong DN, giá trị các tổng công ty), xoá bỏ cơ chế định giá theo hội đồng để chuyển sang thực hiện công tác định giá qua định chế trung gian (để nâng cao tính chuyên nghiệp và đảm bảo tính khách quan): đẩy mạnh phân cấp về thẩm quyền lựa chọn tổ chức định giá, thẩm tra và quyết định công bố, điều chỉnh giá trị DN cho các bộ;đồng thời khẳng định GTDN được xác định chỉ là cơ sở để xác định quy mô vốn điều lệ và giá khởi điểm để thực hiện đấu giá bán cổ phần, giá trị thực tế của DN CPH sẽ được xác định thông qua kết quả đấu giá. Về bán cổ phần, cần thực hiện cơ chế bán cổ phần qua đấu giá, xoá bỏ cơ chế bán cổ phần theo giá sàn và bán cổ phần lại trả chậm, thực hiện các giải pháp để thực hiện CPH với việc phát triển thị trường vốn, nâng cao tính khách quan, minh bạch trong hoạt động bán cổ phần để khắc phục tình trạng CPH khép kín trong nội bộ DN.
Kết luận
Quá trình CPH ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra nhanh chóng và sôi nổi, đã có nhiều văn bản hướng dẫn của Nhà nước về hướng dẫn xác định GTDN để tiến trình CPH được đẩy nhanh.Tuy nhiên, đến nay vướng mắc trong xác định giá trị DN là vấn đề lợi thế kinh doanh, lợi thế địa lý, giá trị thương hiệu và nhất là vấn đề đất đai. Khó khăn ở chỗ, các yếu tố này rất khác nhau giữa các địa phương, giữa các DN thuộc lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, nên không thể có một văn bản chung để hướng dẫn.Vì vậy, trong triển khai thực hiện thường là không thống nhất giữa các nơi,các thời điểm. Đã có tình trạng giá trị quyền sử đụng đất, giá trị trang thiết bị, giá trị lợi thế bị đánh giá quá cao,hay quá thấp, dẫn đến những khó khăn không đáng có sau chuyển đổi.
Trong thời gian thực tập tại công ty Kim khí Hà Nội, với những kiến thức đã được học trên ghế nhà trường cùng với sự quan tâm giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn - Tiến sĩ: Đặng Ngọc Đức, Ban lãnh đạo cùng các cô chú phòng Tài chính- kế toán, em đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác định giá doanh nghiệp tại Công ty Kim khí Hà Nội
Do trình độ và thời gian thực tập có hạn, chắc chắn cuốn chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự chỉ bảo của thầy cô giáo, các cán bộ phòng Tài chính_kế toán và các bạn.
Một lần nữa em xin chân thành Thank sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo-Tiến sĩ: Đặng Ngọc Đức đã giúp em hoàn thành cuốn chuyên đề này.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: