Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, chúng ta đang sống trong thể kỷ 21, thế kỷ của hội nhập kinh tế trong khu vực và trên toàn thế giới. Hội nhập kinh tế vừa là cơ hội để phát triển đất nước vừa là thách thức lớn đối với nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của Việt nam để có thể cạnh tranh với các hàng hoá trên thị trường trong và ngoài nước.
Trong xu thế chung đó, lĩnh vực kiểm toán Việt Nam vẫn còn khá non trẻ và đang đứng trước nhiều khó khăn. Các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam cũng đang nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ để từng bước chuẩn bị hội nhập hoàn toàn với quốc tế và cạnh tranh với các công ty kiểm toán nước ngoài.
Trong kiểm toán, kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất và được thực hiện nhiều nhất trong các cuộc kiểm toán. Để nâng cao chất lượng của các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, các công ty kiểm toán hiện nay đang rất chú trọng đến các công việc được tiến hành trong một cuộc kiểm toán. Công tác đánh giá rủi ro kiểm toán là một công việc hết sức phức tạp và quan trọng vì nó sẽ giúp kiểm toán viên có kế hoạch kiểm toán hiệu quả, từ đó xác định nội dung, lịch trình, phạm vi và các thủ tục kiểm toán để có thể phát hiện ra các sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính.
Thấy được tầm quan trọng của công tác đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính và qua thời gian thực tập tại công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam, em đã chọn đề tài: “ Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu và góp phần hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro kiểm toán.
Luận văn tốt nghiệp gồm có 3 phần:
Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
Phần 2: Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
Phần 3: Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Cũng nhân dịp này, em xin chân thành Thank Th.s Nguyễn Thị Hồng Thúy khoa Kế toán cùng các anh chị kiểm toán viên trong công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập vừa qua để em hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này.
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC
1.1 Trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm trọng yếu
Theo từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu” là một tính từ để chỉ sự quan trọng thiết yếu. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu lại có một ý nghĩa cụ thể.
Trong Kế toán, trọng yếu là một trong những nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận rộng rãi. Kế toán chỉ nên quan tâm, chú trọng đến những vấn đề có ảnh hưởng đến tính chính xác của báo cáo tài chính, ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC, còn những khoản mục không quan trọng, không ảnh hưởng trọng yếu đến tính chính xác của báo cáo tài chính thì kế toán có thể toàn quyền xử lý theo cách thức tiện nhất cho công tác kế toán.
Trong lĩnh vực kiểm toán BCTC, trọng yếu là một khái niệm thường xuyên nhắc tới. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) về “Tính trọng yếu trong kiểm toán” thì “ Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hay sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hay sai sót đó. Vì thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hay một điểm định tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần có”
Theo Văn bản chỉ đạo Kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố thì: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hay đơn lẻ, hay từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hay là sẽ rút ra kết luận sai lầm.”
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm toán” thì trọng yếu được định nghĩa như sau: “Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức trọng yếu tuỳ từng trường hợp vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần có. Tính trọng yếu phải xét trên cả phương diện định lượng và định tính”
Như vậy, trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay độ lớn) và bản chất của các sai phạm kể cả bỏ sót của các thông tin tài chính hay là đơn lẻ hay là từng nhóm nếu xét trong một bối cảnh cụ thể, những sai phạm đó làm cho người sử dụng BCTC đưa ra các quyết định sai lầm hay hiểu sai bản chất vấn đề.
1.1.2 Vai trò của trọng yếu
Tính trọng yếu có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán (thiết kế phương pháp kiểm toán) và giai đoạn kết thúc kiểm toán
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán:
Kiểm toán viên đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai sót có thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên BCTC từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi các thử nghiệm kiểm toán.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 300 (VSA 300) quy định: trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, kiểm toán viên phải “Xác định mức độ trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán”
Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) quy định: “Khi lập kế hoạch kiểm toán, chuyên gia kiểm toán phải cân nhắc xem những nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong BCTC. Đánh giá của chuyên gia kiểm toán về mức độ trọng yếu, liên quan đến các số dư tài khoản cụ thể và các loại nghiệp vụ giúp họ xác định được khoản mục nào cần kiểm tra và nên sử dụng phương pháp chọn mẫu hay áp dụng các thủ tục phân tích. Điều này giúp chuyên gia kiểm toán lựa chọn những thủ tục kiểm toán; kết hợp những thủ tục kiểm toán đó lại với nhau có thể sẽ giảm được rủi ro kiểm toán tới một mức độ có thể chấp nhận được”
Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán
Dựa vào đánh giá mức trọng yếu và mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro, kiểm toán viên sẽ lựa chọn các phương pháp kiểm toán thích hợp (tăng cường thử nghiệm cơ bản hay thử nghiệm kiểm soát…) đồng thời cũng có thể thay đổi phương pháp kiểm toán nếu có sự thay đổi trong đánh giá mức trọng yếu.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán
Kiểm toán viên dựa vào mức trọng yếu để xác định mức độ trung thực, hợp lý của các thông tin trên BCTC và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót đến BCTC để đưa ra ý kiến cho phù hợp. Nếu kiểm toán viên phát hiện thấy một sai phạm trọng yếu thì phải đề nghị khách hàng điều chỉnh. Nếu kiểm toán viên đánh giá là cần thiết mà khách hàng từ chối điều chỉnh thì kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến ngoại trừ hay ý kiến trái ngược tuỳ theo mức độ trọng yếu của sai phạm. Vì vậy, kiểm toán viên cần có sự hiểu biết về tính trọng yếu và thực hiện đánh giá trọng yếu một cách đầy đủ.
1.1.3 Quy mô và bản chất của khoản mục nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu
Việc đánh giá trọng yếu là một công việc mang tính xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Hơn nữa, trọng yếu là một khái niệm tương đối và gắn liền quy mô của khách hàng. Một sai phạm là trọng yếu với công ty này nhưng có thể là không trọng yếu với công ty khác. Do đó, để đánh giá một khoản mục, nghiệp vụ là trọng yếu hay không, kiểm toán viên cần xem xét trên cả hai mặt định tính và định lượng của những sai phạm hay nói cách khác, cần xem xét cả quy mô và bản chất nghiệp vụ trong quan hệ với tính trọng yếu
1.1.3.1 Quy mô trong mối quan hệ với trọng yếu
Quy mô của sai phạm đối với một khoản mục hay nghiệp vụ là một nhân tố quan trọng để xem xét sai phạm đó có trọng yếu hay không. Các chỉ tiêu thường được dùng làm cơ sở đánh giá tính trọng yếu như: thu nhập trước thuế, tổng tài sản, doanh thu, tài sản lưu động, nợ ngắn hạn… Trong các chỉ tiêu đó thì chỉ tiêu thu nhập trước thuế thường là quan trọng nhất vì nó được xem như một khoản mục thông tin then chốt nhất đối với người sử dụng BCTC.
Ta xem xét hai mức độ khác nhau về quy mô của khoản mục, nghiệp vụ là quy mô nhỏ và quy mô lớn để thấy được mối quan hệ giữa quy mô và tính trọng yếu.
a. Quy mô nhỏ
Một khoản mục, nghiệp vụ sai phạm với quy mô nhỏ trong báo cáo tài chính thì thường được coi là không trọng yếu bởi vì việc phản ánh đúng hay sai khoản mục, nghiệp vụ này cũng không ảnh hưởng đến quy mô chung trên BCTC và không ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng.
Tuy nhiên, khi xem xét các sai phạm không nên xem xét nó một cách cô lập vì chúng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ nhưng nếu kiểm toán viên cộng dồn các sai phạm thì sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của các sai phạm từ đó phát hiện ra tính trọng yếu của chúng.
Xét trên phương diện quy mô của nghiệp vụ, khoản mục để đánh giá tính trọng yếu cần liên hệ với quy mô của doanh nghiệp. Ví dụ một khoản mục có quy mô 5.000.000 VND có thể được đánh giá là không trọng yếu khi tổng tài sản là 10.000.000.000 VND nhưng có thể được đánh giá là trọng yếu khi tổng tài sản là 10.000.000 VND. hay khoản mục nguyên vật liệu phụ có thể không trọng yếu trong sản xuất dầu nhưng lại là trọng yếu trong sản xuất thuỷ tinh, gốm sứ,…
b. Quy mô lớn
Các khoản mục có quy mô lớn thường được đánh giá là trọng yếu vì nó ảnh hưởng đến nhận thức về thực trạng hoạt động tài chính và từ đó ảnh hưởng đến các quyết định quản lý kinh tế và các kết luận kiểm toán. Ví dụ khoản mục tài sản cố định thường có quy mô lớn trong bảng cân đối kế toán do đó chúng thường được đánh giá là trọng yếu.
Tuy nhiên không phải khoản mục nào có quy mô lớn cũng sẽ ảnh hưởng trọng yếu tới báo cáo tài chính vì còn phải xem xét mối quan hệ của khoản mục với đối tượng kiểm toán cũng như mục tiêu kiểm toán. Vì vậy, việc đánh giá trọng yếu chỉ dựa vào quy mô là không dễ dàng. Trong thực tế để đánh giá trọng yếu, kiểm toán viên xem xét đánh giá cả về bản chất của khoản mục, nghiệp vụ
1.1.3.2 Bản chất của khoản mục, nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu
Các khoản mục, nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hay chứa đựng khả năng gian lận và các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng
a. Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hay chứa đựng khả năng gian lận
Với cùng một quy mô tiền tệ, các gian lận thường được chú trọng hơn sai sót bởi vì các gian lận thường ảnh hưởng đến tính trung thực và độ tin cậy cảu Ban Giám đốc và những người có liên quan. Vì vậy, một hành vi gian lận luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô là lớn hay nhỏ.
Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hay chứa đựng khả năng gian lận bao gồm:
Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp. Các nghiệp vụ này chứa đựng gian lận vì trong đấu thầu, việc lựa chọn chủ thầu nhiều khi có sự móc nối, phối hợp giữa bên giao thầu và bên nhận thầu để thu lợi cho một số cá nhân..
Các nghiệp vụ thanh lý tài sản khi tài sản khấu hao hết hay chưa khấu hao hết nhưng không còn sử dụng. Các nghiệp vụ này chứa đựng gian lận vì trong nhiều trường hợp tài sản vẫn còn tốt và sử dụng được nhưng vẫn đem đi thanh lý với giá rẻ do ban giám đốc không quản lý chặt chẽ và có sự liên kết giữa người tiến hành thanh lý và người mua tài sản thanh lý.
Các nghiệp vụ về tiền mặt: tiền mặt có đặc điểm gọn nhẹ, dễ di chuyển, cất trữ và có biên độ dao động lớn do đó rất dễ có gian lận phát sinh
Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: dễ có sự liên kết giữa người mua và người bán để kiếm lợi cho bản thân
Các nghiệp vụ bất thường: Đây là các nghiệp vụ xảy ra không thường xuyên, không có dự tính trước hay có dự tính nhưng ít khi xảy ra. Các nghiệp vụ lại có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, kiểm toán viên cần xem xét mức độ nghiêm trọng của các nghiệp vụ đó ảnh hưởng đến kết quả chung của doanh nghiệp
Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu như bất cứ ai cũng muốn thu lợi cho mình.
Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách
Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hay thuộc loại nghiệp vụ mới sinh. Các nghiệp vụ vào cuối kỳ kế toán thường để điều chỉnh một số chênh lệch thừa thiếu để kết quả hoạt động kinh doanh được như kế hoạch đã đề ra. Các nghiệp vụ mới phát sinh thì kiểm toán viên cần đặt câu hỏi tại sao không phát sinh từ trước đến giờ và liệu kế toán có xử lý đúng chưa và từ đó đi tìm bằng chứng chứng minh
Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa
Các khoản mục vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý chung
b. Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hay có chênh lệch lớn với các kỳ trước hay giữa các nguồn thông tin liên quan.
Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán nhưng không cố ý tuy nhiên có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin
Các nghiệp vụ, khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần
Các khoản mục nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau: Đối với các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót trong kỳ là nhỏ nhưng nếu không điều chỉnh sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau thì được coi là trọng yếu.
Các sai sót ảnh hưởng đến lợi nhuận thường được coi là trọng yếu như một khoản lỗ được báo cáo như là một khoản lãi hay ngược lại.
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót sẽ gây ra hậu quả liên quan đến nhiều khảon mục, nghiệp vụ khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến BCTC. Ví dụ hàng tồn kho bị tính giá sai sẽ ảnh hưởng đến giá vốn hàng bán, lợi nhuận…
Sự mô tả không đúng đắn, không xác đáng về chính sách kế toán của doanh nghiệp làm cho người sử dụng BCTC sẽ hiểu sai về bản chất thông tin
1.1.4 Đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán. Quá trình này được khái quát qua năm bước và được thể hiện qua sơ đồ 1.1
- Bước 1: Ước lượng ban đầu về trọng yếu
- Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục
- Bước 3: Ước lượng tổng số sai sót trong từng khoản mục
- Bước 4: Ước tính sai số kết hợp
- Bước 5: So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu về trọng yếu
Sơ đồ 1.1: Các bước xác định và vận dụng tính trọng yếu
Bước 1 Ước lượng ban đầu về trọng yếu
Bước 2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục
Bước 3 Ước lượng tổng số sai sót trong các khoản mục
Bước 4 Ước tính sai số kết hợp
Bước 5 So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu về trọng yếu
Trong 5 bước trên, bước 1 và 2 được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Bước 3, 4, 5 được tiến hành trong giai đoạn thực hiện kiểm toán
1.1.4.1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán viên tin rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin tài chính. Hay nói cách khác, đó chính là những sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn bộ báo cáo tài chính
Việc ước lượng ban đầu về trọng yếu giúp kiểm toán viên lập kế hoạch để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Nếu các kiểm toán viên ước lượng mức trọng yếu càng thấp nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên BCTC càng cao thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều và ngược lại
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu mang tính chất xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Do đó, ước lượng ban đầu về trọng yếu không cố định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán viên thấy ước lượng ban đầu là không phù hợp vì một trong các nhân tố xác định mức ước lượng này thay đổi.
Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm toán” đã quy định: “Việc đánh giá của chuyên gia kiểm toán về vấn đề trọng yếu và rủi ro kiểm toán ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể khác với thời điểm đánh giá kết quả cuối cùng của các thủ tục kiểm toán. Nguyên nhân của sự khác nhau này là sự thay đổi tình hình thực tế hay sự thay đổi về nhận biết của chuyên gia sau một thời gian làm kiểm toán”
Mặc dù ước lượng ban đầu về trọng yếu là một xét đoán nghề nghiệp mang tính chủ quan của kiểm toán viên song trên thực tế, để hỗ trợ cho kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán, các công ty thường có đường lối chỉ đạo ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thông qua việc hướng dẫn các chỉ tiêu được chọn làm gốc trong từng trường hợp cụ thể, tỷ lệ tính mức trọng yếu với từng chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này phải là các chỉ tiêu có tính ổn định qua các năm.
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thường được áp dụng tại các công ty kiểm toán quốc tế như sau:
Từ 5% - 10% đối với lợi nhuận trước thuế
Từ 0.5% - 1% đối với doanh thu
Từ 2% - 4% hay từ 3% - 6% đối với tài sản lưu động hay nợ ngắn hạn
Từ 1% - 2% đối với tổng tài sản
….
1.1.4.2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC
Sau khi kiểm toán viên đã có ước lượng ban đầu về trọng yếu cho toàn bộ báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phân bổ ước lượng này cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính. Đây chính là sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục
Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục nhằm mục đích giúp kiểm toán viên xác định số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp cần thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất mà vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót trên BCTC không vượt quá mức ước lượng ban đầu về trọng yếu
Hầu hết các sai sót trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đều có ảnh hưởng tương tự như trên bảng cân đối kế toán do hệ thống bút toán ghi sổ kép. Vì thế trong phần lớn các cuộc kiểm toán và hầu hết các thủ tục kiểm toán, việc phân bổ này chủ yếu cho các khoản mục trên bảng cân đối kế toán.
Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục được thực hiện theo cả hai hướng: khai khống (báo cáo thừa) và khai thiếu (báo cáo thiếu)
Cơ sở để tiến hành phân bổ là bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát đối với từng khoản mục, chi phí kiểm toán. Tuy nhiên trên thực tế rất khó biết trước được những tài khoản nào có khả năng sai số, chi phí liên quan đến kiểm toán khó có thể xác định vì vậy công việc này thường do các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm thực hiện. Ví dụ như chi phí thu thập bằng chứng về hàng tồn kho cao hơn chi phí thu thập về công nợ nên sai số có thể chấp nhận được của hàng tồn kho cao hơn sai số có thể chấp nhận được đối với công nợ. hay không có sai số có thể chấp nhận được với lãi chưa phân phối vì chỉ tiêu này chỉ sinh ra từ sai số các tài khoản khác.
1.1.4.3 Ước tính tổng số sai sót cho từng khoản mục
Bằng các thủ tục kiểm toán được áp dụng, kiểm toán viên phát hiện ra các sai sót đối với từng khoản mục. Dựa vào các sai sót này để ước tính tổng số các sai sót đối với từng khoản mục. Đây là sai sót dự kiến, kiểm toán viên sẽ so sánh nó với sai sót có thể chấp nhận được nhằm quyết định xem khoản mục đó có thể chấp nhận hay không hay phải tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán thích hợp khác.
1.1.4.4 Ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được
Sau khi ước tính sai sót cho từng khoản mục, kiểm toán viên tiến hành ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được. Tổng số sai sót có thể chấp nhận được chính là tổng số sai sót dự kiến cho tất cả các khoản mục trên báo cáo tài chính
1.1.4.5 So sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng yếu hay ước lượng ban đầu về trọng yếu đã có sự điều chỉnh
Việc so sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng yếu cho phép kiểm toán viên đánh giá toàn bộ các sai sót trong các khoản mục có vượt quá giới hạn về mức trọng yếu chung cho toàn bộ báo cáo tài chính không. Nếu sai số kết hợp lớn hơn mức ước tính về trọng yếu thì BCTC không được chấp nhận toàn phần. Trong trường hợp sai số kết hợp lớn hơn mức ước tính ban đầu về trọng yếu chủ yếu do một số tài khoản có ước tính cao thì kiểm toán viên tiến hành so sánh ước tính sai số kết hợp sau khi trừ đi sai sót do các khoản mục trên gây ra với ước tính ban đầu về trọng yếu sau khi trừ đi mức trọng yếu phân bổ cho các khoản mục trên. Nếu mức sai sót kết hợp thấp hơn thì kiểm toán viên sẽ tập trung tăng cường thủ tục kiểm toán đối với các khoản mục có sai sót trọng yếu và mở rộng quy mô mẫu hay yêu cầu khách hàng điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên. Lúc này, kiểm toán viên không cần tiến hành thêm các thử nghiệm kiểm toán chung trên toàn bộ BCTC nữa. Nếu khách hàng không điều chỉnh và các thủ tục kiểm toán bổ sung vẫn khẳng định có sai sót trọng yếu thì kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần.
Trong quá trình kiểm toán, nếu kiểm toán viên phát hiện ra một số yếu tố ảnh hưởng đến việc ước lượng ban đầu về trọng yếu thì kiểm toán viên có thể ước lượng lại. Kiểm toán viên sẽ tiến hành so sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng về trọng yếu đã được điều chỉnh.
Nếu mức sai số kết hợp gần bằng ước lượng ban đầu về trọng yếu hay ước lượng về trọng yếu đã được điều chỉnh thì đảm bảo nguyên tắc thận trọng, kiểm toán viên thường yêu cầu Ban Giám Đốc điều chỉnh lại các sai sót có quy mô lớn hay mở rộng quy mô mẫu và tiến hành các thủ tục kiểm toán bổ sung với các khoản mục này.
1.2 Rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.1 Khái niệm rủi ro kiểm toán
Để hiểu được rủi ro kiểm toán trước hết ta cần hiểu rủi ro là gì và phân biệt một số loại rủi ro được đề cập trong lĩnh vực kiểm toán.
Theo từ điển Tiếng Việt, rủi ro là tính từ để chỉ việc không may xảy ra. Trong lĩnh vực kiểm toán, ta cần phân biệt rủi ro kiểm toán và rủi ro kinh doanh. Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro mà công ty kiểm toán thường gặp phải khi nhấp nhận kiểm toán. Đây là loại rủi ro công ty kiểm toán sẽ phải chịu thiệt hại vì mối quan hệ với khách hàng. Rủi ro kinh doanh liên quan đến trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính cho khách hàng.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) “ Trọng yếu và rủi ro kiểm toán” do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro ma kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là sai sót nghiêm trọng”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” (VSA 400) và Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 400, khái niệm rủi ro kiểm toán được định nghĩa như sau: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”.
Rủi ro kiểm toán chủ yếu được kiểm toán viên xác định trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 đã quy định: “Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch kiểm toán và trước khi thực hiện kiểm toán”. Rủi ro kiểm toán được xác định sẽ giúp kiểm toán viên có chiến lược chung với hợp đồng kiểm toán, bố trí nhân sự, thời gian cho cuộc kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán thích hợp cho các khoản mục trên báo cáo tài chính.
1.2.2 Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán
Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm tàng ( Inherrent Risk – IR), rủi ro kiểm soát ( Control Risk - CR) và rủi ro phát hiện ( Detection Risk – DR ).
1.2.2.1 Rủi ro tiềm tàng
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”: “ Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hay của một loại nghiệp vụ đối với những sai sót có thể là nghiêm trọng, những sai sót này có thể là đơn lẻ hay có thể kết hợp với sai sót ở các số dư và các nghiệp vụ khác (ở đây giả định rằng không có quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong môi trường kinh doanh cũng như nằm trong bản chất của các số dư tài khoản hay các loại nghiệp vụ”.
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400: “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ “ quy định: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hay tính gộp mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”
1.2.2.2 Rủi ro kiểm soát
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”: “ Rủi ro kiểm soát là rủi ro do phát hiện sai, có thể xảy ra với một số dư tài khoản hay một loại nghiệp vụ và có thể sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này có thể xảy ra đơn lẻ hay có thể kết hợp sai sót của các số dư, các loại nghiệp vụ khác mà hệ thống kiểm soát nội bộ đã không ngăn chặn hay không phát hiện kịp thời.”
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hay tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hay không phát hiện và sửa chữa kịp thời”.
Như vậy, rủi ro kiểm soát là loại rủi ro liên quan đến sự yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ.
1.2.2.3 Rủi ro phát hiện
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”: “ Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm toán viên không phát hiện ra các sáíot hiện có trong các số dư tài khoản hay các loại nghiệp vụ. Những sai sót này có thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hay có thể kết hợp với các sai sót trong số dư, các loại nghiệp vụ khác. Mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán của kiểm toán viên”
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hay tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được”
1.2.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro dùng để đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Để tìm hiểu mối quan hệ giữa các loại rủi ro, trước hết ta tìm hiểu về mô hình rủi ro kiểm toán.
1.2.3.1 Mô hình rủi ro kiểm toán
Ta có:
AR = IR x CR x DR
Trong đó: AR: Rủi ro kiểm toán IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm soát DR: Rủi ro phát hiện
Mô hình rủi ro kiểm toán được sử dụng khi lập kế hoạch kiểm toán theo một hay cả hai cách. Cách thứ nhất là mô hình được dùng để giúp kiểm toán viên đánh giá liệu kế hoạch kiểm toán có hợp lý không. Ví dụ với một cuộc kiểm toán nhất định, kiểm toán viên đánh giá Rủi ro tiềm tàng IR=0,5, Rủi ro kiểm soat CR=0,25, Rủi ro phát hiện DR=0,1 thì AR=0,5 x 0,25 x 0,1=0,0125. Nếu kiểm toán viên kết luận là rủi ro kiểm toán thích hợp đối với hợp đồng kiểm toán không thấp hơn 1,25% thì kế hoạch đó được chấp nhận.
Tuy nhiên để có được một kế hoạch hiệu quả hơn, kiểm toán viên thường sử dụng mô hình kiểm toán theo cách thứ hai để xác định rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng thích hợp phải thu thập. Theo cách này, ban đầu khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên sẽ xác định ra một mức rủi ro kiểm toán mong muốn chung cho cuộc kiểm toán ( ví dụ DAR=0,0125). Sau đó trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên sẽ đánh giá được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát ( ví dụ 0,5 và 0,25). Lúc này để đảm bảo cho cuộc kiểm toán có mức độ rủi ro kiểm toán ở mức như dự kiến ban đầu, kiểm toán viên xác định rủi ro phát hiện theo công thức
DR = DAR
IR x CR
Do đó, rủi ro phát hiện sẽ là 0,1. Từ đó, kiểm toán viên lập chương trình kiểm toán thích hợp để thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp đảm bảo rủi ro phát hiện ở mức 0,1 và rủi ro kiểm toán ở mức 0,0125
Rủi ro kiểm toán được xác định theo cách thứ hai này được kiểm toán viên sử dụng phổ biến hơn. Theo cách này, rủi ro kiểm toán được xác định từ ban đầu cuộc kiểm toán và được gọi là rủi ro kiểm toán mong muốn (Desired Audit Risk- DAR). Đây là mức độ mà kiểm toán viên sẵn sàng chấp nhận là báo cáo tài chính có thể sai sót sau khi cuộc kiểm toán đã hoàn thành và đi đến ý kiến chấp nhận toàn phần. Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định một cách chủ quan theo kinh nghiệm của kiểm toán viên. Khi kiểm toán viên quyết định một tỷ lệ rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn có nghĩa là kiểm toán viên muốn chắc chắn hơn là các báo cáo tài chính không bị sai phạm trọng yếu. Rủi ro kiểm toán mong muốn =0 thể hiện kiểm toán viên hoàn toàn chắc chắn là báo cáo tài chính không có sai phạm trọng yếu. Rủi ro kiểm toán mong muốn = 1 thể hiện kiểm toán viên hoàn toàn không chắc chắn rằng báo cáo tài chính không có sai phạm trọng yếu. Như vậy DAR có thể nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Rủi ro kiểm toán mong muốn = 0 là điều rất hiếm xảy ra trong kiểm toán báo cáo tài chính vì bị giới hạn về thời gian và chi phí cho cuộc kiểm toán.
Mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định dựa vào hai yếu tố chủ yếu là: Mức độ mà theo đó những người sử dụng bên ngoài tin vào báo cáo tài chính và khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn tài chính sau khi Báo cáo kiểm toán được công bố.
Mức độ mà theo đó những người sử dụng bên ngoài tin vào báo cáo tài chính
Khi người sử dụng bên ngoài đặt nhiều niềm tin vào báo cáo tài chính thì mức độ ảnh hưởng trên phạm vi toàn xã hội sẽ càng lớn nếu có một sai sót không được phát hiện trên báo cáo tài chính. Do đó, kiểm toán viên cần xác định một mức rủi ro kiểm toán thấp để tăng số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập và tăng độ chính xác trong các kết luận kiểm toán. Mức độ mà các báo cáo tài chính được người sử dụng bên ngoài tin tưởng phụ thuộc vào một số yếu tố như:
Quy mô của công ty khách hàng: Hoạt động của khách hàng càng lớn thì báo cáo tài chính càng được sử dụng rộng rãi. Quy mô của công ty khách hàng được đo lường bằng tổng tài sản, thu nhập và số lao động. Các chỉ tiêu này càng lớn thì rủi ro kiểm toán mong muốn càng thấp.
Sự phân phối quyền sở hữu: Các báo cáo của các công ty sở hữu công cộng thường được người sử dụng tin tưởng hơn các báo cáo của các công ty có quyền sử dụng hẹp hơn và khi đó, rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức thấp hơn. Ví dụ như công ty cổ phần niêm yết trên sàn có mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn so với công ty cổ phần nhưng chưa niêm yết vì số lượng người quan tâm đến báo cáo tài chính nhiều hơn.
Bản chất và quy mô công nợ: Khi các báo cáo tài chính bao gồm một số lượng lớn công nợ, chúng có nhiều khả năng được sử dụng rộng rãi bởi các chủ nợ thực tế và tiềm năng hơn là khi có ít công nợ. Lúc này rủi ro kiểm toán mong muốn được đánh giá thấp hơn.
Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn tài chính sau khi Báo cáo kiểm toán được phát hành
Nếu khả năng này càng cao thì kiểm toán viên phải thiết lập một mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn so với khách hàng gặp ít khó khăn tài chính hơn, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Điều này làm cho chi phí kiểm toán tăng lên để giảm thiểu khả năng các vụ kiện mà kiểm toán viên và công ty kiểm toán sẽ phải đương đầu trong tương lai.
Việc đoán khả năng khách hàng gặp khó khăn tài chính trong tương lai là điều không đơn giản nhưng kiểm toán viên có thể dựa vào một số yếu tố sau để phán đoán sự kiện này:
Khả năng thanh toán: Nếu một khách hàng thường xuyên thiếu tiền mặt, vốn lưu động điều này là một dấu hiệu xấu về khả năng thanh toán. Kiểm toán viên cần đánh giá khả năng và ý nghĩa của tình trạng này khi nó trở nên xấu hơn.
Các khoản lãi, lỗ trong các năm trước: Khi một công ty giảm nhanh các khoản lãi (lỗ) trong vài năm, kiểm toán viên cần nhận biết các vấn đề trong tương lai về khả năng thanh toán, tiếp tục hoạt động mà khách hàng có thể gặp phải.
Các cách thức làm tăng quy mô vốn: Nếu công ty khách hàng mở rộng quy mô vốn bằng cách vay nợ thì rủi ro gặp khó khăn về tài chính càng lớn nếu các hoạt động của khách hàng trở nên kém thành công.
Bản chất hoạt động kinh doanh của công ty khách hàng: Một số loại hình doanh nghiệp nhất định có nhiều rủi ro hơn các loại hình doanh nghiệp khác. Ví dụ với các điều kiện khác không đổi thì công ty môi giới chứng khoán có khả năng phá sản cao hơn một công ty điện nước.
Năng lực của ban giám đốc: nếu ban giám đốc có năng lực kém thì khả năng công ty gặp khó khăn về mặt tài chính sẽ tăng lên.
Ngoài ra còn phải xét đến các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp như: các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, về sự thay đổi các chính sách kinh tế….
Căn cứ vào các yếu tố trên, kiểm toán viên sẽ xác định một mức rủi ro kiểm toán mong muốn cho toàn bộ báo cáo tài chính. Kiểm toán viên có thể dựa vào rủi ro kiểm toán mong muốn của toàn bộ báo cáo tài chính để đưa ra rủi ro kiểm toán mong muốn cho từng khoản mục. Ví dụ: Kiểm toán viên lập rủi ro kiểm toán mong muốn cho toàn bộ báo cáo tài chính ở mức trung bình vì số người sử dụng báo cáo tài chính hạnh chế và lợi nhuận từ hoạt động trước đây là binh thường thì kiểm toán viên có khả năng sử dụng mức rủi ro kiểm toán trung bình đối với các khoản phải thu, tài sản cố định và tất cả các khoản mục chủ yếu khác.
Kiểm toán viên thường dùng cùng một mức rủi ro kiểm toán mong muốn đối với từng bộ phận vì các yếu tố có ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán mong muốn thường liên quan đến toàn bộ cuộc kiểm toán chứ không phải đến từng bộ phận riêng biệt. Tuy vậy trong một số trường hợp đặc biệt, một mức rủi ro kiểm toán mong muốn lớn hơn có thể thích hợp hơn bộ phận này so với bộ phận khác. Trong ví dụ trên, cho dù kiểm toán viên quyết định sử dụng rủi ro kiểm toán trung bình đối với cuộc kiểm toán nói chung, kiểm toán viên có thể quyết định giảm rủi ro kiểm toán mong muốn xuông thấp hơn đối với hàng tồn kho nếu hàng tồn kho được sử dụng như là một vật thế chấp cho một khoản vay ngắn hạn.
1.2.3.2 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Qua nghiên cứu các loại rủi ro và mô hình rủi ro kiểm toán, chúng ta thấy rằng rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác với rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán ở chỗ các loại rủi ro này tồn tại độc lập, khách quan với các thông tin tài chính. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh và môi trường quản lý của doanh nghiệp cũng như trong bản chất của số dư tài khoản, các loại nghiệp vụ cho dù có hay không có công việc kiểm toán. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên kiểm toán viên thường kết hợp cùng lúc việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
Trong khi đó rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán được đánh giá và xác định phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của kiểm toán viên. Kiểm toán viên thường xác định rủi ro kiểm toán ngay từ đầu khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Còn rủi ro phát hiện được xác định cuối cùng sau khi đã xác định rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát dựa trên việc thiết kế các thủ tục kiểm toán để đảm bảo rủi ro kiểm toán ở mức mong muốn.
Rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá cao thì rủi ro phát hiện có thể được đánh giá ở mức độ thấp để giảm rủi ro kiểm toán ở mức thấp nhất có thể chấp nhận được. Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp thì có thể chấp nhận mức độ rủi ro phát hiệncao hơn nhưng vẫn phải đảm bảo rủi ro kiểm toán xuống thấp ở mức có thể chấp nhận được
Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng sau đây:
Bảng 1.1: Dự kiến rủi ro phát hiện
Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro kiểm soát
Cao Trung bình Thấp
Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
Trong đó:
• Mỗi loại rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát đều được chia thành ba mức: cao, trung bình, thấp
• Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện
• Rủi ro phát hiện được chia thành năm mức: cao nhất, cao, trung bình, thấp, thấp nhất
1.2.4 Đánh giá rủi ro kiểm toán
1.2.4.1 Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Rủi ro tiềm tàng được kiểm toán viên đánh giá cho toàn bộ báo cáo tài chính trong khi lập kế hoạch kiểm toán. Đồng thời kiểm toán viên cũng xác định rủi ro tiềm tàng cho các số dư hay các loại nghiệp vụ trong khi lập chương trình kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” : “Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư và các loại nghiệp vụ quan trọng đến từng cơ sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác đinh cụ thể thì kiểm toán viên phải giả định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ vào mức độ đánh giá rủi ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện cho các nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên báo cáo tài chính, hay các nghiệp vụ, khoản mục mà kiểm toán viên đánh giá là có rủi ro tiềm tàng cao”.
a. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện báo cáo tài chính
Trên phương diện báo cáo tài chính, kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng dựa vào các nhân tố chủ yếu sau:
Sự liêm khiết, kinh nghiệm và sự hiểu biết của Ban Giám Đốc cũng như sự thay đổi thành phần ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán trước. Ban Giám Đốc không thể xem là hoàn toàn trung thực trong mọi trường hợp. Trong trường hợp Ban Giám đốc bị kiểm soát bởi một hay một số ít cá nhân thiếu tính trung thực thì khả năng báo cáo tài chính bị báo cáo sai là tăng lên, do vậy rủi ro tiềm tàng sẽ được đánh giá ở mức cao….
Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của kế toán trưởng, của các nhân viên kế toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ. Nếu kế toán trưởng có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm nhiều thì họ có khả năng kiểm soát và ngăn chặn các sai sót và gian lận. Ngược lại nếu kế toán trưởng không có trình độ chuyên môn cao và nhiều kinh nghiệm thì báo cáo tài chính sẽ chứa đựng nhiều sai sót thậm chí gian lận không được ngăn chặn và phát hiện. Tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng kế toán trưởng sử dụng trình độ của mình để gian lận.
Những áp lực bất thường đối với Ban Giám Đốc, kế toán trưởng thúc đẩy Ban giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày báo cáo tài chính không được trung thực. Ví dụ khi Ngân Hàng, hội đồng quản trị yêu cầu doanh nghiệp phải có lãi sau một vài năm hoạt động bị thua lỗ hay khi doanh nghiệp cần thu hút vốn đầu tư của bên ngoài…
Đặc điểm hoạt động của đơn vị như: Quy trình công nghệ, cơ cấu, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ…
Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị như: các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi thị trường, sự thay đổi hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị. Nếu tình hình kinh tế, thị trường hay sự thay đổi hệ thống kế toán tác động đến doanh nghiệp thì rủi ro tiềm tàng thường được đánh giá cao.
Hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên và hợp đồng kiểm toán dài hạn: Đối với hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên, kiểm toán viên thường thiếu hiểu biết và kinh nghiệm về những sai sót của đơn vị khách hàng nên kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm toán cao hơn so với hợp đồng kiểm toán dài hạn.
b. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên cần dựa vào các nhân tố sau:
Báo cáo tài chính có những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước: Các báo cáo tài chính này thường được đánh giá rủi ro tiềm tàng cao bởi vì có thể những điều chỉnh không đúng theo những sai sót trong niên độ trước hay không đánh giá được chính xác sự tác động của những sai sót trong kỳ trước đến kỳ này.
Báo cáo tài chính có nhiều ước tính kế toán: Đối với các tài khoản phản ánh các ước tính kế toán như dự phòng phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho,…thì việc hạch toán các khoản mục này không những đòi hỏi sự hiểu biết về bản chất, khoản mục liên quan về mặt lý thuyết mà còn cả kinh nghiệm và sự xét đoán chủ quan của người có trách nhiệm. Vì vậy rủi ro tiềm tàng thường được đánh giá cao khi báo cáo tài chính có nhiều ước tính kế toán.
Trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán: Trong trường hợp việc áp dụng các chính sách kế toán trong doanh nghiệp còn chậm hay chưa đúng chế độ kế toán thì rủi ro tiềm tàng cũng được đánh giá cao.
Kết quả kiểm toán lần trước: Đối với những tài khoản được phát hiện có sai phạm trong các lần kiểm toán của năm trước, rủi ro tiềm tàng thường được xác định ở mức cao. Bởi vì nhiều loại sai phạm có tính chất hệ thống và các đơn vị thường chậm chạp không tiến hành sửa chữa nên các sai phạm đã xảy ra trong năm trước có thể vẫn tiếp diễn trong các năm sau.
Mức độ dễ mất mát, biển thủ tài sản như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu, chi tiền mặt, tạm ứng tiền mặt với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài…
Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý kiến của chuyên gia như xảy ra kiện tụng hay trộm cắp…
Quy mô của các số dư tài khoản: Các tài khoản có số dư bằng tiền lớn thường được đánh giá rủi ro tiềm tàng cao hơn.
Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường, phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm kết thúc niên độ.
Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
1.2.4.2 Đánh giá rủi ro kiểm soát
a. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong mối quan hệ với rủi ro kiểm soát
Theo Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC), hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục bao gồm bốn mục tiêu: mục tiêu bảo vệ tài sản của đơn vị, bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý và bảo đảm hiệu quả của hoạt động. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm bốn yếu tố cơ bản: môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, các thủ tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ.
Hệ thống kiểm soát nội bộ có mối quan hệ chặt chẽ với rủi ro kiểm soát. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành có hiệu quả để ngăn ngừa hết những sai sót trọng yếu có thể xảy ra thì rủi ro kiểm soát bằng 0. Tuy nhiên trong thực tế rủi ro kiểm soát không bao giờ bằng 0 vì sự hạn chế tiềm tàng của hệ thống kiểm soát nội bộ. Đó là:
Ban quản lý luôn yêu cầu chi phí cho hệ thống kiểm soát nội bộ không vượt quá những lợi ích mà hệ thóng đó mang lại.
Phần lớn các thủ tục kiểm soát nội bộ thường được thiết lập cho các nghiệp vụ thường xuyên, lặp đi lặp lại hơn là những nghiệp vụ bất thường, không thường xuyên.
Không loại trừ được rủi ro, sai sót của con người, xuất phát từ sự thiếu chủ ý, đãng trí, sai sót về xét đoán hay do không hiểu các chỉ thị
Khả năng vượt tầm kiểm soát của hệ thống kiểm soát nội bộ do có sự thông đồng của một người trong ban giám đốc hay một nhân viên với những người khác ở trong hay ngoài đơn vị
Khả năng người chịu trách nhiệm thực hiện kiểm soát nội bộ lạm dụng đặc quyền của mình.
Do có sự biến dộng tình hình, các thủ tục kiểm soát có khả năng không còn thích hợp và do đó không được áp dụng.
b. Quy trình đánh giá rủi ro kiểm soát
Quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát cũng chính là quá trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát được khái quát thành bốn bước:
Bước 1: Thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ và mô tả chi tiết hệ thống kiểm soát nội bộ trên giấy tờ làm việc
Trong giai đoạn này, kiểm toán viên tìm hiểu về kiểm soát nội bộ của đơn vị trên hai mặt chủ yếu: thiết kế kiểm soát nội bộ bao gồm thiết kế về quy chế kiểm soát và thiết kế về bộ máy kiểm toán; hoạt động liên tục và có hiệu lực của kiểm soát nội bộ
Để đạt được sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên áp dụng các phương pháp sau:
Dựa vào kinh nghiệm trước đây của kiểm toán viên với khách hàng.
Hầu hết các cuộc kiểm toán của một công ty được một công ty kiểm toán thực hiện hàng năm. Do vậy kiểm toán viên thường bắt đầu cuộc kiểm toán với một khối lượng lớn thông tin về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng đã thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước. Bởi vì các hệ thống kiểm soát thường thay đổi thường xuyên nên thông tin có thể được cập nhất hoá và mang sang năm hiện hành.
Thẩm vấn nhân viên của công ty khách hàng.
Công việc này giúp cho kiểm toán viên thu thập được các thông tin ban đầu đối với khách hàng mới hay nắm bắt được những thay đổi của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng đối với khách hàng thường niên để cập nhật thông tin cho cuộc kiểm toán ở năm hiện hành
Xem xét các sổ tay về thủ tục và chế độ của công ty khách hàng để hiểu rõ được các thủ tục và chế độ liên quan đang được áp dụng tại công ty.
Kiểm tra các chứng từ và sổ sách đã hoàn tất để thấy được việc vận dụng các thủ tục và chế độ trên tại công ty
Quan sát các mặt hoạt động và quá trình hoạt động của công ty khách hàng để củng cố thêm sự hiểu biết và kiến thức về thực tế sử dụng các thủ tục và chế độ kiểm soát nội bộ tại công ty khách hàng.
Để mô tả hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên sử dụng một trong ba phương pháp hay cả ba phương pháp sau tuỳ từng trường hợp đặc điểm của đơn vị được kiểm toán và quy mô kiểm toán: Vẽ các lưu đồ, lập Bảng câu hỏi về kiểm soát nội bộ; lập bảng tường thuật về kiểm soát nội bộ.
Bước 2: Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát để lập kế hoạch cho các khoản mục trên báo cáo tài chính.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 400 quy định: “Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát là việc đánh giá hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị trong việc ngăn ngừa hay phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu. Dựa trên sự hiểu biết hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho từng số dư tài khoản hay các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu”
Sau khi thu thập được một sự hiểu biết về cách thiết kế và sự vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên sẽ đưa ra đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát cho từng mục tiêu kiểm soát chi tiết. Công việc này được làm riêng rẽ cho từng loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu trong từng chu trình nghiệp vụ theo các bước sau:
Nhận diện các mục tiêu kiểm soát mà theo đó quá trình đánh giá vận dụng.
Kiểm toán viên vận dụng các mục tiêu kiểm soát nội bộ cụ thể cho từng loại nghiệp vụ chủ yếu của công ty mà theo đó có thể đánh giá rủi ro kiểm soát đối với từng khoản mục
Nhận diện các quá trình kiểm soát đặc thù
Ở bước này, kiểm toán viên không cần thiết phải xem xét mọi quá trình kiểm soát mà chỉ phải nhận diện và phân tích các quá trình kiểm soát dự kiến có ảnh hưởng lớn nhất đến việc thoả mãn mục tiêu kiểm soát mà sẽ mang lại tính hiệu quả cho cuộc kiểm toán.
Nhận diện và đánh giá các nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Nhược điểm được hiểu là sự vắng mặt của các quá trình kiểm soát thích đáng mà điều này sẽ làm tăng khả năng rủi ro của việc tồn tại các sai phạm trên báo cáo tài chính.
Đánh giá rủi ro kiểm soát.
Khi đã nhận diện được quá trình kiểm soát và nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát ban đầu đối với từng mục tiêu kiểm soát của từng loại nghiệp vụ kinh tế. Kiểm toán viên có thể đánh giá rủi ro theo yếu tố định tính thấp, trung bình, cao hay theo tỷ lệ phần trăm.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400, kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm soát là cao trong trường hợp:
Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không đầy đủ
Việc đánh giá sự áp dụng của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ được xem là không đủ
Kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ không cao đối với cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính trong trường hợp:
Kiểm toán viên có đủ cơ sở để kết luận hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ được thiết kế có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu
Kiểm toán viên có kế hoạch thực hiện thử nghiệm kiểm soát làm cơ sở cho việc đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát.
Bước 3: Thực hiện thử nghiệm kiểm soát (thử nghiệm tuân thủ)
Mục đích của thử nghiệm này là để thu thập bằng chứng kiểm toán về sự thiết kế phù hợp và sự vận hành hữu hiệu của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, từ đó có thể đánh giá rủi ro kiểm soát thấp hơn mức ban đầu nhằm giảm bớt các thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ
Thử nghiệm kiểm soát được thực hiện với những phương pháp khác nhau tuỳ từng trường hợp vào từng trường hợp cụ thể. Phương pháp kiểm tra tài liệu hay thực hiện lại các thủ tục kiểm soát được áp dụng nếu các thủ tục để lại các “dấu vết” trực tiếp trên tài liệu như các chữ ký phê duyệt, hoá đơn lưu lại…Nếu các “dấu vết” để lại là gián tiếp thì kiểm toán viên thực hiện lại các thủ tục kiểm soát như kiểm tra bảng đối chiếu tiền gửi ngân hàng, xem xét bảng kiểm kê quỹ…Đối với các thủ tục kiểm soát không để lại dấu vết trong tài liệu, kiểm toán viên tiến hành quan sát các hoạt động liên quan đến kiểm soát nội bộ hay phỏng vấn nhân viên đơn vị về các thủ tục kiểm soát.
Dựa trên kết quả các thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên phải xác định xem hệ thống kiểm soát nội bộ có được thiết kế và thực hiện phù hợp với các đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát không. Nếu có thay đổi lớn thì kiểm toán viên phải xem xét lại mức độ rủi ro kiểm soát và phải thay đổi nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản đã dự kiến.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 400 quy định: “Kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để chứng minh cho việc đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ không cao. Việc đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát càng thấp thì kiểm toán viên càng phải chứng minh rõ là hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ đã được thiết kế phù hợp và hoạt động hiệu quả”
Bước 4: Lập bảng đánh giá kiểm soát nội bộ
Kiểm toán viên tiến hành tổng hợp kết quả khảo sát về hệ thống kiểm soát nội bộ bằng cách lập bảng đánh giá kiểm soát nội bộ theo những thông tin và các tiêu chuẩn đánh giá . Bảng đánh giá kiểm soát nội bộ thường phản ánh các thông tin sau:
Các mục tiêu của kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục hay chu trình nghiệp vụ
Các thông tin mô tả thực trạng kiểm soát nội bộ do kiểm toán viên thu thập
Bản chất và tính hệ trọng của các rủi ro tương ứng
Nguyên tắc thiết kế và vận hành các thủ tục kiểm soát
Đánh giá về kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục hay chu trình nghiệp vụ
Sau đó, kiểm toán viên kết luận về mức độ rủi ro kiểm soát và thiết kế lại các thử nghiệm cơ bản trên các số dư và nghiệp vụ trong trường hợp không thu thập được các bằng chứng đánh giá sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ như dự kiến. Kiểm toán viên chỉ giữ nguyên đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát nếu kết quả các thử nghiệm cho thấy cá thủ tục kiểm soát thực hiện hữu hiệu như đánh giá ban đầu của kiểm toán viên.
1.2.4.3 Xác định rủi ro phát hiện
Trong quá trình kiểm toán, rủi ro phát hiện bị ảnh hưởng bởi các nhân tố sau:
Các bước kiểm toán không thích hợp, thực hiện không hợp lý quy trình kiểm toán cho mỗi phần hành
Phát hiện ra bằng chứng nhưng không nhận thức được sai sót nên thường đưa ra kết luận sai về phần hành đó cũng như về báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên hoàn toàn không phát hiện ra các sai sót do có sự thông đồng nhất trí bên trong doanh nghiệp làm sai các chính sách và chế độ do ban giám đốc đề ra.
Rủi ro phát hiện được xác định từ ba loại rủi ro: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro kiểm toán và mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán. Vì 3 loại rủi ro này thay đổi với từng khoản mục trên báo cáo tài chính nên rủi ro phát hiện cũng thay đổi đối với từng khoản mục.
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 quy định: “Kiểm toán viên phải dựa vào đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát để giảm rủi ro phát hiện và giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được”
Mức độ rủi ro phát hiện có thể liên quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên. Tuy nhiên khó có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro phát hiện ngay cả khi kiểm toán viên kiểm tra chi tiết 100% các nghiệp vụ và các số dư tài khoản. Đánh giá của kiểm toán viên về các loại rủi ro có thể thay đổi trong quá trình kiểm toán. Nếu trong quá trình thực hiện kiểm toán, khi thực hiện các thử nghiệm cơ bản, kiểm toán viên phát hiện ra thêm những thông tin mới khác biệt so với ban đầu thì kiểm toán viên có thể thay đổi kế hoạch thực hiện các thử nghiệm cơ bản cho phù hợp với việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
1.3 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính và ảnh hưởng của nó đến phương pháp kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế IAS số 320 về tính trọng yếu trong kiểm toán, trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau đó là quan hệ tỷ lệ nghịch. Nếu mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Tức là khi mức trọng yếu tăng, khả năng sai sót có thể chấp nhận được cũng tăng, khi đó độ chính xác của thông tin không cần cao. Với một chương trình kiểm toán đã có sẽ làm giảm rủi ro kiểm toán. Ngược lại, nếu mức trọng yếu giảm thì khả năng sai sót có thể chấp nhận được giảm, khi đó thông tin cần độ chính xác cao hơn. Vì vậy nó sẽ làm rủi ro kiểm toán tăng.
Đối với các khoản mục, nghiệp vụ có mức trọng yếu càng cao tức là rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp thì kiểm toán viên có thể dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ để giảm các thử nghiệm cơ bản bằng cách tăng cường các thử nghiệm kiểm soát nhưng vẫn đảm bảo rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán ở mức thấp có thể chấp nhận được. Ngược lại, kiểm toán viên càng phải thu thập nhiều bằng chứng từ các thử nghiệm cơ bản. Nếu rủi ro kiểm soát ở mức quá cao, thì kiểm toán viên có thể bỏ qua không tiến hành các thử nghiệm kiểm soát mà tiến hành thực hiện các thử nghiệm cơ bản luôn.
Nếu kiểm toán viên lập xong chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phát hiện ra mức trọng yếu phải thấp hơn, lúc đó rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Lúc này, kiểm toán viên phải tăng cường phạm vi kiểm toán, lựa chọn các phương pháp kiểm toán thích hợp hơn để giảm rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán đến mức có thể chấp nhận được.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM (VAE.,LTD)
2.1 Tổng quan về Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
2.1.1.1 Giai đoạn từ khi thành lập đến năm 2002
Công ty TNHH Kiểm toán và định giá Việt Nam được thành lập vào ngày 21 tháng 12 năm 2001 và được Bộ tài chính Việt nam và Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà nội cấp giấy phép hành nghề, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103000692, hoạt động theo Luật doanh nghiệp và dưới hình thức ban đầu là công ty cổ phần gồm sáu cổ đông sáng lập. Vốn điều lệ của công ty là một tỷ VND, được chia thành 10.000 cổ phần, được phát hành dưới hình thức cổ phiếu và trị giá một cổ phiếu là 100.000 đồng. Trụ sở ban đầu của công ty đặt tại số 466 Đường Nguyễn Chí Thanh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
Tên giao dịch quốc tế của công ty là: Vietnam Auditing and Evaluation Joint Stock Company (VAE - JSC)
Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty gồm: Kiểm toán báo cáo tài chính, tư vấn đầu tư và kinh doanh, dịch vụ định giá và kiểm toán quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
2.1.1.2 Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2004
Do gặp phải một số khó khăn, công ty chuyển địa điểm về số nhà 5 dãy D số 142 Đường Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Chuyển về địa điểm mới công ty vẫn duy trì mối quan hệ với các khách hàng cũ đồng thời tích cực tìm kiếm các khách hàng mới. Bên cạnh đó tăng quy mô nhân viên và các dịch vụ cung cấp ngày càng phong phú và có chất lượng cao hơn.
2.1.1.3 Giai đoạn từ năm 2004 đến tháng 10 năm 2006
Cuối năm 2004, công ty đã mua trụ sở tại tầng 11 Toà nhà Sông Đà, số 165 Cầu Giấy, đây là trụ sở chính của công ty. Cũng trong năm này, công ty đã tăng vốn điều lệ lên 2 tỷ đồng đảm bảo đủ điều kiện cho dịch vụ kiểm toán các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Số lượng nhân viên của công ty lúc này lên tới gần 80 người. Các dịch vụ cung cấp gia tăng: Dịch vụ kiểm toán dự án, định giá tài sản. Bên cạnh đó công ty cũng chú trọng việc đào tạo để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn cho cán bộ, nhân viên. Cũng trong năm đó, công ty có sự thay đổi về tổ chức quản lý. Công ty thực hiện khoán doanh thu, khoán các chi phí như điện thoại, chi công tác phí và một số chi phí khác về các phòng nghiệp vụ. Sự thay đổi lớn nhất đó là ở cơ cấu tổ chức các phòng nghiệp vụ từ chiều dọc sang chiều ngang.
2.1.1.4 Giai đoạn từ tháng 10 năm 2006 đến nay
Theo Quyết định số 105, Quyết định 133 và Thông tư hướng dẫn số 64 của Bộ Tài chính, căn cứ trên biên bản họp đại hội đồng cổ đông ngày 23/9/2006, công ty cổ phần Kiểm toán và định giá Việt Nam chuyển đổi loại hình từ công ty cổ phần sang loại hình công ty Trách nhiệm hữu hạn với tên giao dịch chính thức từ đây là: Công ty TNHH kiểm toán và định giá Việt Nam ( VAE.,LTD – Vietnam Auditing and Evaluation Limited Company). Cùng với sự thành lập thêm một phòng nghiệp vụ nữa vào năm 2007, số lượng nhân viên của công ty lên tới khoảng 120 nhân viên, trong đó có trên 33 % số người đăng ký hành nghề kiểm toán và nhiều người có chứng chỉ CPA.
2.1.2 Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh
Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam là một pháp nhân hạch toán độc lập, tự trang trải chi phí bằng các nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ của mình và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
Công ty TNHH Kiểm toán và định giá Việt Nam cung cấp các dịch vụ rất đa dạng. Các dịch vụ đó là:
2.1.2.1 Dịch vụ kiểm toán, kế toán và thuế:Bao gồm: Kiểm toán độc lập Báo cáo tài chính; Kiểm toán xác nhận Báo cáo số lượng, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm; Xem xét và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ; Lập hệ thống kế toán, hướng dẫn thực hiện cho các doanh nghiệp; Cung cấp dịch vụ kế toán, tư vấn kế toán cho khách hàng; Tư vấn cho khách hàng về việc lập kế hoạch nộp thuế; Hướng dẫn khách hàng kê khai thuế; Lập kế hoạch tài chính
2.1.2.2 Dịch vụ kiểm toán xây dựng cơ bản: Bao gồm: Kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư XDCB hoàn thành của các công trình, dự án; Kiểm toán xác định giá trị quyết toán công trình; Kiểm toán Báo cáo tài chính hàng năm của các Ban quản lý dự án; Kiểm toán xác định giá trị quyết toán vốn đầu tư theo Thông tư số 12/2000/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 15 tháng 9 năm 2000 hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
2.1.2.3 Dịch vụ kiểm toán dự án: Bao gồm: Kiểm toán độc lập; Soát xét hệ thống kiểm soát nội bộ; Kiểm soát tính tuân thủ của dự án; Đánh giá khả năng thực hiện dự án; Hướng dẫn quản lý dự án
2.1.2.4 Dịch vụ định giá tài sản: Bao gồm: Định giá tài sản, vốn góp kinh doanh, sát nhập, giải thể doanh nghiệp; Định giá tài sản, vốn cổ phần hoá doanh nghiệp; Định giá tài sản thế chấp, chuyển nhượng, thuê, mua tài sản
2.1.2.5 Dịch vụ tư vấn kinh doanh : Bao gồm: Tư vấn về chính sách kinh tế hiện hành; Tư vấn về việc lựa chọn hình thức kinh doanh; Phân tích kế hoạch kinh doanh; Xem xét hợp đồng thoả thuận kinh doanh; Giúp thành lập văn phòng, chi nhánh tại Việt Nam; Giúp đàm phán, kí kết hợp đồng; Lập kế hoạch chiến lược; Đào tạo và hội thảo
2.1.2.6 Dịch vụ tư vấn đầu tư: Bao gồm: Tư vấn tìm hiểu, đánh giá thị trường, định hướng đầu tư; Lập báo cáo đầu tư cho các ngành hoạt động; Tư vấn lập tổng dự toán, dự toán, quyết toán, báo cáo quyết toán vốn đầu tư XDCB hoàn thành; Tư vấn thẩm định tổng dự toán, dự toán; Tư vấn lập hồ sơ mời thầu, phân tích đánh giá hồ sơ dự thầu; Tư vấn quản lý quá trình đầu tư
2.1.2.7 Dịch vụ chuyển đổi Báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán Quốc tế: Bao gồm: Dịch vụ chuyển đổi Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp phục vụ cho mục tiêu hợp nhất kết quả hoạt động với công ty mẹ theo chuẩn mực kế toán Quốc tế ; Dich vụ soát xét Báo cáo tài chính đã được chuyển đổi theo thông lệ kế toán Quốc tế phục vụ cho mục tiêu hợp nhất kết quả hoạt động với công ty mẹ
2.1.3 Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của đơn vị
Bộ máy quản lý của Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam bao gồm:
Hội đồng thành viên: là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Hội đồng thành viên quyết định chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty; quyết định giải pháp phát triển thị trường; bầu miễn nhiệm chủ tịch hội đồng thành viên, quyết định bổ nhiệm miễn nhiệm, ký hay chấm dứt hợp đồng với Tổng Giám Đốc; quyết định mức lương thưởng và lợi ích khác của Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng Giám Đốc; quyết định cơ cấu tổ chức quản lý của công ty; sửa đổi bổ sung điều lệ của công ty.
Tổng Giám Đốc: là người trực tiếp điều hành công việc hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của công ty; ban hành quy chế quản lý nội bộ công ty; trình Báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Hội đồng thành viên; xử lý lãi (lỗ) và tuyển dụng lao động.
Hội đồng khoa học: không trực tiếp tham gia kinh doanh nhưng giữ một vai trò quan trọng, tham mưu cho Hội đồng thành viên và Ban Giám Đốc công ty trong việc đưa ra các quyết định kinh doanh. Ngoài ra, Hội đồng khoa học còn tiến hành tổ chức các buổi đào tạo, xây dựng đội ngũ kiểm toán viên đủ năng lực góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp của công ty.
Các Giám Đốc: là người giúp việc cho Tổng Giám Đốc do Tổng Giám Đốc chỉ định, thay mặt Tổng Giám Đốc khi đi vắng hay thay mặt theo uỷ quyền trước pháp luật; trực tiếp điều hành các phòng nghiệp vụ. Có bốn Giám Đốc điều hành bốn phòng nghiệp vụ.
Các phòng nghiệp vụ 1, 2, 3, 4: trực tiếp cung cấp các dịch vụ cho khách hàng, từ kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán báo cáo quyết toán vốn xây dựng cơ bản, định giá, tư vấn thuế và các dịch vụ khác. Nhờ vào mô hình này, công ty có thể xác định hiệu quả hoạt động kinh tế của từng phòng nghiệp vụ, xác định được sự đóng góp của từng phòng nghiệp vụ vào lợi nhuận chung của công ty.
Phòng tổng hợp: bao gồm bộ phận kế toán, bộ phận lễ tân, bộ phận lái xe…Đây là một phòng đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác nhau, từ việc trả lương đến việc chăm lo đời sống ăn uống cho nhân viên.
Các văn phòng đại diện: nhằm mục đích tiếp thị, giới thiệu thương hiệu VAE.,LTD đến khách hàng, tìm kiếm và phát triển khách hàng; hoạt động theo sự chỉ đạo trực tiếp của công ty; tuy nhiên các văn phòng thay mặt không được trực tiếp ký kết các hợp đồng cũng như thực hiện việc cung cấp dịch vụ. Hiện nay có 3 văn phòng đại diện: văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh, văn phòng tại Thành phố Đà Nẵng và văn phòng tại thị xã Sơn La
Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của VAE.,LTD
2.1.4 Thành tựu đạt được
Từ khi thành lập tới nay, công ty đã không ngừng phát triển cả về quy mô và chất lượng dịch vụ. Các chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận liên tục tăng qua các năm. Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu kết quả hoạt động kinh doanh của VAE.,LTD các năm
Đợn vị: VND.
Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Doanh thu thuần 7.115.687.964 9.001.352.123 11.745.321. 823 >15.000.000.000
Lợi nhuận trước thuế 1.013.167.070 1.102.302.494 1.432.501.164 2.432.156.145
Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình hoạt động kinh doanh của công ty tiến triển rất tốt, đạt được sự tăng trưởng về doanh thu thuần và lợi nhuận trước thuế. Sở dĩ đạt được như vậy là do công ty đã có sự thay đổi về tổ chức và quản lý. Công ty thực hiện khoán doanh thu, khoán chi phí tới các phòng nghiệp vụ. Điều này đã đem lại động lực cho sự tăng trưởng của cả công ty. Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại Thế giới WTO đã làm cho thị trường ngày càng mở rộng đối với VAE.,LTD. Doanh thu năm 2007 đạt tới trên 15 tỷ đồng.
Với các kết quả trên, công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam luôn đứng đầu trong nhóm 10 công ty kiểm toán độc lập có các chỉ số cao nhất và được Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xác nhận:
• Là 1 trong các công ty có đủ điều kiện thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính các năm 2005, 2006 và 2007 theo công văn số 14700/BTC-CĐKT ngày 18/11/2005 của Bộ Tài chính và công văn số 127/VACPA ngày 22/11/2006 của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam
• Là 1 trong 12 công ty kiểm toán được chấp thuận kiểm toán cho các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh Chứng khoán tại Việt nam theo công văn số 724/QĐ-UBCK ngày 30/11/2006 của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
• Là 1 trong 47 tổ chức có đủ điều kiện thực hiện công tác xác định giá trị doanh nghiệp năm 2006 theo công văn số 5257 QĐ-BTC ngày 30/12/2005 của Bộ Tài chính
• Là 1 trong 11 tổ chức có đủ điều kiện thực hiện Thẩm định giá - đợt 1 năm 2006 theo công văn số 263/TB-BTC ngày 07/08/2006 của Bộ Tài chính
• Đạt danh hiệu “ Viet Nam Top Trade Service 2007”
2.1.5 Đặc điểm về tổ chức kiểm toán tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
2.1.5.1 Đặc điểm về quy trình kiểm toán
VAE.,LTD có một quy trình tổ chức công tác kiểm toán khá chặt chẽ bao gồm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Lập kế hoạch kiểm toán
- Giai đoạn 2: Thực hiện kế hoạch kiểm toán
- Giai đoạn 3: Kết thúc kiểm toán
a. Lập kế hoạch kiểm toán
Đây là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Nó giúp kiểm toán viên thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để đưa ra ý kiến xác đáng về các BCTC, từ đó giúp các KTV hạn chế sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ vững được uy tín nghề nghiệp với khách hàng....Kế hoạch kiểm toán được lập ngay sau khi VAE.,LTD tổ chức cuộc họp với khách hàng và ký kết hợp đồng với khách hàng
Kế hoạch kiểm toán bao gồm việc quyết định các vấn đề sau:
- Nhóm nhân viên thực hiện cuộc kiểm toán
- Thời gian thực hiện cuộc kiểm toán: bao gồm thời gian kiểm toán tại khách hàng, thời gian tổng hợp và thời gian phát hành báo cáo chính thức
- Chi phí kiểm toán và phương tiện làm việc: là những nhận định ban đầu về chi phí kiểm toán và phương tiện làm việc cần có
- Thu thập thông tin cơ sở liên quan đến khách hàng
- Thực hiện thủ tục phân tích
- Đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán
- Xem xét sự giúp đỡ của các chuyên gia
- Xem xét tính liên tục hoạt động của khách hàng
- Lập chương trình kiểm toán. Mỗi chương trình kiểm toán cho từng phần hành được công ty xây dựng gồm bốn bước:
+ Kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng
+ Phân tích soát xét
+ Kiểm tra chi tiết
+ Kết luận
b. Thực hiện kế hoạch kiểm toán
Thực hiện kế hoạch kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đó là quá trình triển khai một cách chủ động và tích cực các kế hoạch, chương trình kiểm toán nhằm đưa ra những ý kiến xác thực về mức độ trung thực và hợp lý của Bảng khai tài chính trên cơ sở những bằng chứng kiểm toán đầy đủ và tin cậy. Tất cả các phát hiện của kiểm toán viên đều được ghi chép chi tiết và đầy đủ trên giấy tờ làm việc, đó sẽ là cơ sở để kiểm toán viên đưa ra ý kiến về phần hành mà mình đảm nhiệm
c. Kết thúc kiểm toán
Trên cơ sở kết quả đã kiểm toán, các bằng chứng kiếm toán đã thu thập được, kiểm toán viên đưa ra ý kiến của mình về phần hành hay khoản mục. Và kế hợp từ các phần hành đó, chủ nhiệm kiểm toán sẽ đưa ra ý kiến về Báo cáo tài chính của khách hàng thông qua Báo cáo kiểm toán. Ngoài ra kiểm toán viên có thể còn lập thư quản lý nhằm mục đích tư vấn cho khách hàng về hệ thống kiểm soát nội bộ hay về các chính sách kế toán mà công ty đang áp dụng.
2.1.5.2 Đặc điểm về hệ thống hồ sơ kiểm toán
a. Những yêu cầu chung đặt ra cho hồ sơ kiểm toán nói chung và hồ sơ kiểm toán Báo cáo tài chính nói riêng được công ty qui định như sau:
Tất cả các tài liệu trong file kiểm toán phải được đục lỗ và cho vào trong file.
Các tài liệu trong file cần được sắp xếp gọn gàng, ngay ngắn theo một trật tự đã được qui định.
Nhóm kiểm toán cần lập hồ sơ kiểm toán để đảm bảo cung cấp đầy đủ những cơ sở cho kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét của mình, đảm bảo cho kiểm toán viên không tham gia kiểm toán và người soát xét hiểu được công việc kiểm toán và có cơ sở đưa ra ý kiến của mình.
b. Các tài liệu được lưu trong hồ sơ kiểm toán như:
Hợp đồng kiểm toán, kế hoạch kiểm toán đã có sự phê chuẩn của người quản lí phải được ghi đầy đủ các thông tin như tên, số liệu hồ sơ, ngày tháng lập và lưu trữ.
Các thông tin liên quan đến môi trường kinh doanh, pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, quá trình phát triển của khách hàng.
Các tài liệu về thuế: các văn bản, chế độ thuế áp dụng riêng trong lĩnh vực kinh doanh
Các thông tin chung về khách hàng đó là:
Các ghi chép hay bản sao của các tài liệu hợp đồng, thoả thuận và các biên bản quan trọng (quyết định thành lập công ty, điều lệ công ty, giấy phép đầu tư, khách hàng được cơ quan thuế cho phép, các tài liệu về nghĩa vụ thuế hàng năm.
Các tài liệu về nhân sự: Các thoả ước lao động, các quyết định riêng của khách hàng về nhân sự, quyết định về quản lí và sử dụng quĩ lương.
Các tài liệu về kế toán, văn bản chấp thuận chế độ kế toán áp dụng, các nguyên tắc kế toán áp dụng và các tài liệu liên quan khác.
Trên cơ sở những tài liệu thu thập được lưu trữ trong hồ sơ kiểm toán, kiểm toán viên sẽ đưa ra nhận định trên tài liệu làm việc là tờ tổng hợp. Tờ tổng hợp này sẽ ghi chép các vấn đề tồn tại của cuộc kiểm toán và hướng xử lí do nhóm trưởng tổng hợp và thống nhất với các kiểm toán viên khác từ các phần hành kiểm toán khác.
c. Thứ tự được sắp xếp trong hồ sơ kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phát hành (bản photo)
Thư quản lí phát hành (bản photo)
Các bản báo cáo, thư quản lí dự thảo đã được soát xét
Hợp đồng kiểm toán
Kế hoạch kiểm toán có sự phê chuẩn của Ban giám đốc
Hồ sơ pháp lí của khách hàng
Các chính sách tài chính kiểm toán, kiểm soát nội bộ của khách hàng.
Bộ báo cáo tài chính của khách hàng trước kiểm toán và quyết toán thuế.
d. Yêu cầu đối với giấy làm việc
Giấy tờ làm việc được sắp xếp theo chương trình kiểm toán của công ty theo số thứ tự tham chiếu từ nhỏ đến lớn.
Kiểm toán viên phải ghi đầy đủ các thông tin trên giấy tờ làm việc như: tên khách hàng, nội dung, kì kinh doanh, người lập, người soát xét và ngày soát xét.
Giấy tờ làm việc phải được đánh số ở góc trên bên phải bằng bút đỏ. Toàn bộ giấy tờ phải được tham chiếu liên kết với nhau và với các chương trình kiểm toán cũng như các bằng chứng kiểm toán thu thập được. Toàn bộ giấy tờ làm việc phải được trưởng nhóm và người soát xét. Các yếu tố bổ sung về giấy tờ làm việc phải được ghi lại trên giấy soát xét có giải trình của ngưòi thực hiện.
2.1.5.3 Đặc điểm hệ thống kiểm soát chất lượng
Báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng về của quá trình kiểm toán khách hàng. Do đó, báo cáo kiểm toán chứa đựng rủi ro của công ty kiểm toán nên việc kiểm soát chất lượng báo cáo đã được công ty kiểm toán và định giá Việt Nam rất chú trọng. Quá trình đó được thể hiện qua ba giai đoạn đó là: kiểm soát chất lượng quá trình tuyển dụng nhân viên, kiểm soát quá trình đào tạo và quá trình kiểm toán tại các đơn vị kiểm toán. Ở đây, ta chỉ nghiên cứu giai đoạn kiểm soát quá trình kiểm toán tại các đơn vị kiểm toán.
Sơ đồ 2.2: Các bước kiểm soát chất lượng kiểm toán.
Tổng hợp ý kiến về các phần hành
Trưởng nhóm soát xét và báo cáo tổng hợp chung
Trưởng phó phòng soát xét và ghi ý kiến
Phó giám đốc phụ trách soát xét lại công việc
Ban giám đốc soát xét lại lần cuối cùng
Phòng hành chính soát xét lại chính tả và cách trình bày
Phát hành báo cáo
Qua sơ đồ trên ta thấy quá trình kiểm soát chất lượng kiểm toán của công ty tiến hành rất chặt chẽ theo một trình tự hợp lí, logic. Đầu tiên trưởng nhóm sẽ tổng hợp ý kiến của các thành viên phụ trách về các phần hành sau đó tiến hành soát xét, kiểm tra để đưa ra báo cáo tổng hợp chung. Trưởng phó phòng, phó giám đốc lần lượt sẽ soát xét và đưa ra ý kiến. Cuối cùng ban giám đốc sẽ là người soát xét để đưa ra quyết định. Phòng hành chính có nhiệm vụ kiểm tra lại hình thức, cách trình bày của bản báo cáo. Qua tất cả các bước trên báo cáo kiểm toán sẽ chính thức được phát hành.
Trong quá trình kiểm toán, các nhân viên kiểm toán sẽ tiến hành công việc theo đúng kế hoạch đề ra. Mọi ý kiến thắc mắc, vấn đề phát sinh sẽ phải hỏi ý kiến của trưởng nhóm, không được tự ý quyết định. Trưởng nhóm có trách nhiệm giám sát, đôn đốc, chấn chỉnh thái độ làm việc của các thành viên trong nhóm.
Việc kiểm soát chất lượng sẽ được thể hiện thông qua bảng câu hỏi đã được xây dựng. Khách hàng sẽ trả lời theo ba cách: có, không, không áp dụng và phải giải thích về phương án lựa chọn của mình. Cuối cùng là cam kết về tính độc lập của kiểm toán viên.
Ngoài ra công ty còn xem xét các giấy tờ làm việc đã được lưu và hồ sơ kiểm toán hay chưa, xem xét việc thực hiện công việc đã được đề ra trước đó. Việc tuân thủ các quy định về hồ sơ kiểm toán cũng góp phần vào việc kiểm soát chất lượng cuộc kiểm toán.
2.2 Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính tại VAE.,Ltd
2.2.1 Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty VAE.
Để hiểu rõ hơn về quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty, ta tìm hiểu về 2 khách hàng mà năm 2007, công ty đã cung cấp dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính là công ty X và Công ty Y. Trong đó, Công ty X là khách hàng truyền thống của VAE từ năm 2004 và công ty Y là khách hàng kiểm toán năm đầu của VAE.
2.2.1.1 Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán báo cáo tài chính
Đối với Công ty X:
Công ty X là công ty liên doanh trong lĩnh vực xuất khẩu giầy da cao cấp giữa bên Việt Nam và bên Hồng Kông. Công ty X được thành lập theo giấy phép đầu tư số 1201/GP của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp ngày 15/10/2003. Các thông tin cơ sở về công ty X đã được lưu trong hồ sơ kiểm toán bao gồm:
• Các bên tham gia liên doanh: Bên Việt Nam là Công ty sản xuất giầy A góp 30% vốn bằng quyền sử dụng đất. Bên Hồng Kông góp 70% bằng tiền mặt.
• Tổng số vốn đăng kí kinh doanh: 50.100.000.000 VNĐ
• Trụ sở chính: Thanh Xuân – Hà Nội
• Lĩnh vực hoạt động: sản xuất và xuất khẩu giầy da cao cấp sang thị trường Châu Âu.
• Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị bao gồm 6 thành viên, 3 thành viên mang quốc tịch Việt Nam và 3 thành viên mang quốc tịch Hồng Kông.
• ….
Năm nay, nhóm thực hiện kiểm toán cho công ty không thay đổi. Theo đánh giá của kiểm toán viên tiền nhiệm và tìm hiểu các thông tin bổ sung về công ty, kiểm toán viên nhận thấy
• Tính liêm chính của Ban giám đốc của khách hàng được đánh giá cao
• Công ty cung cấp đầy đủ các tài liệu mà kiểm toán viên yêu cầu, tích cực hợp tác
• Tình hình kinh doanh trong năm qua ổn định
Vì vậy, kiểm toán viên đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán với công ty X là ở mức trung bình. Do đó, công ty đã ký hợp đồng kiểm toán với Công ty X.
Đối với Công ty Y :
Trước tiên tiến hành đánh giá tính độc lập của Kiểm toán viên với khách hàng thông qua bảng câu hỏi đã được thiết kế sẵn.
Biểu 2.1: Câu hỏi đánh giá tính độc lập của Kiểm toán viên
Câu hỏi về tính độc lập của Kiểm toán viên
Khách hàng : Công ty Y
Câu hỏi Có Không
1_ Kiểm toán viên có góp vốn cổ phần trong công ty sắp tiến hành kiểm toán hay không?
X
2_ Kiểm toán viên có vay vốn của khách hàng hay không? X
3_ Kiểm toán viên có là cổ đông chi phối của khách hàng không? X
4_ Kiểm toán viên có cho khách hàng vay vốn không? X
5_ Kiểm toán viên có kí kết hợp đồng gia công với khách hàng không? X
6_ Kiểm toán viên có cung cấp nguyên vật liệu hay dịch vụ cho khách hàng không?
X
7_ Kiểm toán viên có làm đại lí bán sản phẩm cho khách hàng không? X
8_ Kiểm toán viên có quan hệ họ hàng thân thiết với những người trong bộ máy quản lí của công ty khách hàng hay không?
X
9_ Kiểm toán viên có làm dịch vụ trực tiếp ghi sổ kế toán, giữ sổ kế toán và lập Báo cáo tài chính cho khách hàng không?
X
10_ Kết luận : Kiểm toán viên sẽ tham gia kiểm toán khách hàng đã đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán về tính độc lập?
X
Sau đó, kiểm toán viên sẽ tiến hành thu thập các thông tin cơ sở về công ty Y.
• Loại hình doanh nghiệp: Là công ty TNHH có hai thành viên trở lên (12 thành viên góp vốn)
• Cơ cấu tổ chức: gồm có Ban Giám Đốc, Hội đồng thành viên, các phòng nghiệp vụ và các tổ đội sản xuất
• Ngành nghề kinh doanh: Thi công các công trình giao thông dân dụng; các công trình cầu đường; sản xuất và kinh doanh các loại vật liệu xây dựng; Kinh doanh thương mại tổng hợp; Thu mua, xuất nhập khẩu nông sản…
• Sản phẩm chính: Các công trình giao thông; đường bê tông, cống thoát nước, khu chung cư, tập thể, sản phẩm phục vụ ngành xây dựng..
• Chế độ kế toán áp dụng: Áp dụng chế độ kế toán theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC và các văn bản hướng dẫn có liên quan
• Tình hình kinh doanh của Công ty: Qua tìm hiểu, kiểm toán viên nhận thấy trong mấy năm gần đây, Công ty ngày càng phát triển và mở rộng quy mô, doanh thu và lợi nhuận sau thuế tăng trưởng với tốc độ ổn định. Như vậy tình hình kinh doanh của Công ty Y được đánh giá là có triển vọng phát triển.
Như vậy qua tìm hiểu các thông tin sơ bộ về Công ty Y, kiểm toán viên đánh giá mức rủi ro kinh doanh mà VAE sẽ gặp phải khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng này là ở mức trung bình. Do đó, Công ty chấp nhận ký kết hợp đồng kiểm toán.
2.2.1.2 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện báo cáo tài chính
Vì Công ty X là khách hàng kiểm toán truyền thống, có quy mô vốn lớn, là công ty liên doanh nên số lượng người quan tâm đến báo cáo tài chính là khá nhiều. Điều này dẫn đến khả năng nếu Báo cáo tài chính của công ty có sai phạm trọng yếu thì sẽ dẫn đến tác hại ở mức độ khá lớn. Vì vậy kiểm toán viên dự kiến rủi ro kiểm toán mong muốn đối với công ty X ở mức độ thấp. Đối với Công ty Y, vì đây là cuộc kiểm toán năm đầu tiên nên để đảm bảo chất lượng cuộc kiểm toán, rủi ro kiểm toán mong muốn cũng được dự kiến ở mức độ thấp
a. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện toàn bộ báo cáo tài chính
Đối với công ty X:
Kiểm toán viên nhận thấy công ty X kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu giầy da cao cấp sang thị trường châu Âu. Trong khi đó, châu Âu là một thị trường khá ổn định đối với việc xuất khẩu giầy da cao cấp. Mức tăng trưởng thị trường là khá cao. Công ty có khả năng duy trì sản xuất và cung cấp sản phẩm ra thị trường ở mức độ cao. Tuy nhiên, giá nguyên liệu ngày càng tăng, gây áp lực cho công ty trong việc giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Kiểm toán viên cũng đánh giá khách hàng có cơ cấu tổ chức tốt, đội ngũ hội đồng quản trị và ban giám đốc có năng lực và kinh nghiệm. Đội ngũ kế toán cũng có trình độ tốt. Đây là khách hàng hàng năm của công ty nên xem lại hồ sơ kiểm toán năm trước, kiểm toán viên nhận thấy ý kiến báo cáo kiểm toán là ý kiến chấp nhận toàn phần. Khách hàng cung cấp đầy đủ tài liệu cần thiết cho kiểm toán viên. Trong năm vừa qua, công ty không có vướng mắc gì về pháp luật. Qua những phân tích trên, kiểm toán viên đánh giá mức rủi ro tiềm tàng trên báo cáo tài chính ở mức Trung bình. Dưới đây là trích giấy tờ làm việc bảng câu hỏi đánh giá rủi ro tiềm tàng trên báo cáo tài chính của công ty X.
Biểu 2.2: Đánh giá Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ BCTC công ty X
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty X Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính
1- Lĩnh vực hoạt động của công ty:
Hoạt động trong lĩnh vực xây dựng
2- Cơ cấu tổ chức của khách hàng như thế nào ?
Được tổ chức tốt.
3- Chính sách kế toán của công ty khách hàng đang áp dụng ?
Áp dụng chế độ kế toán theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC và các văn bản hướng dẫn có liên quan
4- Thay đổi trong chính sách kế toán đơn vị đang áp dụng
Không có
5- Năng lực của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc?
Các thành viên của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc đều có năng lực tốt, có nhiều kinh nghiệm.
6- Trình độ của kế toán trưởng và các nhân viên kế toán, Kiểm toán viên nội bộ (nếu có)?
Kế toán trưởng và các nhân viên kế toán đều đã tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân hay Đại học Tài Chính Kế Toán, đại học Thương mại
7- Quan hệ giữa Công ty khách hàng và Kiểm toán viên? Tốt
8- Kiểm toán viên có nghi ngờ gì về tính liêm chính của hội đồng quản trị và ban giám đốc? Không.
9- Khách hàng có ý định lừa dối Kiểm toán viên?
Khách hàng cung cấp đầy đủ khi có yêu cầu của Kiểm toán viên.
10- Sự thay đổi về thị trường, sự cạnh tranh?
Châu Âu là một thị trường khá ổn định đối với việc xuất khẩu giầy da cao cấp. Mức tăng trưởng thị trường là khá cao. Công ty có khả năng duy trì sản xuất và cung cấp sản phẩm ra thị trường ở mức độ cao.
11- Ý kiến của Kiểm toán viên trên Báo cáo kiểm toán năm trước?
Chấp nhận toàn phần
12- Liệu Ban giám đốc và nhân viên phòng kế toán có áp lực bất thường nào không?
Giá nguyên vật liệu ngày càng tăng, đòi hỏi công ty phải có những biện pháp làm giảm giá thành, nâng cao chất lượng để tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
13- Sự thay đổi nhân sự trong Ban Giám đốc, Hội đồng quản trị và phòng kế toán? Không.
14- Số lượng các nghiệp vụ kinh tế bất thường Không có
15- Vướng mắc của khách hàng với các bên liên quan và pháp luật Không có
Kết luận : Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình
Đối với công ty Y
Tương tự với công ty Y, kiểm toán viên cũng lập và trả lời các câu hỏi đánh giá rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ báo cáo tài chính. Công ty Y hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, thi công các công trình dân dụng, công trình cầu đường, sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng…Lĩnh vực này rủi ro khá cao. Tuy nhiên, cũng giống như công ty X, công ty có cơ cấu tổ chức tốt, ban lãnh đạo có chuyên môn và kinh nghiệm… Ý kiến kiểm toán viên báo cáo kiểm toán năm trước do công ty Kiểm toán và Tư vấn A&C đưa ra là ý kiến chấp nhận toàn phần. Dựa vào những thông tin đó và dựa vào xét đoán nghề nghiệp, kiểm toán viên cũng đánh giá mức rủi ro tiềm tàng là Trung bình
Sau đây là minh họa cho đánh giá rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ báo cáo tài chính của công ty Y
Biểu 2.3: Đánh giá Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ BCTC công ty Y
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty Y Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính
1- Lĩnh vực hoạt động của công ty:
Hoạt động trong lĩnh vực xây dựng
………………..
11- Ý kiến của Kiểm toán viên trên Báo cáo kiểm toán năm trước?
Chấp nhận toàn phần- do công ty kiểm toán A&C thực hiện
Kết luận : Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình
b. Đánh giá rủi ro kiểm soát trên phương diện toàn bộ báo cáo tài chính
Đánh giá môi trường kiểm soát
Đối với cả 2 khách hàng, Kiểm toán viên tiến hành thu thập các thông tin, tài liệu như: Biên bản cuộc họp Hội đồng quản trị, các văn bản quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ chức năng, quyền hạn của các cá nhân quan trọng trong công ty, các nội quy, quy định được áp dụng trong Công ty , các kế hoạch dự toán được lập, các thủ tục phê chuẩn, văn bản qui định tổ chức công tác kế toán, các văn bản qui định sự kiểm soát của cơ quan Nhà Nước đối với công ty…Bên cạnh đó, Kiểm toán viên còn tiến hành phỏng vấn Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, kế toán trưởng, các nhân vật quan trọng, quan sát các hoạt động và quá trình hoạt động…
Đối với công ty X
Qua việc tìm hiểu công ty X, kiểm toán viên nhận thấy:
• Công ty có các quy định, chính sách về nhân sự và hành chính đầy đủ, rõ ràng. Trong các biên bản họp hội đồng quản trị đều đề ra phương án kinh doanh, đường lối chiến lược phát triển của công ty trong ngắn hạn và dài hạn được cấp có thẩm quyền phê duyệt, tuy nhiên Công ty chưa có quy định cụ thể trong việc đào tạo, nâng lương và thuyên chuyển nhân viên.
• Công ty đang thực hiện các cơ chế giám sát về quy chế làm việc, thời gian nghỉ ngơi, quy chế trả lương, các quy định về các chi phí hoạt động, quy định về hạn mức sử dụng nguyên vật liệu, quy định về sử dụng quỹ khen thưởng phúc lợi
• Công ty thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, không vi phạm chính sách, pháp luật Nhà nước
• Tính chính trực, năng lực của Ban Giám đốc và đội ngũ kế toán: Được đánh giá cao……..
Từ những thông tin trên và kinh nghiệm của mình, kiểm toán viên kết luận về môi trường kiểm soát ở công ty X là Khá. Những thông tin này được tổng hợp và phản ánh lên bảng câu hỏi đánh giá môi trường kiểm soát
Biểu 2.4: Bảng đánh giá môi trường kiểm soát của công ty X.
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty X Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá môi trường kiểm soát
Câu hỏi
Có Không Không áp dụng
1_ Hội đồng quản trị và Ban giám đốc có bị chi phối bởi, một hay một nhóm người không trung thực không
2_ Kiểm toán viên có nghi ngờ về tính liêm chính của Ban giám đốc và Hội đồng quản trị ?
3_ Hội đồng quản trị và Ban giám đốc trước đây đã từng liên quan đến hành vi giam lận hay hành vi vi phạm pháp luật ? ….
……………
Kết luận : Môi trường kiểm soát được đánh giá là Khá. X
X
X
X
X
Đối với công ty Y
Tương tự công ty X, kiểm toán viên cũng thu thập các thông tin như trên và trả lời vào bảng câu hỏi đánh giá môi trường kiểm soát. Tuy nhiên, Công ty Y chưa có đầy đủ chính sách qui định về chức năng của các nhân viên kế toán, cập nhật phân công công việc cho các nhân viên kế toán, hướng dẫn công việc cho các nhân viên…Do đó, kiểm toán viên đánh giá môi trường kiểm soát của công ty Y là Trung bình
Đánh giá hệ thống kế toán
Đối với Hệ thống kế toán, Kiểm toán viên chủ yếu xem xét các chính sách kế toán đang áp dụng và những thay đổi trong chính sách kế toán đó.
• Chế độ kế toán mà công ty đang áp dụng:
Công ty X và Công ty Y đều đang áp dụng chế độ kế toán Việt Nam ban hành theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC . Hình thức kế toán là hình thức Nhật ký chung.
• Niên độ kế toán:
Cả hai công ty đều có niên độ kế toán bắt đầu vào ngày 01/01 và kết thúc vào ngày 31/12 hàng năm
• Đồng tiền hạch toán :
Đồng tiền được sử dụng trong ghi chép và báo cáo kế toán là đồng Việt Nam (VND).
Đối với công ty X, các nghiệp vụ phát sinh bằng ngoại tệ được qui đổi sang đồng Việt Nam theo tỷ giá do Ngân hàng công bố tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ. Cuối kì, các khoản tiền và các khoản phải thu, phải trả được đánh giá lại theo tỷ gí thực tế tại thời điểm lập Bảng cân đối kế toán. Chênh lệch tỷ giá phát sinh do đánh giá lại được ghi vào chi phí tài chính hay doanh thu tài chính, cuối kỳ kết chuyển vào kết quả hoạt động kinh doanh.
Công ty Y không phát sinh các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ
• Tài sản cố định và khấu hao tài sản cố định:
Tất cả tài sản cố định được ghi sổ theo nguyên giá và hao mòn lũy kế, khấu hao tài sản cố định được thực hiện theo phương pháp đường thẳng. Tỷ lệ khấu hao được áp dụng theo Quyết định 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999.
• Hàng tồn kho:
Hàng tồn kho được ghi sổ theo giá gốc (gồm giá trị trên hóa đơn không bao gồm VAT cộng với chi phí thu mua, vận chuyển) và được hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp tính giá hàng tồn kho là phương pháp bình quân gia quyền.
• Phương pháp tính các khoản dự phòng, tình hình trích lập và hoàn nhập các khoản dự phòng:
Cả 2 công ty đều không thực hiện trích lập các khoản dự phòng. Đối với công ty Y, có 1 số khoản phải thu quá hạn nhưng công ty không trích lập dự phòng vì đây là những khoản thu đang chờ quyết toán và có khả năng thu hồi trong những năm tới.
• Nguyên tắc ghi nhận doanh thu: Đối với Công ty X, ghi nhận doanh thu theo thời điểm khách hàng chấp nhận thanh toán. Đối với Công ty Y, ghi nhận doanh thu theo phiếu giá thanh toán và các biên bản nghiệm thu.
• Các thay đổi trong chính sách kế toán:
Cả 2 Công ty đều không có sự thay đổi lớn nào về chính sách kế toán.
• Đội ngũ nhân viên kế toán:
Trong năm 2007, đội ngũ nhân viên kế toán cả hai công ty đều không có sự thay đổi nào. Các nhân viên đều tốt nghiệp các trường đại học chuyên ngành kế toán.
Qua việc tìm hiểu các thông tin trên, kiểm toán viên đánh giá hệ thống kế toán của 2 công ty là Khá
Đánh giá thủ tục kiểm soát
Xem xét các thủ tục kiểm soát trong bước này, kiểm toán viên trả lời các câu hỏi trong bảng đánh giá các thủ tục kiểm soát, chủ yếu tập trung vào các nguyên tắc thiết kế thủ tục kiểm soát.
Đối với công ty X:
Công ty X có các văn bản trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận và từng người trong từng bộ phận. Sự phân công trách nhiệm và quyền lợi trong công ty đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm. Công ty có chế độ ủy quyền rõ ràng. Mọi nghiệp vụ kinh tế đều được phê chuẩn đúng đắn theo cấp có thẩm quyền.
Ví dụ như nghiệp vụ chi tiền: người có thẩm quyền duyệt chi là kế taón trưởng và thủ trưởng đơn vị, người lập phiếu chi là kế toán thanh toán, sau đó thủ quỹ có quyền chi tiền và thủ trưởng đơn vị sẽ là người kí vào phiếu chi đó
Công ty X sử dụng ứng dụng tin học trong quá trình kiểm soát đó là việc ứng dụng thẻ từ đối với nhân viên trong công ty để kiểm tra về thời gian làm việc của nhân viên và việc ra vào các khu vực quan trọng của công ty.
Dựa vào những phân tích trên, kiểm toán viên đánh giá các thủ tục kiểm soát của công ty X là Khá. Kết luận này được phản ánh trên giấy tờ làm việc thông qua bảng câu hỏi đánh giá các thủ tục kiểm soát đã thiết kế sẵn.
Đối với công ty Y
Kiểm toán viên cũng có những phân tích và đánh giá các thủ tục kiểm soát tương tự như công ty X. Tuy nhiên, công ty Y chưa ứng dụng tin học trong quá trình kiểm soát do đặc thù của ngành xây dựng. Do đó, kiểm toán viên cũng đánh giá các thủ tục kiểm soát của công ty Y là Khá
Dưới đây là minh họa bảng câu hỏi đánh giá các thủ tục kiểm soát được phản ánh trên giấy tờ làm việc của công ty.
Biểu 2.5: Đánh giá các thủ tục kiểm soát
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty X Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá các thủ tục kiểm soát
Câu hỏi
Có Không Không áp dụng
1- Các chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong công ty có được phân công, phân nhiệm rõ ràng và được thể hiện trên các văn bản không?
2- Các trách nhiệm và công việc trong Công ty có được phân chia cụ thể rõ ràng cho nhiều bộ phận và cho nhiều người trong bộ phận hay không?
3- Sự phân công trách nhiệm và quyền lợi trong công ty có đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm hay không?
4- Quyền hạn của những người giữ vai trò quan trọng trong Công ty có được quy định rõ ràng và có quy định rõ chế độ uỷ quyền không?
5- Mọi nghiệp vụ kinh tế có được phê chuẩn đúng đắn theo đúng cấp có thẩm quyền không?
6- Có ứng dụng tin học trong quá trình kiểm soát không?( bảng mã từ đối với nhân viên,..) X
X
X
X
X
X
X
Đánh giá bộ phận kiểm toán nội bộ
Công ty X và Y không có bộ phận kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên công ty X đã có Ban kiểm soát nội bộ.
Kết luận chung: Thông qua đánh giá các yếu tố trong Hệ thống Kiểm soát nội bộ của công ty X, kiểm toán viên kết luận Hệ thống Kiểm soát nội bộ của công ty là Khá. Do đó, rủi ro kiểm soát trên toàn bộ Báo cáo tài chính của công ty X được kết luận là Thấp.
Công ty Y có hệ thống kế toán được đánh giá là Khá, tuy nhiên chưa tốt bằng công ty X và chưa có bộ phận kiểm toán nội bộ cũng như Ban kiểm soát nội bộ. Vì thế, kiểm toán viên kết luận rủi ro kiểm soát trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình.
c. Xác định rủi ro phát hiện trên phương diện toàn bộ báo cáo tài chính
Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính của công ty X được đánh giá là Trung bình và Rủi ro kiểm soát được đánh giá là Thấp nên để phù hợp với mức Rủi ro kiểm toán mong muốn là Thấp, Kiểm toán viên xác định mức Rủi ro phát hiện trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình.
Công ty Y có mức Rủi ro tiềm tàng và Rủi ro kiểm soát trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình, nên mức Rủi ro phát hiện cũng được Kiểm toán viên xác định là Trung bình.
Rủi ro phát hiện được xác định ở mức Trung bình thì Kiểm toán viên sẽ tiến hành kết hợp thực hiện các thử nghiệm kiểm soát và các thử nghiệm cơ bản trong các bước công việc tiếp theo. Đồng thời kiểm toán viên sẽ thu thập các bằng chứng ở mức độ không cao và tiến hành chọn mẫu kiểm toán.
2.2.1.3 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện số dư khoản mục và các loại nghiệp vụ
a. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư khoản mục và các loại nghiệp vụ
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư khoản mục và các loại nghiệp vụ trên các cơ sở dẫn liệu chính, kiểm toán viên xem xét bản chất của các khoản mục kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của mỗi công ty để xem xét khả năng sai phạm có thể xảy ra đối với từng khoản mục. Đồng thời dựa vào việc phân tích sơ bộ bảng cân đối kế toán của mỗi công ty, kiểm toán viên rút ra kết luận về rủi ro tiềm tàng đối với một số khoản mục chính tài chính
Đối với khoản mục tiền: Kiểm toán viên thường nhận diện các rủi ro xảy ra đối với khoản mục tiền như sau:
• Tính có thực : Rủi ro thường gặp phải đối với tài khoản tiền là số tiền trên Bảng cân đối bị ghi tăng lên vì người ta thường ghi tăng các khoản tiền để làm thay đổi các nguồn chi trong doanh nghiệp hay làm thay đổi khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
• Tính trọn vẹn : Kế toán có thể không phản ánh hết các nghiệp vụ có liên quan đến tiền nhằm mục đích tư lợi cá nhân.
• Tính giá: Công ty X thường giao dịch với nhà cung cấp ở nước ngoài và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài nên có nhiều tài khoản tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ. Do đó, kiểm toán viên đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng tỷ giá ngoại tệ tại công ty X.
Rủi ro đối với khoản phải thu :
• Tính có thực : Các khoản phải thu có thể được ghi tăng lên để che đậy sự biển thủ. Các nhân viên thu bán hàng có thể lấy tiền và không ghi chép lại các biên lai thu tiền. Đồng thời để tránh việc chú ý vào một khoản phải thu tồn tại lâu dài, người biển thủ có thể lấy số tiền mới thu về bù vào số dư của khách hàng cũ.
• Tính trọn vẹn : Các khoản phải thu có thể bị ghi thiếu để làm thay đổi khả năng thanh toán của công ty.
• Tính phân loại và trình bày: Các khoản phải thu có thể không được phân loại một cách đúng đắn bằng cách cộng các khoản phải thu nội bộ vào các khoản phải thu bán hàng và các khoản phải thu khác.
Tài khoản hàng tồn kho:
• Tính có thực : Rủi ro cơ bản là hàng tồn kho có thể bị ghi tăng lên.
• Tính tính giá: Đối với công ty X, có một số nguyên vật liệu được công ty nhập khẩu từ nước ngoài nên có khả năng giá trị hàng tồn kho quy đổi sang VND bị tính toán sai.
Đối với doanh nghiệp sản xuất như công ty X và công ty xây dựng như công ty Y thì có rủi ro lớn là thành phẩm và chi phí sản xuất dở dang không được xác định chính xác.
• Phân loại: Hàng tồn kho cũng có thể bị phân loại sai như nhầm lẫn giữa thành phẩm và hàng gửi bán hay hàng mua đang đi đường với hàng đã về kho.
Tài khoản tài sản cố định :
• Tính có thực: Tài sản cố định trong Bảng cân đối có thể bị khai tăng hơn bằng cách ghi các tài sản không thuộc quyền sở hữu của công ty. Ngoài ra, theo thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 09/10/2002 hướng dẫn thực hiện bốn Chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ tài chính, một số Tài sản cố định không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định phải đưa vào chi phí trả trước dài hạn và tiến hành phân bổ vào chi phí trong thời gian không quá 3 năm. Do đó, có khả năng rủi ro cao đối với một số tài sản cố định đang được ghi trên Bảng cân đối kế toán không đủ tiêu chuẩn được coi là tài sản cố định.
Tài khoản đầu tư ngắn hạn, dài hạn :
• Tính có thực : Các khoản đầu tư dài hạn có thể bị ghi tăng thông qua việc vào sổ sách các chứng khoán dài hạn không thuộc quyền sở hữu của công ty tại thời điểm 31/12/2007
• Tính giá : Các khoản đầu tư dài hạn có thể được vào sổ không đúng giá trị thực tế tại thời điểm 31/12/2007 hay không lập dự phòng cho các khoản đầu tư
Tài khoản chi phí trả trước dài hạn :
Rủi ro có thể xảy ra với khoản chi phí trả trước dài hạn là đơn vị chưa có tiêu thức phân bổ rõ ràng chi phí này vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Điều này ảnh hưởng đến tính chính xác và đúng đắn của chi phí cũng như đến kết quả hoạt động kinh doanh.
Tài khoản chi phí xây dựng cơ bản dở dang :
• Tính có thực : Trong năm công ty X có đầu tư mở rộng sản xuất và xây dựng nhà xưởng mới nhưng chưa hoàn thành. Rủi ro cao có thể xảy ra là tính có thực của chi phí và giá trị ghi nhận của chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
Tài khoản nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, nợ khác
• Tính đầy đủ : Các khoản nợ ngắn hạn trên Bảng cân đối kế toán thường bị ghi giảm để làm thay đổi khả năng thanh toán hay che đậy sự biển thủ.
• Tính định giá: Đối với công ty X, các khoản nợ bằng ngoại tệ có thể sẽ bị chuyển đổi sai sang VND không theo đúng tỷ giá tại thời điểm 31/12.
Tài khoản nguồn vốn chủ sở hữu :
• Phân loại và trình bày : Rủi ro có thể xảy ra các nguồn vốn có thể bị phân loại sai.
• Quyền và nghĩa vụ : Một số khoản nợ có thể bị ghi nhầm là nguồn vốn có thể bị phân loại sai.
Ngoài ra, rủi ro có thể xảy ra là các thay đổi đối với nguồn vốn chủ sở hữu có thể không tuân thủ các quy định về tài chính hay không được ủy quyền phê chuẩn một cách đúng đắn.
Doanh thu, thu nhập :
• Tính có thực: Rủi ro có thể xảy ra là các khoản doanh thu bị ghi khống để tăng lợi nhuận trong năm do dức ép của Hội đồng quản trị.
• Phân loại và trình bày: Do ảnh hưởng của Chuẩn mực kế toán số 14-Doanh thu và thu nhập khác, được ban hành theo quyết định số 149/ 2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ tài chính, một số khoản doanh thu và thu nhập có thể bị phân loại và trình bày sai.
• Tính giá : Công ty X sản xuất sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài do đó có khả năng doanh thu bằng ngoại tệ có thể được qui đổi không đúng theo tỷ giá tại thời điểm phát sinh.
Chi phí :
• Tính đầy đủ : Rủi ro có nhiều khả năng xảy ra là chi phí không được ghi đủ làm nhằm làm giảm chi phí từ đó tăng lợi nhuận.
• Tính có thực: Chi phí có thể bị khai tăng để làm giảm lợi nhuận, từ đó làm giảm mức thuế phải nộp.
• Tính phân loại, trình bày : Việc trình bày và phân loại các khoản mục chi phí trên Báo cáo kết quả kinh doanh có thể bị sai.
Sau đây là bảng phân tích sơ bộ bảng cân đối kế toán của công ty X, và công ty Y, từ đó kiểm toán viên rút ra rủi ro tiềm tàng đối với một số khoản mục chính
Đối với công ty X
Bảng 2.3: Bảng phân tích sơ bộ Bảng cân đối kế toán của công ty X
Chỉ tiêu phân tích
31/12/2006
31/12/2007
Chênh lệch
Số tiền %
A Tài sản
I. Tài sản ngắn hạn 14,048,219,800 25,853,324,800 11,805,105,000 84
1. Tiền 3,802,626,800 10,110,928,800 6,308,302,000 166
2. Các khoản phải thu 6,003,690,600 11,814,989,600 5,811,299,000 97
3. Hàng tồn kho 3,094,282,000 2,648,100,400 (446,181,600) -14
4. Tài sản lưu động khác 1,147,620,400 1,279,306,000 131,685,600 11
II. Tài sản dài hạn 87,338,116,000 105,065,187,900 17,727,071,900 20
1. Tài sản cố định hữu hình 37,837,208,000 47,265,000,000 9,427,792,000 25
Nguyên giá 39,730,328,800 49,785,800,000 10,055,471,200 25
Giá trị hao mòn lũy kế (1,922,560,000) (2,520,800,000) (598,240,000) 31
2. Tài sản cố định vô hình 37,496,900,000 43,798,900,000 6,302,000,000 17
Nguyên giá 40,332,800,000 47,895,200,000 7,562,400,000 19
Giá trị hao mòn lũy kế (2,835,900,000) (4,096,300,000) (1,260,400,000) 44
3. CPXDCBDD 2,520,800,000 3,667,456,700 1,146,656,700 45
4. Chi phí trả trước dài hạn 9,483,208,000 10,333,831,200 850,623,200 9
Tổng tài sản 101,386,335,800 130,918,512,700 29,532,176,900 29
B Nguồn vốn
I. Nợ phải trả 21,791,685,800 40,002,575,200 18,210,889,400 84
1. Nợ ngắn hạn 3,153,520,800 3,797,585,200 644,064,400 20
2. Phải trả nhà cung cấp 3,108,776,600 4,411,400,000 1,302,623,400 42
3. Vay dài hạn 15,529,388,400 31,793,590,000 16,264,201,600 105
II. Nguồn vốn chủ sở hữu 79,594,650,000 90,915,937,500 11,321,287,500 14
1. Vốn chủ sở hữu 78,886,679,900 78,886,679,900 0 0
2. Các quỹ 472,650,000 1,906,355,000 1,433,705,000 303
3. Lợi nhuận chưa phân phối 235,320,100 10,122,902,600 9,887,582,500 4202
Tổng nguồn vốn 101,386,335,800 130,918,512,700 29,532,176,900 29
Ta thấy:
• Khoản mục tiền: số dư cuối năm tăng so với đầu năm 166%. Như vậy có sự biến động lớn. Tuy nhiên theo báo cáo kiểm toán năm trước, không có sai phạm trọng yếu với khoản mục tiền. Tuy nhiên, công ty X hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nên có giao dịch bằng ngoại tệ và có đánh giá lại chênh lệch tỷ giá hối đoái. Vì vậy rủi ro với khoản mục tiền là Trung bình
• Các khoản phải thu: Số dư cuối năm tăng so với đầu năm 97%, không làm tăng khả năng thanh toán của công ty. Công ty không trích lập dự phòng. Tuy nhiên, theo báo cáo kiểm toán năm trước, không có sai phạm trọng yếu với khoản phải thu. Do đó, rủi ro với khoản mục này là Trung bình
• Hàng tồn kho: Giảm 14%. Công ty X xuất khẩu sản phẩm ra nước ngaòi và nhập khẩu một số nguyên liệu về sản xuất nên khả năng sai phạm về tính giá hàng tồn kho là cao. Hơn nữa việc tính giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất kinh doanh dở dang lại liên quan trực tiếp đến giá vốn hàng bán. Vì thế, rủi ro tiềm tàng với khoản mục này được đánh giá là cao
• Chi phí trả trước dài hạn: Có ước tính về thời gian trả trước. Rủi ro với khoản mục này là cao vì tiêu thức phân bổ chi phí vào chi phí kinh doanh trong kỳ sẽ ảnh hưởng đế tính chính xác và đúng đắn của chi phí cũng như kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ.
• Tài sản cố định: Số dư cuối kỳ tăng so với số dư đầu kỳ. Điều này có thể do ghi tăng tài sản cố định hay ghi giảm chi phí khấu hao. Điều này làm ảnh hưởng đến chi phí và lợi nhuận trong kì. Như vậy khoản mục này được đánh giá có rủi ro tiềm tàng là cao
• Các khoản phải trả: thường được ghi giảm để làm thay đổi khả năng thanh toán nhưng ở đây số dư cuối kỳ tăng so với số dư đầu kỳ. Như vậy rủi ro tiềm tàng đối với khoản mục này ở mức Trung bình
• Các nguồn vốn và quỹ: Việc nghiệp vụ liên quan đến các tài khoản này không phức tạp và thường có quy định rõ trong biên bản họp hội đồng quản trị và các quy định về sử dụng các quỹ của công ty. Do đó, rủi ro tiềm tàng đối với khoản mục này thấp
…………….
Từ việc phân tích và xem xét các rủi ro thường gặp đối với từng khoản mục trên Báo cáo tài chính của hai công ty, Kiểm toán viên Công ty VAE đưa ra kết luận về Rủi ro tiềm tàng đối với từng khoản mục của công ty X. Kết luận này được thể hiện trên giấy tờ làm việc như sau :
Biểu 2.6: Kết luận về Rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và nghiệp vụ đối với công ty X.
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty X Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá rủi ro tiềm tàng cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính
Rủi ro tiềm tàng được đánh giá cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính như sau:
- Rủi ro tiềm tàng cao : Doanh thu, hàng tồn kho, Chi phí trả trước dài hạn, tài sản cố định.
- Rủi ro tiềm tàng trung bình: Tiền, phải thu, Phải trả, Chi phí.
- Rủi ro tiềm tàng thấp : Nguồn vốn và quỹ, các khoản vay và các tài khoản còn lại
Đối với công ty Y: Kiểm toán viên xem xét một số khoản mục chính
• Doanh thu: Đây là khoản mục có rủi ro tiềm tàng cao vì có thể doanh thu ghi nhận theo tạm tính, không theo nguyên tắc là dựa vào phiếu giá và biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành.
• Phải thu: Một thực tế xảy ra với các công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng đó là khi công trình hoàn thành, thời gian thu hồi các khoản nợ này kéo dài rất lâu và khó xác định được xem khoản phải thu đó có khả năng thu hồi hay không để trích lập dự phòng. Do đó, kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng với khoản mục này là cao
• Các khoản mục khác: Tương tự như công ty X
Từ những phân tích và nhận định trên, Kiểm toán viên Công ty VAE đưa ra kết luận về Rủi ro tiềm tàng đối với từng khoản mục của công ty Y. Kết luận này được thể hiện trên giấy tờ làm việc như sau :
Biểu 2.7: Kết luận về Rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và nghiệp vụ đối với công ty Y.
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty Y Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá rủi ro tiềm tàng cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính
Rủi ro tiềm tàng được đánh giá cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính như sau:
- Rủi ro tiềm tàng cao : Doanh thu, hàng tồn kho, phải thu, tài sản cố định.
- Rủi ro tiềm tàng trung bình: Phải trả, chi phí, nợ dài hạn, nợ khác, tiền.
- Rủi ro tiềm tàng thấp : Nguồn vốn và quỹ, các khoản vay và các tài khoản còn lại
b. Đánh giá rủi ro kiểm soát trên phương diện số dư khoản mục và các loại nghiệp vụ
Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát trên từng khoản mục
Đối với công ty X
Công ty X là khách hàng truyền thống của Công ty VAE nên Kiểm toán viên sử dụng các Hồ sơ kiểm toán năm trước để đánh giá rủi ro kiểm soát trên số dư đầu năm. Kiểm toán viên nhận thấy, nhìn chung các quá trình kiểm soát nội bộ đối với các khoản mục được Công ty X thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên, năm nay kiểm toán viên vẫn phải đánh giá lại hệ thống kiểm soát nội bộ với từng khoản mục
Tiền: Kiểm toán viên nhận thấy công ty X đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm đó là thủ quỹ và kế toán được đảm nhận bởi 2 người khác nhau. Hàng tháng đều thực hiện kiểm kê quỹ tiền mặt và đối chiếu giữa thủ quỹ và kế toán tiền mặt. Việc đối chiếu số dư tiền gửi ngân hàng cũng được tiến hành thường xuyên. Các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến tiền đều có sự phê chuẩn và ghi sổ theo chứng từ ( phiếu chi, phiếu thu, giấy báo có, giấy báo nợ..). Các khoản ngoại tệ cũng được theo dõi riêng. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đảm bảo tính đúng kỳ.
Qua những phân tích trên, kiểm toán viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ với khoản mục tiền là Khá, do đó kết luận rủi ro kiểm soát đối với khoản mục này ở mức thấp
Các khoản phải thu phải trả: Công ty X theo dõi riêng từng khoản công nợ phải thu phải trả và thực hiện đối chiếu công nợ khá đầy đủ (được 90%). Việc hạch toán các khoản phải thu, phải trả dựa trên chứng từ ( hóa đơn bán hàng, hóa đơn mua hàng, phiếu chi, phiếu thu,…)Công ty không thực hiện trích dự phòng phải thu khó đòi vì đối tượng công nợ của công ty X có khả năng thu hồi hay công ty có khả năng trả….Các khoản phải thu, phải trả phát sinh có liên quan đến ngoại tệ đều được đánh giá lại cuối kì.
Từ những phân tích trên, kiểm toán viên cũng đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ với khoản mục phải thu, phải trả là Khá, do đó kết luận rủi ro kiểm soát đối với khoản mục này ở mức thấp
Hàng tồn kho: Công ty X thực hiện kiểm kê hàng tồn kho theo đúng quy định. Trong các phiếu nhận hàng, hóa đơn giao hàng, phiếu xuất kho, nhập kho đều có đủ chữ kí của các bộ phận liên quan. Công ty cũng thực hiên phân loại hàng tồn kho chậm luận chuyển, hư hỏng lỗi thời và để riêng các hàng tồn kho loại này riêng. Giá trị hàng tồn kho được ghi sổ theo giá gốc và phương pháp tính giá hàng xuất kho phương pháp bình quân gia quyền. Tuy nhiên, công ty chưa thực hiện lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, hệ thống thẻ kho không được duy trì thường xuyên và địa điểm kho chưa được hợp lí và an toàn, thủ kho là người không được đào tạo chính quy. Do đó kiểm toán viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ với hàng tôn kho là Trung bình, do đó rủi ro kiểm soát với khoản mục này là Trung bình
Tài sản cố định: Công ty X thực hiện kiểm kê tài sản cố định theo quy định. Các tài sản cố định đều được ghi sổ theo giá gốc và theo dõi ở bộ phận kế toán, không có bộ phận riêng theo dõi. Việc tính khấu hao tài sản cố định nhất quán so với năm trước. Tuy nhiên, công ty không theo dõi riêng các tài sản cố định không cần dùng, chờ thanh lý. Thủ tục thanh lý tài sản cố định chưa đầy đủ, có một số nghiệp vụ không có quyết định của hội đồng quản trị hay không có biên bản thanh lý…
Từ những nhận xét trên, kiểm toán viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ với khoản mục này là trung bình, do đó, rủi ro kiểm soát được kết luận ở mức Trung bình
Các khoản vay: Công ty vay theo các hợp đồng vay vốn với lãi suất không cao quá so với quy định. Đồng thời cũng theo dõi hời hạn trả nợ của các khoản vay tuy nhiên công ty không thực hiện đối chiếu thường xuyên khoản vay với người cho vay và không theo dõi được hết lãi vay phải trả người cho vay. Do đó, hệ thống kiểm soát nội bộ đối với khoản mục này là trung bình, kiểm toán viên kết luận rủi ro kiểm soát ỏ mức Trung bình
Doanh thu:Việc hạch toán doanh thu căn cứ vào các hóa đơn chứng từ bán hàng và các chứng từ hợp lệ khác. Các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại được sự phê chuẩn của người phụ trách. Doanh thu được hạch toán đúng kỳ kế toán. Như vậy hệ thống kiểm soát nội bộ đối với khoản doanh thu là Khá, do đó, rủi ro kiểm soát đối với khoản mục này là Thấp
Chi phí: Các chi phí có sự kiểm tra và phê duyệt của lãnh đạo, công ty theo dõi chi tiết từng khoản mục chi phí và hạch toán chi phí đúng kỳ kế toán. Do đó, hệ thống kiểm soát nội bộ với khoản chi phí là Khá, rủi ro kiểm soát đối với khoản mục này ở mức thấp
……..
Kết luận: Các khoản mục được đánh giá Rủi ro kiểm soát ở mức trung bình là: Hàng tồn kho, tài sản cố định, các khoản vay. Các khoản mục còn lại có Rủi ro kiểm soát ở mức thấp.
Đối với công ty Y
Công ty Y là khách hàng kiểm toán năm đầu của Công ty VAE nên để đảm bảo đánh giá đúng mức rủi ro, Kiểm toán viên tiến hành đánh giá sơ bộ Rủi ro kiểm soát trên số dư đầu năm. Qua trao đổi với Kiểm toán viên tiền nhiệm, Kiểm toán viên VAE được biết các quá trình Kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục trên Báo cáo tài chính được công ty Y thực hiện đầy đủ trong năm 2006. Do đó, Kiểm toán viên VAE đánh giá Rủi ro kiểm soát trên số dư đầu năm là thấp.
Kiểm toán viên cũng tiến hành đánh giá hệ thống kiểm soát trên số dư cuối kỳ đối với từng khoản mục chính.
Đối với khoản mục tiền, hàng tồn kho, chi phí, kiểm toán viên có những nhận định và kết luận giống như công ty X
KẾT LUẬN
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng còn khá mới mẻ. Đứng trước xu thế hội nhập toàn cầu, các công ty kiểm toán Việt Nam đang nỗ lực hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ để có thể cạnh tranh với các công ty kiểm toán nước ngoài. Nâng cao và hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro kiểm toán là một trong các yếu tố quan trọng, quyết định đến sự thành bại của một cuộc kiểm toán. Vì đánh giá rủi ro kiểm toán giúp kiểm toán viên lập kế hoạch kiểm toán hiệu quả, thiết kế chương trình kiểm toán hợp lý để đảm bảo về chất lượng cũng như chi phí và thời gian kiểm toán.
Qua quá trình thực tập tại công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam, thực tế cho thấy công ty đã xây dựng một qui trình đánh giá rủi ro và trọng yếu được thiết kế và thực hiện khá hoàn thiện bên cạnh một số tồn tại nhỏ. Với sự nghiên cứu và tìm hiểu thực tế quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán của VAE.,Ltd và dựa trên cơ sở lý luận được trang bị trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường, em đã cố gắng đề ra một số kiến nghị với hy vọng góp phần hoàn thành qui trình.
Mặc dù đã cố gắng trong suốt quá trình thực tập cũng như trong suốt quá trình hoàn thiện luận văn tốt nghiệp nhưng chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Kế toán cùng toàn thể các anh chị KTV giúp đỡ em để hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này.
Em xin chân thành Thank Ths Nguyễn Thị Hồng Thúy và toàn bộ các anh chị kiểm toán viên trong công ty VAE đã giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC 3
1.1 Trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính 3
1.1.1 Khái niệm trọng yếu 3
1.1.2 Vai trò của trọng yếu 4
1.1.3 Quy mô và bản chất của khoản mục nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu 6
1.1.3.1 Quy mô trong mối quan hệ với trọng yếu 6
1.1.3.2 Bản chất của khoản mục, nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu. 7
1.1.4 Đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính 10
1.1.4.1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu 11
1.1.4.2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC 12
1.1.4.3 Ước tính tổng số sai sót cho từng khoản mục 13
1.1.4.4 Ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được 13
1.1.4.5 So sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng yếu hay ước lượng ban đầu về trọng yếu đã có sự điều chỉnh 13
1.2 Rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính 14
1.2.1 Khái niệm rủi ro kiểm toán 14
1.2.2 Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán 16
1.2.2.1 Rủi ro tiềm tàng 16
1.2.2.2 Rủi ro kiểm soát 16
1.2.2.3 Rủi ro phát hiện 17
1.2.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro 17
1.2.3.1 Mô hình rủi ro kiểm toán 17
1.2.3.2 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro 22
1.2.4 Đánh giá rủi ro kiểm toán 24
1.2.4.1 Đánh giá rủi ro tiềm tàng 24
1.2.4.2 Đánh giá rủi ro kiểm soát 27
1.2.4.3 Xác định rủi ro phát hiện 33
1.3 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính và ảnh hưởng của nó đến phương pháp kiểm toán. 34
PHẦN 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM (VAE.,LTD)……………………… 35
2.1 Tổng quan về Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam 35
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam 35
2.1.1.1 Giai đoạn từ khi thành lập đến năm 2002 35
2.1.1.2 Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2004 35
2.1.1.3 Giai đoạn từ năm 2004 đến tháng 10 năm 2006 35
2.1.1.4 Giai đoạn từ tháng 10 năm 2006 đến nay 35
2.1.2 Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh 35
2.1.3 Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của đơn vị 35
2.1.4 Thành tựu đạt được 35
2.1.5 Đặc điểm về tổ chức kiểm toán tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam 35
2.1.5.1 Đặc điểm về quy trình kiểm toán 35
2.1.5.2 Đặc điểm về hệ thống hồ sơ kiểm toán 35
2.1.5.3 Đặc điểm hệ thống kiểm soát chất lượng 35
2.2 Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính tại VAE.,Ltd 35
2.2.1 Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty VAE. 35
2.2.1.2 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện BCTC 35
2.2.1.3 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện số dư khoản mục và các loại nghiệp vụ 35
2.2.1.4 Ước lượng ban đầu về trọng yếu 35
2.2.1.5 Phân bổ ước lượng trọng yếu ban đầu cho các khoản mục 35
2.2.1.6 Xác định nội dung kiểm toán dựa vào đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán 35
2.2.2 So sánh quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính của 2 khách hàng là công ty X và công ty Y 35
2.2.2.1 Điểm giống nhau trong quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán của công ty X và công ty Y. 35
2.2.2.2 Điểm khác nhau trong quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán của công ty X và công ty Y. 35
2.2.3 Quy trình chung đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại công ty VAE 35
2.2.3.1 Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toánBCTC 35
2.2.3.2 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện BCTC 35
2.2.3.3 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện số dư khoản mục và nghiệp vụ 35
2.2.3.4 Ước lượng mức trọng yếu ban đầu cho toàn bộ BCTC. 35
2.2.3.5 Phân bổ mức trọng yếu ban đầu cho các khoản mục trên báo cáo tài chính. 35
PHẦN 3: NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI VAE.,LTD 35
3.1 Nhận xét về quy trình tác đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại VAE., Ltd. 35
3.1.1 Ưu điểm 35
3.1.1.1 Vận dụng các chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam và chuẩn mực KT quốc tế vào thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro KT 35
3.1.1.2 Có sự phân công trong việc đánh giá trọng yếu và rủi ro KT 35
3.1.1.3 Đánh giá Trọng yếu và Rủi ro kiểm toán được trình bày trên giấy tờ làm việc 35
3.1.2 Nhược điểm 35
3.1.2.1 Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán với khách hàng có quy mô nhỏ 35
3.1.2.2 Đánh giá, rủi ro kiểm toán khi chấp nhận hợp đồngKT 35
3.1.2.3 Bảng câu hỏi đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ với việc đánh giá rủi ro kiểm soát. 35
3.2 Kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính 35
3.2.1 Kiến nghị với Nhà nước và cơ quan chức năng 35
3.2.2 Kiến nghị với công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam 35
3.2.2.1 Kiến nghị để khắc phục những nhược điểm trong công tác đánh giá trọng yếu và rủi ro tại công ty 35
3.2.2.2 Các kiến nghị khác nhằm hoàn thiện công tác đánh giá trọng yếu và rủi ro 35
KẾT LUẬN 35
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, chúng ta đang sống trong thể kỷ 21, thế kỷ của hội nhập kinh tế trong khu vực và trên toàn thế giới. Hội nhập kinh tế vừa là cơ hội để phát triển đất nước vừa là thách thức lớn đối với nhiều lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của Việt nam để có thể cạnh tranh với các hàng hoá trên thị trường trong và ngoài nước.
Trong xu thế chung đó, lĩnh vực kiểm toán Việt Nam vẫn còn khá non trẻ và đang đứng trước nhiều khó khăn. Các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam cũng đang nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ để từng bước chuẩn bị hội nhập hoàn toàn với quốc tế và cạnh tranh với các công ty kiểm toán nước ngoài.
Trong kiểm toán, kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng nhất và được thực hiện nhiều nhất trong các cuộc kiểm toán. Để nâng cao chất lượng của các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, các công ty kiểm toán hiện nay đang rất chú trọng đến các công việc được tiến hành trong một cuộc kiểm toán. Công tác đánh giá rủi ro kiểm toán là một công việc hết sức phức tạp và quan trọng vì nó sẽ giúp kiểm toán viên có kế hoạch kiểm toán hiệu quả, từ đó xác định nội dung, lịch trình, phạm vi và các thủ tục kiểm toán để có thể phát hiện ra các sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính.
Thấy được tầm quan trọng của công tác đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính và qua thời gian thực tập tại công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam, em đã chọn đề tài: “ Hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam” với mong muốn tìm hiểu và góp phần hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro kiểm toán.
Luận văn tốt nghiệp gồm có 3 phần:
Phần 1: Lý luận chung về trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
Phần 2: Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
Phần 3: Nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Cũng nhân dịp này, em xin chân thành Thank Th.s Nguyễn Thị Hồng Thúy khoa Kế toán cùng các anh chị kiểm toán viên trong công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập vừa qua để em hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này.
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC
1.1 Trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.1.1 Khái niệm trọng yếu
Theo từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu” là một tính từ để chỉ sự quan trọng thiết yếu. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, trọng yếu lại có một ý nghĩa cụ thể.
Trong Kế toán, trọng yếu là một trong những nguyên tắc kế toán chung được chấp nhận rộng rãi. Kế toán chỉ nên quan tâm, chú trọng đến những vấn đề có ảnh hưởng đến tính chính xác của báo cáo tài chính, ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC, còn những khoản mục không quan trọng, không ảnh hưởng trọng yếu đến tính chính xác của báo cáo tài chính thì kế toán có thể toàn quyền xử lý theo cách thức tiện nhất cho công tác kế toán.
Trong lĩnh vực kiểm toán BCTC, trọng yếu là một khái niệm thường xuyên nhắc tới. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) về “Tính trọng yếu trong kiểm toán” thì “ Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hay sai sót của thông tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng BCTC. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hay sai sót đó. Vì thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hay một điểm định tính cơ bản mà một thông tin hữu ích cần có”
Theo Văn bản chỉ đạo Kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố thì: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất của sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hay đơn lẻ, hay từng nhóm, mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không chính xác hay là sẽ rút ra kết luận sai lầm.”
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm toán” thì trọng yếu được định nghĩa như sau: “Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức trọng yếu tuỳ từng trường hợp vào tầm quan trọng và tính chất của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Mức trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung của thông tin cần có. Tính trọng yếu phải xét trên cả phương diện định lượng và định tính”
Như vậy, trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ (hay độ lớn) và bản chất của các sai phạm kể cả bỏ sót của các thông tin tài chính hay là đơn lẻ hay là từng nhóm nếu xét trong một bối cảnh cụ thể, những sai phạm đó làm cho người sử dụng BCTC đưa ra các quyết định sai lầm hay hiểu sai bản chất vấn đề.
1.1.2 Vai trò của trọng yếu
Tính trọng yếu có vai trò rất quan trọng trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán (thiết kế phương pháp kiểm toán) và giai đoạn kết thúc kiểm toán
Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán:
Kiểm toán viên đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai sót có thể chấp nhận được, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót lên BCTC từ đó xác định bản chất, thời gian và phạm vi các thử nghiệm kiểm toán.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt nam số 300 (VSA 300) quy định: trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, kiểm toán viên phải “Xác định mức độ trọng yếu cho từng mục tiêu kiểm toán”
Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế số 320 (ISA 320) quy định: “Khi lập kế hoạch kiểm toán, chuyên gia kiểm toán phải cân nhắc xem những nhân tố có thể làm phát sinh những sai sót trọng yếu trong BCTC. Đánh giá của chuyên gia kiểm toán về mức độ trọng yếu, liên quan đến các số dư tài khoản cụ thể và các loại nghiệp vụ giúp họ xác định được khoản mục nào cần kiểm tra và nên sử dụng phương pháp chọn mẫu hay áp dụng các thủ tục phân tích. Điều này giúp chuyên gia kiểm toán lựa chọn những thủ tục kiểm toán; kết hợp những thủ tục kiểm toán đó lại với nhau có thể sẽ giảm được rủi ro kiểm toán tới một mức độ có thể chấp nhận được”
Trong giai đoạn thực hiện kiểm toán
Dựa vào đánh giá mức trọng yếu và mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro, kiểm toán viên sẽ lựa chọn các phương pháp kiểm toán thích hợp (tăng cường thử nghiệm cơ bản hay thử nghiệm kiểm soát…) đồng thời cũng có thể thay đổi phương pháp kiểm toán nếu có sự thay đổi trong đánh giá mức trọng yếu.
Trong giai đoạn kết thúc kiểm toán
Kiểm toán viên dựa vào mức trọng yếu để xác định mức độ trung thực, hợp lý của các thông tin trên BCTC và đánh giá ảnh hưởng của các sai sót đến BCTC để đưa ra ý kiến cho phù hợp. Nếu kiểm toán viên phát hiện thấy một sai phạm trọng yếu thì phải đề nghị khách hàng điều chỉnh. Nếu kiểm toán viên đánh giá là cần thiết mà khách hàng từ chối điều chỉnh thì kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần, ý kiến ngoại trừ hay ý kiến trái ngược tuỳ theo mức độ trọng yếu của sai phạm. Vì vậy, kiểm toán viên cần có sự hiểu biết về tính trọng yếu và thực hiện đánh giá trọng yếu một cách đầy đủ.
1.1.3 Quy mô và bản chất của khoản mục nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu
Việc đánh giá trọng yếu là một công việc mang tính xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Hơn nữa, trọng yếu là một khái niệm tương đối và gắn liền quy mô của khách hàng. Một sai phạm là trọng yếu với công ty này nhưng có thể là không trọng yếu với công ty khác. Do đó, để đánh giá một khoản mục, nghiệp vụ là trọng yếu hay không, kiểm toán viên cần xem xét trên cả hai mặt định tính và định lượng của những sai phạm hay nói cách khác, cần xem xét cả quy mô và bản chất nghiệp vụ trong quan hệ với tính trọng yếu
1.1.3.1 Quy mô trong mối quan hệ với trọng yếu
Quy mô của sai phạm đối với một khoản mục hay nghiệp vụ là một nhân tố quan trọng để xem xét sai phạm đó có trọng yếu hay không. Các chỉ tiêu thường được dùng làm cơ sở đánh giá tính trọng yếu như: thu nhập trước thuế, tổng tài sản, doanh thu, tài sản lưu động, nợ ngắn hạn… Trong các chỉ tiêu đó thì chỉ tiêu thu nhập trước thuế thường là quan trọng nhất vì nó được xem như một khoản mục thông tin then chốt nhất đối với người sử dụng BCTC.
Ta xem xét hai mức độ khác nhau về quy mô của khoản mục, nghiệp vụ là quy mô nhỏ và quy mô lớn để thấy được mối quan hệ giữa quy mô và tính trọng yếu.
a. Quy mô nhỏ
Một khoản mục, nghiệp vụ sai phạm với quy mô nhỏ trong báo cáo tài chính thì thường được coi là không trọng yếu bởi vì việc phản ánh đúng hay sai khoản mục, nghiệp vụ này cũng không ảnh hưởng đến quy mô chung trên BCTC và không ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng.
Tuy nhiên, khi xem xét các sai phạm không nên xem xét nó một cách cô lập vì chúng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ nhưng nếu kiểm toán viên cộng dồn các sai phạm thì sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của các sai phạm từ đó phát hiện ra tính trọng yếu của chúng.
Xét trên phương diện quy mô của nghiệp vụ, khoản mục để đánh giá tính trọng yếu cần liên hệ với quy mô của doanh nghiệp. Ví dụ một khoản mục có quy mô 5.000.000 VND có thể được đánh giá là không trọng yếu khi tổng tài sản là 10.000.000.000 VND nhưng có thể được đánh giá là trọng yếu khi tổng tài sản là 10.000.000 VND. hay khoản mục nguyên vật liệu phụ có thể không trọng yếu trong sản xuất dầu nhưng lại là trọng yếu trong sản xuất thuỷ tinh, gốm sứ,…
b. Quy mô lớn
Các khoản mục có quy mô lớn thường được đánh giá là trọng yếu vì nó ảnh hưởng đến nhận thức về thực trạng hoạt động tài chính và từ đó ảnh hưởng đến các quyết định quản lý kinh tế và các kết luận kiểm toán. Ví dụ khoản mục tài sản cố định thường có quy mô lớn trong bảng cân đối kế toán do đó chúng thường được đánh giá là trọng yếu.
Tuy nhiên không phải khoản mục nào có quy mô lớn cũng sẽ ảnh hưởng trọng yếu tới báo cáo tài chính vì còn phải xem xét mối quan hệ của khoản mục với đối tượng kiểm toán cũng như mục tiêu kiểm toán. Vì vậy, việc đánh giá trọng yếu chỉ dựa vào quy mô là không dễ dàng. Trong thực tế để đánh giá trọng yếu, kiểm toán viên xem xét đánh giá cả về bản chất của khoản mục, nghiệp vụ
1.1.3.2 Bản chất của khoản mục, nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu
Các khoản mục, nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hay chứa đựng khả năng gian lận và các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng
a. Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hay chứa đựng khả năng gian lận
Với cùng một quy mô tiền tệ, các gian lận thường được chú trọng hơn sai sót bởi vì các gian lận thường ảnh hưởng đến tính trung thực và độ tin cậy cảu Ban Giám đốc và những người có liên quan. Vì vậy, một hành vi gian lận luôn được coi là trọng yếu bất kể quy mô là lớn hay nhỏ.
Các khoản mục, nghiệp vụ chứa gian lận hay chứa đựng khả năng gian lận bao gồm:
Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp. Các nghiệp vụ này chứa đựng gian lận vì trong đấu thầu, việc lựa chọn chủ thầu nhiều khi có sự móc nối, phối hợp giữa bên giao thầu và bên nhận thầu để thu lợi cho một số cá nhân..
Các nghiệp vụ thanh lý tài sản khi tài sản khấu hao hết hay chưa khấu hao hết nhưng không còn sử dụng. Các nghiệp vụ này chứa đựng gian lận vì trong nhiều trường hợp tài sản vẫn còn tốt và sử dụng được nhưng vẫn đem đi thanh lý với giá rẻ do ban giám đốc không quản lý chặt chẽ và có sự liên kết giữa người tiến hành thanh lý và người mua tài sản thanh lý.
Các nghiệp vụ về tiền mặt: tiền mặt có đặc điểm gọn nhẹ, dễ di chuyển, cất trữ và có biên độ dao động lớn do đó rất dễ có gian lận phát sinh
Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: dễ có sự liên kết giữa người mua và người bán để kiếm lợi cho bản thân
Các nghiệp vụ bất thường: Đây là các nghiệp vụ xảy ra không thường xuyên, không có dự tính trước hay có dự tính nhưng ít khi xảy ra. Các nghiệp vụ lại có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, kiểm toán viên cần xem xét mức độ nghiêm trọng của các nghiệp vụ đó ảnh hưởng đến kết quả chung của doanh nghiệp
Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu như bất cứ ai cũng muốn thu lợi cho mình.
Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách
Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hay thuộc loại nghiệp vụ mới sinh. Các nghiệp vụ vào cuối kỳ kế toán thường để điều chỉnh một số chênh lệch thừa thiếu để kết quả hoạt động kinh doanh được như kế hoạch đã đề ra. Các nghiệp vụ mới phát sinh thì kiểm toán viên cần đặt câu hỏi tại sao không phát sinh từ trước đến giờ và liệu kế toán có xử lý đúng chưa và từ đó đi tìm bằng chứng chứng minh
Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa
Các khoản mục vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý chung
b. Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hay có chênh lệch lớn với các kỳ trước hay giữa các nguồn thông tin liên quan.
Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán nhưng không cố ý tuy nhiên có thể dẫn đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin
Các nghiệp vụ, khoản mục có sai sót lặp lại nhiều lần
Các khoản mục nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau: Đối với các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót trong kỳ là nhỏ nhưng nếu không điều chỉnh sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau thì được coi là trọng yếu.
Các sai sót ảnh hưởng đến lợi nhuận thường được coi là trọng yếu như một khoản lỗ được báo cáo như là một khoản lãi hay ngược lại.
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót sẽ gây ra hậu quả liên quan đến nhiều khảon mục, nghiệp vụ khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến BCTC. Ví dụ hàng tồn kho bị tính giá sai sẽ ảnh hưởng đến giá vốn hàng bán, lợi nhuận…
Sự mô tả không đúng đắn, không xác đáng về chính sách kế toán của doanh nghiệp làm cho người sử dụng BCTC sẽ hiểu sai về bản chất thông tin
1.1.4 Đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính
Quá trình đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán. Quá trình này được khái quát qua năm bước và được thể hiện qua sơ đồ 1.1
- Bước 1: Ước lượng ban đầu về trọng yếu
- Bước 2: Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục
- Bước 3: Ước lượng tổng số sai sót trong từng khoản mục
- Bước 4: Ước tính sai số kết hợp
- Bước 5: So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu về trọng yếu
Sơ đồ 1.1: Các bước xác định và vận dụng tính trọng yếu
Bước 1 Ước lượng ban đầu về trọng yếu
Bước 2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục
Bước 3 Ước lượng tổng số sai sót trong các khoản mục
Bước 4 Ước tính sai số kết hợp
Bước 5 So sánh sai số tổng hợp ước tính với ước lượng ban đầu về trọng yếu
Trong 5 bước trên, bước 1 và 2 được thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Bước 3, 4, 5 được tiến hành trong giai đoạn thực hiện kiểm toán
1.1.4.1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu
Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà kiểm toán viên tin rằng ở mức đó các BCTC có thể bị sai lệch nhưng vẫn chưa ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của người sử dụng thông tin tài chính. Hay nói cách khác, đó chính là những sai sót có thể chấp nhận được đối với toàn bộ báo cáo tài chính
Việc ước lượng ban đầu về trọng yếu giúp kiểm toán viên lập kế hoạch để thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. Nếu các kiểm toán viên ước lượng mức trọng yếu càng thấp nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên BCTC càng cao thì số lượng bằng chứng cần thu thập càng nhiều và ngược lại
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu mang tính chất xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Do đó, ước lượng ban đầu về trọng yếu không cố định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán viên thấy ước lượng ban đầu là không phù hợp vì một trong các nhân tố xác định mức ước lượng này thay đổi.
Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế số 320 về “Tính trọng yếu trong kiểm toán” đã quy định: “Việc đánh giá của chuyên gia kiểm toán về vấn đề trọng yếu và rủi ro kiểm toán ở thời điểm lập kế hoạch kiểm toán ban đầu có thể khác với thời điểm đánh giá kết quả cuối cùng của các thủ tục kiểm toán. Nguyên nhân của sự khác nhau này là sự thay đổi tình hình thực tế hay sự thay đổi về nhận biết của chuyên gia sau một thời gian làm kiểm toán”
Mặc dù ước lượng ban đầu về trọng yếu là một xét đoán nghề nghiệp mang tính chủ quan của kiểm toán viên song trên thực tế, để hỗ trợ cho kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán, các công ty thường có đường lối chỉ đạo ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thông qua việc hướng dẫn các chỉ tiêu được chọn làm gốc trong từng trường hợp cụ thể, tỷ lệ tính mức trọng yếu với từng chỉ tiêu. Các chỉ tiêu này phải là các chỉ tiêu có tính ổn định qua các năm.
Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu thường được áp dụng tại các công ty kiểm toán quốc tế như sau:
Từ 5% - 10% đối với lợi nhuận trước thuế
Từ 0.5% - 1% đối với doanh thu
Từ 2% - 4% hay từ 3% - 6% đối với tài sản lưu động hay nợ ngắn hạn
Từ 1% - 2% đối với tổng tài sản
….
1.1.4.2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC
Sau khi kiểm toán viên đã có ước lượng ban đầu về trọng yếu cho toàn bộ báo cáo tài chính, kiểm toán viên cần phân bổ ước lượng này cho từng khoản mục trên báo cáo tài chính. Đây chính là sai số có thể chấp nhận được đối với từng khoản mục
Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục nhằm mục đích giúp kiểm toán viên xác định số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp cần thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất mà vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót trên BCTC không vượt quá mức ước lượng ban đầu về trọng yếu
Hầu hết các sai sót trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh đều có ảnh hưởng tương tự như trên bảng cân đối kế toán do hệ thống bút toán ghi sổ kép. Vì thế trong phần lớn các cuộc kiểm toán và hầu hết các thủ tục kiểm toán, việc phân bổ này chủ yếu cho các khoản mục trên bảng cân đối kế toán.
Việc phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục được thực hiện theo cả hai hướng: khai khống (báo cáo thừa) và khai thiếu (báo cáo thiếu)
Cơ sở để tiến hành phân bổ là bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát đối với từng khoản mục, chi phí kiểm toán. Tuy nhiên trên thực tế rất khó biết trước được những tài khoản nào có khả năng sai số, chi phí liên quan đến kiểm toán khó có thể xác định vì vậy công việc này thường do các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm thực hiện. Ví dụ như chi phí thu thập bằng chứng về hàng tồn kho cao hơn chi phí thu thập về công nợ nên sai số có thể chấp nhận được của hàng tồn kho cao hơn sai số có thể chấp nhận được đối với công nợ. hay không có sai số có thể chấp nhận được với lãi chưa phân phối vì chỉ tiêu này chỉ sinh ra từ sai số các tài khoản khác.
1.1.4.3 Ước tính tổng số sai sót cho từng khoản mục
Bằng các thủ tục kiểm toán được áp dụng, kiểm toán viên phát hiện ra các sai sót đối với từng khoản mục. Dựa vào các sai sót này để ước tính tổng số các sai sót đối với từng khoản mục. Đây là sai sót dự kiến, kiểm toán viên sẽ so sánh nó với sai sót có thể chấp nhận được nhằm quyết định xem khoản mục đó có thể chấp nhận hay không hay phải tiến hành thêm các thủ tục kiểm toán thích hợp khác.
1.1.4.4 Ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được
Sau khi ước tính sai sót cho từng khoản mục, kiểm toán viên tiến hành ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được. Tổng số sai sót có thể chấp nhận được chính là tổng số sai sót dự kiến cho tất cả các khoản mục trên báo cáo tài chính
1.1.4.5 So sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng yếu hay ước lượng ban đầu về trọng yếu đã có sự điều chỉnh
Việc so sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng yếu cho phép kiểm toán viên đánh giá toàn bộ các sai sót trong các khoản mục có vượt quá giới hạn về mức trọng yếu chung cho toàn bộ báo cáo tài chính không. Nếu sai số kết hợp lớn hơn mức ước tính về trọng yếu thì BCTC không được chấp nhận toàn phần. Trong trường hợp sai số kết hợp lớn hơn mức ước tính ban đầu về trọng yếu chủ yếu do một số tài khoản có ước tính cao thì kiểm toán viên tiến hành so sánh ước tính sai số kết hợp sau khi trừ đi sai sót do các khoản mục trên gây ra với ước tính ban đầu về trọng yếu sau khi trừ đi mức trọng yếu phân bổ cho các khoản mục trên. Nếu mức sai sót kết hợp thấp hơn thì kiểm toán viên sẽ tập trung tăng cường thủ tục kiểm toán đối với các khoản mục có sai sót trọng yếu và mở rộng quy mô mẫu hay yêu cầu khách hàng điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên. Lúc này, kiểm toán viên không cần tiến hành thêm các thử nghiệm kiểm toán chung trên toàn bộ BCTC nữa. Nếu khách hàng không điều chỉnh và các thủ tục kiểm toán bổ sung vẫn khẳng định có sai sót trọng yếu thì kiểm toán viên không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần.
Trong quá trình kiểm toán, nếu kiểm toán viên phát hiện ra một số yếu tố ảnh hưởng đến việc ước lượng ban đầu về trọng yếu thì kiểm toán viên có thể ước lượng lại. Kiểm toán viên sẽ tiến hành so sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng về trọng yếu đã được điều chỉnh.
Nếu mức sai số kết hợp gần bằng ước lượng ban đầu về trọng yếu hay ước lượng về trọng yếu đã được điều chỉnh thì đảm bảo nguyên tắc thận trọng, kiểm toán viên thường yêu cầu Ban Giám Đốc điều chỉnh lại các sai sót có quy mô lớn hay mở rộng quy mô mẫu và tiến hành các thủ tục kiểm toán bổ sung với các khoản mục này.
1.2 Rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính
1.2.1 Khái niệm rủi ro kiểm toán
Để hiểu được rủi ro kiểm toán trước hết ta cần hiểu rủi ro là gì và phân biệt một số loại rủi ro được đề cập trong lĩnh vực kiểm toán.
Theo từ điển Tiếng Việt, rủi ro là tính từ để chỉ việc không may xảy ra. Trong lĩnh vực kiểm toán, ta cần phân biệt rủi ro kiểm toán và rủi ro kinh doanh. Rủi ro kinh doanh là loại rủi ro mà công ty kiểm toán thường gặp phải khi nhấp nhận kiểm toán. Đây là loại rủi ro công ty kiểm toán sẽ phải chịu thiệt hại vì mối quan hệ với khách hàng. Rủi ro kinh doanh liên quan đến trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính cho khách hàng.
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) “ Trọng yếu và rủi ro kiểm toán” do Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) soạn thảo và công bố: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro ma kiểm toán viên có thể mắc phải khi đưa ra nhận xét không xác đáng về các thông tin tài chính và đó là sai sót nghiêm trọng”.
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” (VSA 400) và Chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 400, khái niệm rủi ro kiểm toán được định nghĩa như sau: “Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu”.
Rủi ro kiểm toán chủ yếu được kiểm toán viên xác định trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 đã quy định: “Rủi ro kiểm toán được xác định trước khi lập kế hoạch kiểm toán và trước khi thực hiện kiểm toán”. Rủi ro kiểm toán được xác định sẽ giúp kiểm toán viên có chiến lược chung với hợp đồng kiểm toán, bố trí nhân sự, thời gian cho cuộc kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán thích hợp cho các khoản mục trên báo cáo tài chính.
1.2.2 Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán
Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm tàng ( Inherrent Risk – IR), rủi ro kiểm soát ( Control Risk - CR) và rủi ro phát hiện ( Detection Risk – DR ).
1.2.2.1 Rủi ro tiềm tàng
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”: “ Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hay của một loại nghiệp vụ đối với những sai sót có thể là nghiêm trọng, những sai sót này có thể là đơn lẻ hay có thể kết hợp với sai sót ở các số dư và các nghiệp vụ khác (ở đây giả định rằng không có quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong môi trường kinh doanh cũng như nằm trong bản chất của các số dư tài khoản hay các loại nghiệp vụ”.
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400: “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ “ quy định: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng những sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hay tính gộp mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”
1.2.2.2 Rủi ro kiểm soát
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”: “ Rủi ro kiểm soát là rủi ro do phát hiện sai, có thể xảy ra với một số dư tài khoản hay một loại nghiệp vụ và có thể sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này có thể xảy ra đơn lẻ hay có thể kết hợp sai sót của các số dư, các loại nghiệp vụ khác mà hệ thống kiểm soát nội bộ đã không ngăn chặn hay không phát hiện kịp thời.”
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hay tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hay không phát hiện và sửa chữa kịp thời”.
Như vậy, rủi ro kiểm soát là loại rủi ro liên quan đến sự yếu kém của hệ thống kiểm soát nội bộ.
1.2.2.3 Rủi ro phát hiện
Theo văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”: “ Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm toán viên không phát hiện ra các sáíot hiện có trong các số dư tài khoản hay các loại nghiệp vụ. Những sai sót này có thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hay có thể kết hợp với các sai sót trong số dư, các loại nghiệp vụ khác. Mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán của kiểm toán viên”
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ”: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hay tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được”
1.2.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro dùng để đánh giá rủi ro trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Để tìm hiểu mối quan hệ giữa các loại rủi ro, trước hết ta tìm hiểu về mô hình rủi ro kiểm toán.
1.2.3.1 Mô hình rủi ro kiểm toán
Ta có:
AR = IR x CR x DR
Trong đó: AR: Rủi ro kiểm toán IR: Rủi ro tiềm tàng
CR: Rủi ro kiểm soát DR: Rủi ro phát hiện
Mô hình rủi ro kiểm toán được sử dụng khi lập kế hoạch kiểm toán theo một hay cả hai cách. Cách thứ nhất là mô hình được dùng để giúp kiểm toán viên đánh giá liệu kế hoạch kiểm toán có hợp lý không. Ví dụ với một cuộc kiểm toán nhất định, kiểm toán viên đánh giá Rủi ro tiềm tàng IR=0,5, Rủi ro kiểm soat CR=0,25, Rủi ro phát hiện DR=0,1 thì AR=0,5 x 0,25 x 0,1=0,0125. Nếu kiểm toán viên kết luận là rủi ro kiểm toán thích hợp đối với hợp đồng kiểm toán không thấp hơn 1,25% thì kế hoạch đó được chấp nhận.
Tuy nhiên để có được một kế hoạch hiệu quả hơn, kiểm toán viên thường sử dụng mô hình kiểm toán theo cách thứ hai để xác định rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng thích hợp phải thu thập. Theo cách này, ban đầu khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên sẽ xác định ra một mức rủi ro kiểm toán mong muốn chung cho cuộc kiểm toán ( ví dụ DAR=0,0125). Sau đó trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên sẽ đánh giá được rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát ( ví dụ 0,5 và 0,25). Lúc này để đảm bảo cho cuộc kiểm toán có mức độ rủi ro kiểm toán ở mức như dự kiến ban đầu, kiểm toán viên xác định rủi ro phát hiện theo công thức
DR = DAR
IR x CR
Do đó, rủi ro phát hiện sẽ là 0,1. Từ đó, kiểm toán viên lập chương trình kiểm toán thích hợp để thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp đảm bảo rủi ro phát hiện ở mức 0,1 và rủi ro kiểm toán ở mức 0,0125
Rủi ro kiểm toán được xác định theo cách thứ hai này được kiểm toán viên sử dụng phổ biến hơn. Theo cách này, rủi ro kiểm toán được xác định từ ban đầu cuộc kiểm toán và được gọi là rủi ro kiểm toán mong muốn (Desired Audit Risk- DAR). Đây là mức độ mà kiểm toán viên sẵn sàng chấp nhận là báo cáo tài chính có thể sai sót sau khi cuộc kiểm toán đã hoàn thành và đi đến ý kiến chấp nhận toàn phần. Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định một cách chủ quan theo kinh nghiệm của kiểm toán viên. Khi kiểm toán viên quyết định một tỷ lệ rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn có nghĩa là kiểm toán viên muốn chắc chắn hơn là các báo cáo tài chính không bị sai phạm trọng yếu. Rủi ro kiểm toán mong muốn =0 thể hiện kiểm toán viên hoàn toàn chắc chắn là báo cáo tài chính không có sai phạm trọng yếu. Rủi ro kiểm toán mong muốn = 1 thể hiện kiểm toán viên hoàn toàn không chắc chắn rằng báo cáo tài chính không có sai phạm trọng yếu. Như vậy DAR có thể nằm trong khoảng từ 0 đến 1. Rủi ro kiểm toán mong muốn = 0 là điều rất hiếm xảy ra trong kiểm toán báo cáo tài chính vì bị giới hạn về thời gian và chi phí cho cuộc kiểm toán.
Mức độ rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định dựa vào hai yếu tố chủ yếu là: Mức độ mà theo đó những người sử dụng bên ngoài tin vào báo cáo tài chính và khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn tài chính sau khi Báo cáo kiểm toán được công bố.
Mức độ mà theo đó những người sử dụng bên ngoài tin vào báo cáo tài chính
Khi người sử dụng bên ngoài đặt nhiều niềm tin vào báo cáo tài chính thì mức độ ảnh hưởng trên phạm vi toàn xã hội sẽ càng lớn nếu có một sai sót không được phát hiện trên báo cáo tài chính. Do đó, kiểm toán viên cần xác định một mức rủi ro kiểm toán thấp để tăng số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập và tăng độ chính xác trong các kết luận kiểm toán. Mức độ mà các báo cáo tài chính được người sử dụng bên ngoài tin tưởng phụ thuộc vào một số yếu tố như:
Quy mô của công ty khách hàng: Hoạt động của khách hàng càng lớn thì báo cáo tài chính càng được sử dụng rộng rãi. Quy mô của công ty khách hàng được đo lường bằng tổng tài sản, thu nhập và số lao động. Các chỉ tiêu này càng lớn thì rủi ro kiểm toán mong muốn càng thấp.
Sự phân phối quyền sở hữu: Các báo cáo của các công ty sở hữu công cộng thường được người sử dụng tin tưởng hơn các báo cáo của các công ty có quyền sử dụng hẹp hơn và khi đó, rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức thấp hơn. Ví dụ như công ty cổ phần niêm yết trên sàn có mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn so với công ty cổ phần nhưng chưa niêm yết vì số lượng người quan tâm đến báo cáo tài chính nhiều hơn.
Bản chất và quy mô công nợ: Khi các báo cáo tài chính bao gồm một số lượng lớn công nợ, chúng có nhiều khả năng được sử dụng rộng rãi bởi các chủ nợ thực tế và tiềm năng hơn là khi có ít công nợ. Lúc này rủi ro kiểm toán mong muốn được đánh giá thấp hơn.
Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn tài chính sau khi Báo cáo kiểm toán được phát hành
Nếu khả năng này càng cao thì kiểm toán viên phải thiết lập một mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn so với khách hàng gặp ít khó khăn tài chính hơn, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Điều này làm cho chi phí kiểm toán tăng lên để giảm thiểu khả năng các vụ kiện mà kiểm toán viên và công ty kiểm toán sẽ phải đương đầu trong tương lai.
Việc đoán khả năng khách hàng gặp khó khăn tài chính trong tương lai là điều không đơn giản nhưng kiểm toán viên có thể dựa vào một số yếu tố sau để phán đoán sự kiện này:
Khả năng thanh toán: Nếu một khách hàng thường xuyên thiếu tiền mặt, vốn lưu động điều này là một dấu hiệu xấu về khả năng thanh toán. Kiểm toán viên cần đánh giá khả năng và ý nghĩa của tình trạng này khi nó trở nên xấu hơn.
Các khoản lãi, lỗ trong các năm trước: Khi một công ty giảm nhanh các khoản lãi (lỗ) trong vài năm, kiểm toán viên cần nhận biết các vấn đề trong tương lai về khả năng thanh toán, tiếp tục hoạt động mà khách hàng có thể gặp phải.
Các cách thức làm tăng quy mô vốn: Nếu công ty khách hàng mở rộng quy mô vốn bằng cách vay nợ thì rủi ro gặp khó khăn về tài chính càng lớn nếu các hoạt động của khách hàng trở nên kém thành công.
Bản chất hoạt động kinh doanh của công ty khách hàng: Một số loại hình doanh nghiệp nhất định có nhiều rủi ro hơn các loại hình doanh nghiệp khác. Ví dụ với các điều kiện khác không đổi thì công ty môi giới chứng khoán có khả năng phá sản cao hơn một công ty điện nước.
Năng lực của ban giám đốc: nếu ban giám đốc có năng lực kém thì khả năng công ty gặp khó khăn về mặt tài chính sẽ tăng lên.
Ngoài ra còn phải xét đến các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp như: các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, về sự thay đổi các chính sách kinh tế….
Căn cứ vào các yếu tố trên, kiểm toán viên sẽ xác định một mức rủi ro kiểm toán mong muốn cho toàn bộ báo cáo tài chính. Kiểm toán viên có thể dựa vào rủi ro kiểm toán mong muốn của toàn bộ báo cáo tài chính để đưa ra rủi ro kiểm toán mong muốn cho từng khoản mục. Ví dụ: Kiểm toán viên lập rủi ro kiểm toán mong muốn cho toàn bộ báo cáo tài chính ở mức trung bình vì số người sử dụng báo cáo tài chính hạnh chế và lợi nhuận từ hoạt động trước đây là binh thường thì kiểm toán viên có khả năng sử dụng mức rủi ro kiểm toán trung bình đối với các khoản phải thu, tài sản cố định và tất cả các khoản mục chủ yếu khác.
Kiểm toán viên thường dùng cùng một mức rủi ro kiểm toán mong muốn đối với từng bộ phận vì các yếu tố có ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán mong muốn thường liên quan đến toàn bộ cuộc kiểm toán chứ không phải đến từng bộ phận riêng biệt. Tuy vậy trong một số trường hợp đặc biệt, một mức rủi ro kiểm toán mong muốn lớn hơn có thể thích hợp hơn bộ phận này so với bộ phận khác. Trong ví dụ trên, cho dù kiểm toán viên quyết định sử dụng rủi ro kiểm toán trung bình đối với cuộc kiểm toán nói chung, kiểm toán viên có thể quyết định giảm rủi ro kiểm toán mong muốn xuông thấp hơn đối với hàng tồn kho nếu hàng tồn kho được sử dụng như là một vật thế chấp cho một khoản vay ngắn hạn.
1.2.3.2 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Qua nghiên cứu các loại rủi ro và mô hình rủi ro kiểm toán, chúng ta thấy rằng rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác với rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán ở chỗ các loại rủi ro này tồn tại độc lập, khách quan với các thông tin tài chính. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh và môi trường quản lý của doanh nghiệp cũng như trong bản chất của số dư tài khoản, các loại nghiệp vụ cho dù có hay không có công việc kiểm toán. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên kiểm toán viên thường kết hợp cùng lúc việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
Trong khi đó rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán được đánh giá và xác định phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của kiểm toán viên. Kiểm toán viên thường xác định rủi ro kiểm toán ngay từ đầu khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán. Còn rủi ro phát hiện được xác định cuối cùng sau khi đã xác định rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát dựa trên việc thiết kế các thủ tục kiểm toán để đảm bảo rủi ro kiểm toán ở mức mong muốn.
Rủi ro phát hiện có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá cao thì rủi ro phát hiện có thể được đánh giá ở mức độ thấp để giảm rủi ro kiểm toán ở mức thấp nhất có thể chấp nhận được. Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp thì có thể chấp nhận mức độ rủi ro phát hiệncao hơn nhưng vẫn phải đảm bảo rủi ro kiểm toán xuống thấp ở mức có thể chấp nhận được
Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng sau đây:
Bảng 1.1: Dự kiến rủi ro phát hiện
Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro kiểm soát
Cao Trung bình Thấp
Đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro tiềm tàng Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
Trong đó:
• Mỗi loại rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát đều được chia thành ba mức: cao, trung bình, thấp
• Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện
• Rủi ro phát hiện được chia thành năm mức: cao nhất, cao, trung bình, thấp, thấp nhất
1.2.4 Đánh giá rủi ro kiểm toán
1.2.4.1 Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Rủi ro tiềm tàng được kiểm toán viên đánh giá cho toàn bộ báo cáo tài chính trong khi lập kế hoạch kiểm toán. Đồng thời kiểm toán viên cũng xác định rủi ro tiềm tàng cho các số dư hay các loại nghiệp vụ trong khi lập chương trình kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” : “Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định cụ thể mức độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư và các loại nghiệp vụ quan trọng đến từng cơ sở dẫn liệu. Trường hợp không thể xác đinh cụ thể thì kiểm toán viên phải giả định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ vào mức độ đánh giá rủi ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện cho các nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên báo cáo tài chính, hay các nghiệp vụ, khoản mục mà kiểm toán viên đánh giá là có rủi ro tiềm tàng cao”.
a. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện báo cáo tài chính
Trên phương diện báo cáo tài chính, kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng dựa vào các nhân tố chủ yếu sau:
Sự liêm khiết, kinh nghiệm và sự hiểu biết của Ban Giám Đốc cũng như sự thay đổi thành phần ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán trước. Ban Giám Đốc không thể xem là hoàn toàn trung thực trong mọi trường hợp. Trong trường hợp Ban Giám đốc bị kiểm soát bởi một hay một số ít cá nhân thiếu tính trung thực thì khả năng báo cáo tài chính bị báo cáo sai là tăng lên, do vậy rủi ro tiềm tàng sẽ được đánh giá ở mức cao….
Trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của kế toán trưởng, của các nhân viên kế toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ. Nếu kế toán trưởng có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm nhiều thì họ có khả năng kiểm soát và ngăn chặn các sai sót và gian lận. Ngược lại nếu kế toán trưởng không có trình độ chuyên môn cao và nhiều kinh nghiệm thì báo cáo tài chính sẽ chứa đựng nhiều sai sót thậm chí gian lận không được ngăn chặn và phát hiện. Tuy nhiên cũng không loại trừ khả năng kế toán trưởng sử dụng trình độ của mình để gian lận.
Những áp lực bất thường đối với Ban Giám Đốc, kế toán trưởng thúc đẩy Ban giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày báo cáo tài chính không được trung thực. Ví dụ khi Ngân Hàng, hội đồng quản trị yêu cầu doanh nghiệp phải có lãi sau một vài năm hoạt động bị thua lỗ hay khi doanh nghiệp cần thu hút vốn đầu tư của bên ngoài…
Đặc điểm hoạt động của đơn vị như: Quy trình công nghệ, cơ cấu, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ…
Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị như: các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi thị trường, sự thay đổi hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị. Nếu tình hình kinh tế, thị trường hay sự thay đổi hệ thống kế toán tác động đến doanh nghiệp thì rủi ro tiềm tàng thường được đánh giá cao.
Hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên và hợp đồng kiểm toán dài hạn: Đối với hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên, kiểm toán viên thường thiếu hiểu biết và kinh nghiệm về những sai sót của đơn vị khách hàng nên kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm toán cao hơn so với hợp đồng kiểm toán dài hạn.
b. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên cần dựa vào các nhân tố sau:
Báo cáo tài chính có những điều chỉnh liên quan đến niên độ trước: Các báo cáo tài chính này thường được đánh giá rủi ro tiềm tàng cao bởi vì có thể những điều chỉnh không đúng theo những sai sót trong niên độ trước hay không đánh giá được chính xác sự tác động của những sai sót trong kỳ trước đến kỳ này.
Báo cáo tài chính có nhiều ước tính kế toán: Đối với các tài khoản phản ánh các ước tính kế toán như dự phòng phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho,…thì việc hạch toán các khoản mục này không những đòi hỏi sự hiểu biết về bản chất, khoản mục liên quan về mặt lý thuyết mà còn cả kinh nghiệm và sự xét đoán chủ quan của người có trách nhiệm. Vì vậy rủi ro tiềm tàng thường được đánh giá cao khi báo cáo tài chính có nhiều ước tính kế toán.
Trong năm tài chính có sự thay đổi chính sách kế toán: Trong trường hợp việc áp dụng các chính sách kế toán trong doanh nghiệp còn chậm hay chưa đúng chế độ kế toán thì rủi ro tiềm tàng cũng được đánh giá cao.
Kết quả kiểm toán lần trước: Đối với những tài khoản được phát hiện có sai phạm trong các lần kiểm toán của năm trước, rủi ro tiềm tàng thường được xác định ở mức cao. Bởi vì nhiều loại sai phạm có tính chất hệ thống và các đơn vị thường chậm chạp không tiến hành sửa chữa nên các sai phạm đã xảy ra trong năm trước có thể vẫn tiếp diễn trong các năm sau.
Mức độ dễ mất mát, biển thủ tài sản như: phát sinh nhiều nghiệp vụ thu, chi tiền mặt, tạm ứng tiền mặt với số lượng lớn, thời gian thanh toán dài…
Mức độ phức tạp của các nghiệp vụ hay sự kiện quan trọng đòi hỏi phải có ý kiến của chuyên gia như xảy ra kiện tụng hay trộm cắp…
Quy mô của các số dư tài khoản: Các tài khoản có số dư bằng tiền lớn thường được đánh giá rủi ro tiềm tàng cao hơn.
Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường, phức tạp, đặc biệt là gần thời điểm kết thúc niên độ.
Các nghiệp vụ kinh tế, tài chính bất thường khác.
1.2.4.2 Đánh giá rủi ro kiểm soát
a. Hệ thống kiểm soát nội bộ trong mối quan hệ với rủi ro kiểm soát
Theo Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC), hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống chính sách và thủ tục bao gồm bốn mục tiêu: mục tiêu bảo vệ tài sản của đơn vị, bảo đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý và bảo đảm hiệu quả của hoạt động. Hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm bốn yếu tố cơ bản: môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, các thủ tục kiểm soát và kiểm toán nội bộ.
Hệ thống kiểm soát nội bộ có mối quan hệ chặt chẽ với rủi ro kiểm soát. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế và vận hành có hiệu quả để ngăn ngừa hết những sai sót trọng yếu có thể xảy ra thì rủi ro kiểm soát bằng 0. Tuy nhiên trong thực tế rủi ro kiểm soát không bao giờ bằng 0 vì sự hạn chế tiềm tàng của hệ thống kiểm soát nội bộ. Đó là:
Ban quản lý luôn yêu cầu chi phí cho hệ thống kiểm soát nội bộ không vượt quá những lợi ích mà hệ thóng đó mang lại.
Phần lớn các thủ tục kiểm soát nội bộ thường được thiết lập cho các nghiệp vụ thường xuyên, lặp đi lặp lại hơn là những nghiệp vụ bất thường, không thường xuyên.
Không loại trừ được rủi ro, sai sót của con người, xuất phát từ sự thiếu chủ ý, đãng trí, sai sót về xét đoán hay do không hiểu các chỉ thị
Khả năng vượt tầm kiểm soát của hệ thống kiểm soát nội bộ do có sự thông đồng của một người trong ban giám đốc hay một nhân viên với những người khác ở trong hay ngoài đơn vị
Khả năng người chịu trách nhiệm thực hiện kiểm soát nội bộ lạm dụng đặc quyền của mình.
Do có sự biến dộng tình hình, các thủ tục kiểm soát có khả năng không còn thích hợp và do đó không được áp dụng.
b. Quy trình đánh giá rủi ro kiểm soát
Quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát cũng chính là quá trình đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. Quá trình đánh giá rủi ro kiểm soát được khái quát thành bốn bước:
Bước 1: Thu thập hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ và mô tả chi tiết hệ thống kiểm soát nội bộ trên giấy tờ làm việc
Trong giai đoạn này, kiểm toán viên tìm hiểu về kiểm soát nội bộ của đơn vị trên hai mặt chủ yếu: thiết kế kiểm soát nội bộ bao gồm thiết kế về quy chế kiểm soát và thiết kế về bộ máy kiểm toán; hoạt động liên tục và có hiệu lực của kiểm soát nội bộ
Để đạt được sự hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên áp dụng các phương pháp sau:
Dựa vào kinh nghiệm trước đây của kiểm toán viên với khách hàng.
Hầu hết các cuộc kiểm toán của một công ty được một công ty kiểm toán thực hiện hàng năm. Do vậy kiểm toán viên thường bắt đầu cuộc kiểm toán với một khối lượng lớn thông tin về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng đã thu thập được từ các cuộc kiểm toán trước. Bởi vì các hệ thống kiểm soát thường thay đổi thường xuyên nên thông tin có thể được cập nhất hoá và mang sang năm hiện hành.
Thẩm vấn nhân viên của công ty khách hàng.
Công việc này giúp cho kiểm toán viên thu thập được các thông tin ban đầu đối với khách hàng mới hay nắm bắt được những thay đổi của hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng đối với khách hàng thường niên để cập nhật thông tin cho cuộc kiểm toán ở năm hiện hành
Xem xét các sổ tay về thủ tục và chế độ của công ty khách hàng để hiểu rõ được các thủ tục và chế độ liên quan đang được áp dụng tại công ty.
Kiểm tra các chứng từ và sổ sách đã hoàn tất để thấy được việc vận dụng các thủ tục và chế độ trên tại công ty
Quan sát các mặt hoạt động và quá trình hoạt động của công ty khách hàng để củng cố thêm sự hiểu biết và kiến thức về thực tế sử dụng các thủ tục và chế độ kiểm soát nội bộ tại công ty khách hàng.
Để mô tả hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên sử dụng một trong ba phương pháp hay cả ba phương pháp sau tuỳ từng trường hợp đặc điểm của đơn vị được kiểm toán và quy mô kiểm toán: Vẽ các lưu đồ, lập Bảng câu hỏi về kiểm soát nội bộ; lập bảng tường thuật về kiểm soát nội bộ.
Bước 2: Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát để lập kế hoạch cho các khoản mục trên báo cáo tài chính.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 400 quy định: “Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát là việc đánh giá hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị trong việc ngăn ngừa hay phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu. Dựa trên sự hiểu biết hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát đối với cơ sở dẫn liệu cho từng số dư tài khoản hay các loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu”
Sau khi thu thập được một sự hiểu biết về cách thiết kế và sự vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên sẽ đưa ra đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát cho từng mục tiêu kiểm soát chi tiết. Công việc này được làm riêng rẽ cho từng loại nghiệp vụ kinh tế chủ yếu trong từng chu trình nghiệp vụ theo các bước sau:
Nhận diện các mục tiêu kiểm soát mà theo đó quá trình đánh giá vận dụng.
Kiểm toán viên vận dụng các mục tiêu kiểm soát nội bộ cụ thể cho từng loại nghiệp vụ chủ yếu của công ty mà theo đó có thể đánh giá rủi ro kiểm soát đối với từng khoản mục
Nhận diện các quá trình kiểm soát đặc thù
Ở bước này, kiểm toán viên không cần thiết phải xem xét mọi quá trình kiểm soát mà chỉ phải nhận diện và phân tích các quá trình kiểm soát dự kiến có ảnh hưởng lớn nhất đến việc thoả mãn mục tiêu kiểm soát mà sẽ mang lại tính hiệu quả cho cuộc kiểm toán.
Nhận diện và đánh giá các nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Nhược điểm được hiểu là sự vắng mặt của các quá trình kiểm soát thích đáng mà điều này sẽ làm tăng khả năng rủi ro của việc tồn tại các sai phạm trên báo cáo tài chính.
Đánh giá rủi ro kiểm soát.
Khi đã nhận diện được quá trình kiểm soát và nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán viên tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát ban đầu đối với từng mục tiêu kiểm soát của từng loại nghiệp vụ kinh tế. Kiểm toán viên có thể đánh giá rủi ro theo yếu tố định tính thấp, trung bình, cao hay theo tỷ lệ phần trăm.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400, kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm soát là cao trong trường hợp:
Hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không đầy đủ
Việc đánh giá sự áp dụng của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ được xem là không đủ
Kiểm toán viên thường đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ không cao đối với cơ sở dẫn liệu của báo cáo tài chính trong trường hợp:
Kiểm toán viên có đủ cơ sở để kết luận hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ được thiết kế có thể ngăn ngừa, phát hiện và sửa chữa các sai sót trọng yếu
Kiểm toán viên có kế hoạch thực hiện thử nghiệm kiểm soát làm cơ sở cho việc đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát.
Bước 3: Thực hiện thử nghiệm kiểm soát (thử nghiệm tuân thủ)
Mục đích của thử nghiệm này là để thu thập bằng chứng kiểm toán về sự thiết kế phù hợp và sự vận hành hữu hiệu của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, từ đó có thể đánh giá rủi ro kiểm soát thấp hơn mức ban đầu nhằm giảm bớt các thử nghiệm cơ bản trên số dư và nghiệp vụ
Thử nghiệm kiểm soát được thực hiện với những phương pháp khác nhau tuỳ từng trường hợp vào từng trường hợp cụ thể. Phương pháp kiểm tra tài liệu hay thực hiện lại các thủ tục kiểm soát được áp dụng nếu các thủ tục để lại các “dấu vết” trực tiếp trên tài liệu như các chữ ký phê duyệt, hoá đơn lưu lại…Nếu các “dấu vết” để lại là gián tiếp thì kiểm toán viên thực hiện lại các thủ tục kiểm soát như kiểm tra bảng đối chiếu tiền gửi ngân hàng, xem xét bảng kiểm kê quỹ…Đối với các thủ tục kiểm soát không để lại dấu vết trong tài liệu, kiểm toán viên tiến hành quan sát các hoạt động liên quan đến kiểm soát nội bộ hay phỏng vấn nhân viên đơn vị về các thủ tục kiểm soát.
Dựa trên kết quả các thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên phải xác định xem hệ thống kiểm soát nội bộ có được thiết kế và thực hiện phù hợp với các đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát không. Nếu có thay đổi lớn thì kiểm toán viên phải xem xét lại mức độ rủi ro kiểm soát và phải thay đổi nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản đã dự kiến.
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 400 quy định: “Kiểm toán viên phải thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để chứng minh cho việc đánh giá rủi ro kiểm soát ở mức độ không cao. Việc đánh giá mức độ rủi ro kiểm soát càng thấp thì kiểm toán viên càng phải chứng minh rõ là hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ đã được thiết kế phù hợp và hoạt động hiệu quả”
Bước 4: Lập bảng đánh giá kiểm soát nội bộ
Kiểm toán viên tiến hành tổng hợp kết quả khảo sát về hệ thống kiểm soát nội bộ bằng cách lập bảng đánh giá kiểm soát nội bộ theo những thông tin và các tiêu chuẩn đánh giá . Bảng đánh giá kiểm soát nội bộ thường phản ánh các thông tin sau:
Các mục tiêu của kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục hay chu trình nghiệp vụ
Các thông tin mô tả thực trạng kiểm soát nội bộ do kiểm toán viên thu thập
Bản chất và tính hệ trọng của các rủi ro tương ứng
Nguyên tắc thiết kế và vận hành các thủ tục kiểm soát
Đánh giá về kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục hay chu trình nghiệp vụ
Sau đó, kiểm toán viên kết luận về mức độ rủi ro kiểm soát và thiết kế lại các thử nghiệm cơ bản trên các số dư và nghiệp vụ trong trường hợp không thu thập được các bằng chứng đánh giá sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ như dự kiến. Kiểm toán viên chỉ giữ nguyên đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát nếu kết quả các thử nghiệm cho thấy cá thủ tục kiểm soát thực hiện hữu hiệu như đánh giá ban đầu của kiểm toán viên.
1.2.4.3 Xác định rủi ro phát hiện
Trong quá trình kiểm toán, rủi ro phát hiện bị ảnh hưởng bởi các nhân tố sau:
Các bước kiểm toán không thích hợp, thực hiện không hợp lý quy trình kiểm toán cho mỗi phần hành
Phát hiện ra bằng chứng nhưng không nhận thức được sai sót nên thường đưa ra kết luận sai về phần hành đó cũng như về báo cáo tài chính.
Kiểm toán viên hoàn toàn không phát hiện ra các sai sót do có sự thông đồng nhất trí bên trong doanh nghiệp làm sai các chính sách và chế độ do ban giám đốc đề ra.
Rủi ro phát hiện được xác định từ ba loại rủi ro: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro kiểm toán và mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán. Vì 3 loại rủi ro này thay đổi với từng khoản mục trên báo cáo tài chính nên rủi ro phát hiện cũng thay đổi đối với từng khoản mục.
Chuẩn mực kiểm toán Việt nam 400 quy định: “Kiểm toán viên phải dựa vào đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát để giảm rủi ro phát hiện và giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp nhận được”
Mức độ rủi ro phát hiện có thể liên quan trực tiếp đến thử nghiệm cơ bản của kiểm toán viên. Tuy nhiên khó có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro phát hiện ngay cả khi kiểm toán viên kiểm tra chi tiết 100% các nghiệp vụ và các số dư tài khoản. Đánh giá của kiểm toán viên về các loại rủi ro có thể thay đổi trong quá trình kiểm toán. Nếu trong quá trình thực hiện kiểm toán, khi thực hiện các thử nghiệm cơ bản, kiểm toán viên phát hiện ra thêm những thông tin mới khác biệt so với ban đầu thì kiểm toán viên có thể thay đổi kế hoạch thực hiện các thử nghiệm cơ bản cho phù hợp với việc đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.
1.3 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính và ảnh hưởng của nó đến phương pháp kiểm toán.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Quốc tế IAS số 320 về tính trọng yếu trong kiểm toán, trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau đó là quan hệ tỷ lệ nghịch. Nếu mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng thấp và ngược lại. Tức là khi mức trọng yếu tăng, khả năng sai sót có thể chấp nhận được cũng tăng, khi đó độ chính xác của thông tin không cần cao. Với một chương trình kiểm toán đã có sẽ làm giảm rủi ro kiểm toán. Ngược lại, nếu mức trọng yếu giảm thì khả năng sai sót có thể chấp nhận được giảm, khi đó thông tin cần độ chính xác cao hơn. Vì vậy nó sẽ làm rủi ro kiểm toán tăng.
Đối với các khoản mục, nghiệp vụ có mức trọng yếu càng cao tức là rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là thấp thì kiểm toán viên có thể dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ để giảm các thử nghiệm cơ bản bằng cách tăng cường các thử nghiệm kiểm soát nhưng vẫn đảm bảo rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán ở mức thấp có thể chấp nhận được. Ngược lại, kiểm toán viên càng phải thu thập nhiều bằng chứng từ các thử nghiệm cơ bản. Nếu rủi ro kiểm soát ở mức quá cao, thì kiểm toán viên có thể bỏ qua không tiến hành các thử nghiệm kiểm soát mà tiến hành thực hiện các thử nghiệm cơ bản luôn.
Nếu kiểm toán viên lập xong chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phát hiện ra mức trọng yếu phải thấp hơn, lúc đó rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên. Lúc này, kiểm toán viên phải tăng cường phạm vi kiểm toán, lựa chọn các phương pháp kiểm toán thích hợp hơn để giảm rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm toán đến mức có thể chấp nhận được.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM (VAE.,LTD)
2.1 Tổng quan về Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
2.1.1.1 Giai đoạn từ khi thành lập đến năm 2002
Công ty TNHH Kiểm toán và định giá Việt Nam được thành lập vào ngày 21 tháng 12 năm 2001 và được Bộ tài chính Việt nam và Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà nội cấp giấy phép hành nghề, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103000692, hoạt động theo Luật doanh nghiệp và dưới hình thức ban đầu là công ty cổ phần gồm sáu cổ đông sáng lập. Vốn điều lệ của công ty là một tỷ VND, được chia thành 10.000 cổ phần, được phát hành dưới hình thức cổ phiếu và trị giá một cổ phiếu là 100.000 đồng. Trụ sở ban đầu của công ty đặt tại số 466 Đường Nguyễn Chí Thanh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
Tên giao dịch quốc tế của công ty là: Vietnam Auditing and Evaluation Joint Stock Company (VAE - JSC)
Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty gồm: Kiểm toán báo cáo tài chính, tư vấn đầu tư và kinh doanh, dịch vụ định giá và kiểm toán quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
2.1.1.2 Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2004
Do gặp phải một số khó khăn, công ty chuyển địa điểm về số nhà 5 dãy D số 142 Đường Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
Chuyển về địa điểm mới công ty vẫn duy trì mối quan hệ với các khách hàng cũ đồng thời tích cực tìm kiếm các khách hàng mới. Bên cạnh đó tăng quy mô nhân viên và các dịch vụ cung cấp ngày càng phong phú và có chất lượng cao hơn.
2.1.1.3 Giai đoạn từ năm 2004 đến tháng 10 năm 2006
Cuối năm 2004, công ty đã mua trụ sở tại tầng 11 Toà nhà Sông Đà, số 165 Cầu Giấy, đây là trụ sở chính của công ty. Cũng trong năm này, công ty đã tăng vốn điều lệ lên 2 tỷ đồng đảm bảo đủ điều kiện cho dịch vụ kiểm toán các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Số lượng nhân viên của công ty lúc này lên tới gần 80 người. Các dịch vụ cung cấp gia tăng: Dịch vụ kiểm toán dự án, định giá tài sản. Bên cạnh đó công ty cũng chú trọng việc đào tạo để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn cho cán bộ, nhân viên. Cũng trong năm đó, công ty có sự thay đổi về tổ chức quản lý. Công ty thực hiện khoán doanh thu, khoán các chi phí như điện thoại, chi công tác phí và một số chi phí khác về các phòng nghiệp vụ. Sự thay đổi lớn nhất đó là ở cơ cấu tổ chức các phòng nghiệp vụ từ chiều dọc sang chiều ngang.
2.1.1.4 Giai đoạn từ tháng 10 năm 2006 đến nay
Theo Quyết định số 105, Quyết định 133 và Thông tư hướng dẫn số 64 của Bộ Tài chính, căn cứ trên biên bản họp đại hội đồng cổ đông ngày 23/9/2006, công ty cổ phần Kiểm toán và định giá Việt Nam chuyển đổi loại hình từ công ty cổ phần sang loại hình công ty Trách nhiệm hữu hạn với tên giao dịch chính thức từ đây là: Công ty TNHH kiểm toán và định giá Việt Nam ( VAE.,LTD – Vietnam Auditing and Evaluation Limited Company). Cùng với sự thành lập thêm một phòng nghiệp vụ nữa vào năm 2007, số lượng nhân viên của công ty lên tới khoảng 120 nhân viên, trong đó có trên 33 % số người đăng ký hành nghề kiểm toán và nhiều người có chứng chỉ CPA.
2.1.2 Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh
Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam là một pháp nhân hạch toán độc lập, tự trang trải chi phí bằng các nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ của mình và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
Công ty TNHH Kiểm toán và định giá Việt Nam cung cấp các dịch vụ rất đa dạng. Các dịch vụ đó là:
2.1.2.1 Dịch vụ kiểm toán, kế toán và thuế:Bao gồm: Kiểm toán độc lập Báo cáo tài chính; Kiểm toán xác nhận Báo cáo số lượng, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm; Xem xét và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ; Lập hệ thống kế toán, hướng dẫn thực hiện cho các doanh nghiệp; Cung cấp dịch vụ kế toán, tư vấn kế toán cho khách hàng; Tư vấn cho khách hàng về việc lập kế hoạch nộp thuế; Hướng dẫn khách hàng kê khai thuế; Lập kế hoạch tài chính
2.1.2.2 Dịch vụ kiểm toán xây dựng cơ bản: Bao gồm: Kiểm toán Báo cáo quyết toán vốn đầu tư XDCB hoàn thành của các công trình, dự án; Kiểm toán xác định giá trị quyết toán công trình; Kiểm toán Báo cáo tài chính hàng năm của các Ban quản lý dự án; Kiểm toán xác định giá trị quyết toán vốn đầu tư theo Thông tư số 12/2000/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 15 tháng 9 năm 2000 hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
2.1.2.3 Dịch vụ kiểm toán dự án: Bao gồm: Kiểm toán độc lập; Soát xét hệ thống kiểm soát nội bộ; Kiểm soát tính tuân thủ của dự án; Đánh giá khả năng thực hiện dự án; Hướng dẫn quản lý dự án
2.1.2.4 Dịch vụ định giá tài sản: Bao gồm: Định giá tài sản, vốn góp kinh doanh, sát nhập, giải thể doanh nghiệp; Định giá tài sản, vốn cổ phần hoá doanh nghiệp; Định giá tài sản thế chấp, chuyển nhượng, thuê, mua tài sản
2.1.2.5 Dịch vụ tư vấn kinh doanh : Bao gồm: Tư vấn về chính sách kinh tế hiện hành; Tư vấn về việc lựa chọn hình thức kinh doanh; Phân tích kế hoạch kinh doanh; Xem xét hợp đồng thoả thuận kinh doanh; Giúp thành lập văn phòng, chi nhánh tại Việt Nam; Giúp đàm phán, kí kết hợp đồng; Lập kế hoạch chiến lược; Đào tạo và hội thảo
2.1.2.6 Dịch vụ tư vấn đầu tư: Bao gồm: Tư vấn tìm hiểu, đánh giá thị trường, định hướng đầu tư; Lập báo cáo đầu tư cho các ngành hoạt động; Tư vấn lập tổng dự toán, dự toán, quyết toán, báo cáo quyết toán vốn đầu tư XDCB hoàn thành; Tư vấn thẩm định tổng dự toán, dự toán; Tư vấn lập hồ sơ mời thầu, phân tích đánh giá hồ sơ dự thầu; Tư vấn quản lý quá trình đầu tư
2.1.2.7 Dịch vụ chuyển đổi Báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán Quốc tế: Bao gồm: Dịch vụ chuyển đổi Báo cáo tài chính của các doanh nghiệp phục vụ cho mục tiêu hợp nhất kết quả hoạt động với công ty mẹ theo chuẩn mực kế toán Quốc tế ; Dich vụ soát xét Báo cáo tài chính đã được chuyển đổi theo thông lệ kế toán Quốc tế phục vụ cho mục tiêu hợp nhất kết quả hoạt động với công ty mẹ
2.1.3 Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của đơn vị
Bộ máy quản lý của Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam bao gồm:
Hội đồng thành viên: là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Hội đồng thành viên quyết định chiến lược phát triển và kế hoạch kinh doanh hàng năm của công ty; quyết định giải pháp phát triển thị trường; bầu miễn nhiệm chủ tịch hội đồng thành viên, quyết định bổ nhiệm miễn nhiệm, ký hay chấm dứt hợp đồng với Tổng Giám Đốc; quyết định mức lương thưởng và lợi ích khác của Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng Giám Đốc; quyết định cơ cấu tổ chức quản lý của công ty; sửa đổi bổ sung điều lệ của công ty.
Tổng Giám Đốc: là người trực tiếp điều hành công việc hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động hàng ngày của công ty; ban hành quy chế quản lý nội bộ công ty; trình Báo cáo quyết toán tài chính hàng năm lên Hội đồng thành viên; xử lý lãi (lỗ) và tuyển dụng lao động.
Hội đồng khoa học: không trực tiếp tham gia kinh doanh nhưng giữ một vai trò quan trọng, tham mưu cho Hội đồng thành viên và Ban Giám Đốc công ty trong việc đưa ra các quyết định kinh doanh. Ngoài ra, Hội đồng khoa học còn tiến hành tổ chức các buổi đào tạo, xây dựng đội ngũ kiểm toán viên đủ năng lực góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp của công ty.
Các Giám Đốc: là người giúp việc cho Tổng Giám Đốc do Tổng Giám Đốc chỉ định, thay mặt Tổng Giám Đốc khi đi vắng hay thay mặt theo uỷ quyền trước pháp luật; trực tiếp điều hành các phòng nghiệp vụ. Có bốn Giám Đốc điều hành bốn phòng nghiệp vụ.
Các phòng nghiệp vụ 1, 2, 3, 4: trực tiếp cung cấp các dịch vụ cho khách hàng, từ kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán báo cáo quyết toán vốn xây dựng cơ bản, định giá, tư vấn thuế và các dịch vụ khác. Nhờ vào mô hình này, công ty có thể xác định hiệu quả hoạt động kinh tế của từng phòng nghiệp vụ, xác định được sự đóng góp của từng phòng nghiệp vụ vào lợi nhuận chung của công ty.
Phòng tổng hợp: bao gồm bộ phận kế toán, bộ phận lễ tân, bộ phận lái xe…Đây là một phòng đảm nhận nhiều nhiệm vụ khác nhau, từ việc trả lương đến việc chăm lo đời sống ăn uống cho nhân viên.
Các văn phòng đại diện: nhằm mục đích tiếp thị, giới thiệu thương hiệu VAE.,LTD đến khách hàng, tìm kiếm và phát triển khách hàng; hoạt động theo sự chỉ đạo trực tiếp của công ty; tuy nhiên các văn phòng thay mặt không được trực tiếp ký kết các hợp đồng cũng như thực hiện việc cung cấp dịch vụ. Hiện nay có 3 văn phòng đại diện: văn phòng tại Thành phố Hồ Chí Minh, văn phòng tại Thành phố Đà Nẵng và văn phòng tại thị xã Sơn La
Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của công ty được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của VAE.,LTD
2.1.4 Thành tựu đạt được
Từ khi thành lập tới nay, công ty đã không ngừng phát triển cả về quy mô và chất lượng dịch vụ. Các chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận liên tục tăng qua các năm. Một số chỉ tiêu hoạt động kinh doanh được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu kết quả hoạt động kinh doanh của VAE.,LTD các năm
Đợn vị: VND.
Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007
Doanh thu thuần 7.115.687.964 9.001.352.123 11.745.321. 823 >15.000.000.000
Lợi nhuận trước thuế 1.013.167.070 1.102.302.494 1.432.501.164 2.432.156.145
Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình hoạt động kinh doanh của công ty tiến triển rất tốt, đạt được sự tăng trưởng về doanh thu thuần và lợi nhuận trước thuế. Sở dĩ đạt được như vậy là do công ty đã có sự thay đổi về tổ chức và quản lý. Công ty thực hiện khoán doanh thu, khoán chi phí tới các phòng nghiệp vụ. Điều này đã đem lại động lực cho sự tăng trưởng của cả công ty. Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại Thế giới WTO đã làm cho thị trường ngày càng mở rộng đối với VAE.,LTD. Doanh thu năm 2007 đạt tới trên 15 tỷ đồng.
Với các kết quả trên, công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam luôn đứng đầu trong nhóm 10 công ty kiểm toán độc lập có các chỉ số cao nhất và được Bộ Tài chính, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xác nhận:
• Là 1 trong các công ty có đủ điều kiện thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính các năm 2005, 2006 và 2007 theo công văn số 14700/BTC-CĐKT ngày 18/11/2005 của Bộ Tài chính và công văn số 127/VACPA ngày 22/11/2006 của Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam
• Là 1 trong 12 công ty kiểm toán được chấp thuận kiểm toán cho các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh Chứng khoán tại Việt nam theo công văn số 724/QĐ-UBCK ngày 30/11/2006 của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước
• Là 1 trong 47 tổ chức có đủ điều kiện thực hiện công tác xác định giá trị doanh nghiệp năm 2006 theo công văn số 5257 QĐ-BTC ngày 30/12/2005 của Bộ Tài chính
• Là 1 trong 11 tổ chức có đủ điều kiện thực hiện Thẩm định giá - đợt 1 năm 2006 theo công văn số 263/TB-BTC ngày 07/08/2006 của Bộ Tài chính
• Đạt danh hiệu “ Viet Nam Top Trade Service 2007”
2.1.5 Đặc điểm về tổ chức kiểm toán tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam
2.1.5.1 Đặc điểm về quy trình kiểm toán
VAE.,LTD có một quy trình tổ chức công tác kiểm toán khá chặt chẽ bao gồm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Lập kế hoạch kiểm toán
- Giai đoạn 2: Thực hiện kế hoạch kiểm toán
- Giai đoạn 3: Kết thúc kiểm toán
a. Lập kế hoạch kiểm toán
Đây là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Nó giúp kiểm toán viên thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để đưa ra ý kiến xác đáng về các BCTC, từ đó giúp các KTV hạn chế sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ vững được uy tín nghề nghiệp với khách hàng....Kế hoạch kiểm toán được lập ngay sau khi VAE.,LTD tổ chức cuộc họp với khách hàng và ký kết hợp đồng với khách hàng
Kế hoạch kiểm toán bao gồm việc quyết định các vấn đề sau:
- Nhóm nhân viên thực hiện cuộc kiểm toán
- Thời gian thực hiện cuộc kiểm toán: bao gồm thời gian kiểm toán tại khách hàng, thời gian tổng hợp và thời gian phát hành báo cáo chính thức
- Chi phí kiểm toán và phương tiện làm việc: là những nhận định ban đầu về chi phí kiểm toán và phương tiện làm việc cần có
- Thu thập thông tin cơ sở liên quan đến khách hàng
- Thực hiện thủ tục phân tích
- Đánh giá trọng yếu, rủi ro kiểm toán
- Xem xét sự giúp đỡ của các chuyên gia
- Xem xét tính liên tục hoạt động của khách hàng
- Lập chương trình kiểm toán. Mỗi chương trình kiểm toán cho từng phần hành được công ty xây dựng gồm bốn bước:
+ Kiểm tra hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng
+ Phân tích soát xét
+ Kiểm tra chi tiết
+ Kết luận
b. Thực hiện kế hoạch kiểm toán
Thực hiện kế hoạch kiểm toán là quá trình sử dụng các phương pháp kỹ thuật kiểm toán thích ứng với đối tượng kiểm toán cụ thể để thu thập bằng chứng kiểm toán. Đó là quá trình triển khai một cách chủ động và tích cực các kế hoạch, chương trình kiểm toán nhằm đưa ra những ý kiến xác thực về mức độ trung thực và hợp lý của Bảng khai tài chính trên cơ sở những bằng chứng kiểm toán đầy đủ và tin cậy. Tất cả các phát hiện của kiểm toán viên đều được ghi chép chi tiết và đầy đủ trên giấy tờ làm việc, đó sẽ là cơ sở để kiểm toán viên đưa ra ý kiến về phần hành mà mình đảm nhiệm
c. Kết thúc kiểm toán
Trên cơ sở kết quả đã kiểm toán, các bằng chứng kiếm toán đã thu thập được, kiểm toán viên đưa ra ý kiến của mình về phần hành hay khoản mục. Và kế hợp từ các phần hành đó, chủ nhiệm kiểm toán sẽ đưa ra ý kiến về Báo cáo tài chính của khách hàng thông qua Báo cáo kiểm toán. Ngoài ra kiểm toán viên có thể còn lập thư quản lý nhằm mục đích tư vấn cho khách hàng về hệ thống kiểm soát nội bộ hay về các chính sách kế toán mà công ty đang áp dụng.
2.1.5.2 Đặc điểm về hệ thống hồ sơ kiểm toán
a. Những yêu cầu chung đặt ra cho hồ sơ kiểm toán nói chung và hồ sơ kiểm toán Báo cáo tài chính nói riêng được công ty qui định như sau:
Tất cả các tài liệu trong file kiểm toán phải được đục lỗ và cho vào trong file.
Các tài liệu trong file cần được sắp xếp gọn gàng, ngay ngắn theo một trật tự đã được qui định.
Nhóm kiểm toán cần lập hồ sơ kiểm toán để đảm bảo cung cấp đầy đủ những cơ sở cho kiểm toán viên đưa ra ý kiến nhận xét của mình, đảm bảo cho kiểm toán viên không tham gia kiểm toán và người soát xét hiểu được công việc kiểm toán và có cơ sở đưa ra ý kiến của mình.
b. Các tài liệu được lưu trong hồ sơ kiểm toán như:
Hợp đồng kiểm toán, kế hoạch kiểm toán đã có sự phê chuẩn của người quản lí phải được ghi đầy đủ các thông tin như tên, số liệu hồ sơ, ngày tháng lập và lưu trữ.
Các thông tin liên quan đến môi trường kinh doanh, pháp luật có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, quá trình phát triển của khách hàng.
Các tài liệu về thuế: các văn bản, chế độ thuế áp dụng riêng trong lĩnh vực kinh doanh
Các thông tin chung về khách hàng đó là:
Các ghi chép hay bản sao của các tài liệu hợp đồng, thoả thuận và các biên bản quan trọng (quyết định thành lập công ty, điều lệ công ty, giấy phép đầu tư, khách hàng được cơ quan thuế cho phép, các tài liệu về nghĩa vụ thuế hàng năm.
Các tài liệu về nhân sự: Các thoả ước lao động, các quyết định riêng của khách hàng về nhân sự, quyết định về quản lí và sử dụng quĩ lương.
Các tài liệu về kế toán, văn bản chấp thuận chế độ kế toán áp dụng, các nguyên tắc kế toán áp dụng và các tài liệu liên quan khác.
Trên cơ sở những tài liệu thu thập được lưu trữ trong hồ sơ kiểm toán, kiểm toán viên sẽ đưa ra nhận định trên tài liệu làm việc là tờ tổng hợp. Tờ tổng hợp này sẽ ghi chép các vấn đề tồn tại của cuộc kiểm toán và hướng xử lí do nhóm trưởng tổng hợp và thống nhất với các kiểm toán viên khác từ các phần hành kiểm toán khác.
c. Thứ tự được sắp xếp trong hồ sơ kiểm toán
Báo cáo kiểm toán phát hành (bản photo)
Thư quản lí phát hành (bản photo)
Các bản báo cáo, thư quản lí dự thảo đã được soát xét
Hợp đồng kiểm toán
Kế hoạch kiểm toán có sự phê chuẩn của Ban giám đốc
Hồ sơ pháp lí của khách hàng
Các chính sách tài chính kiểm toán, kiểm soát nội bộ của khách hàng.
Bộ báo cáo tài chính của khách hàng trước kiểm toán và quyết toán thuế.
d. Yêu cầu đối với giấy làm việc
Giấy tờ làm việc được sắp xếp theo chương trình kiểm toán của công ty theo số thứ tự tham chiếu từ nhỏ đến lớn.
Kiểm toán viên phải ghi đầy đủ các thông tin trên giấy tờ làm việc như: tên khách hàng, nội dung, kì kinh doanh, người lập, người soát xét và ngày soát xét.
Giấy tờ làm việc phải được đánh số ở góc trên bên phải bằng bút đỏ. Toàn bộ giấy tờ phải được tham chiếu liên kết với nhau và với các chương trình kiểm toán cũng như các bằng chứng kiểm toán thu thập được. Toàn bộ giấy tờ làm việc phải được trưởng nhóm và người soát xét. Các yếu tố bổ sung về giấy tờ làm việc phải được ghi lại trên giấy soát xét có giải trình của ngưòi thực hiện.
2.1.5.3 Đặc điểm hệ thống kiểm soát chất lượng
Báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng về của quá trình kiểm toán khách hàng. Do đó, báo cáo kiểm toán chứa đựng rủi ro của công ty kiểm toán nên việc kiểm soát chất lượng báo cáo đã được công ty kiểm toán và định giá Việt Nam rất chú trọng. Quá trình đó được thể hiện qua ba giai đoạn đó là: kiểm soát chất lượng quá trình tuyển dụng nhân viên, kiểm soát quá trình đào tạo và quá trình kiểm toán tại các đơn vị kiểm toán. Ở đây, ta chỉ nghiên cứu giai đoạn kiểm soát quá trình kiểm toán tại các đơn vị kiểm toán.
Sơ đồ 2.2: Các bước kiểm soát chất lượng kiểm toán.
Tổng hợp ý kiến về các phần hành
Trưởng nhóm soát xét và báo cáo tổng hợp chung
Trưởng phó phòng soát xét và ghi ý kiến
Phó giám đốc phụ trách soát xét lại công việc
Ban giám đốc soát xét lại lần cuối cùng
Phòng hành chính soát xét lại chính tả và cách trình bày
Phát hành báo cáo
Qua sơ đồ trên ta thấy quá trình kiểm soát chất lượng kiểm toán của công ty tiến hành rất chặt chẽ theo một trình tự hợp lí, logic. Đầu tiên trưởng nhóm sẽ tổng hợp ý kiến của các thành viên phụ trách về các phần hành sau đó tiến hành soát xét, kiểm tra để đưa ra báo cáo tổng hợp chung. Trưởng phó phòng, phó giám đốc lần lượt sẽ soát xét và đưa ra ý kiến. Cuối cùng ban giám đốc sẽ là người soát xét để đưa ra quyết định. Phòng hành chính có nhiệm vụ kiểm tra lại hình thức, cách trình bày của bản báo cáo. Qua tất cả các bước trên báo cáo kiểm toán sẽ chính thức được phát hành.
Trong quá trình kiểm toán, các nhân viên kiểm toán sẽ tiến hành công việc theo đúng kế hoạch đề ra. Mọi ý kiến thắc mắc, vấn đề phát sinh sẽ phải hỏi ý kiến của trưởng nhóm, không được tự ý quyết định. Trưởng nhóm có trách nhiệm giám sát, đôn đốc, chấn chỉnh thái độ làm việc của các thành viên trong nhóm.
Việc kiểm soát chất lượng sẽ được thể hiện thông qua bảng câu hỏi đã được xây dựng. Khách hàng sẽ trả lời theo ba cách: có, không, không áp dụng và phải giải thích về phương án lựa chọn của mình. Cuối cùng là cam kết về tính độc lập của kiểm toán viên.
Ngoài ra công ty còn xem xét các giấy tờ làm việc đã được lưu và hồ sơ kiểm toán hay chưa, xem xét việc thực hiện công việc đã được đề ra trước đó. Việc tuân thủ các quy định về hồ sơ kiểm toán cũng góp phần vào việc kiểm soát chất lượng cuộc kiểm toán.
2.2 Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính tại VAE.,Ltd
2.2.1 Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty VAE.
Để hiểu rõ hơn về quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty, ta tìm hiểu về 2 khách hàng mà năm 2007, công ty đã cung cấp dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính là công ty X và Công ty Y. Trong đó, Công ty X là khách hàng truyền thống của VAE từ năm 2004 và công ty Y là khách hàng kiểm toán năm đầu của VAE.
2.2.1.1 Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán báo cáo tài chính
Đối với Công ty X:
Công ty X là công ty liên doanh trong lĩnh vực xuất khẩu giầy da cao cấp giữa bên Việt Nam và bên Hồng Kông. Công ty X được thành lập theo giấy phép đầu tư số 1201/GP của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp ngày 15/10/2003. Các thông tin cơ sở về công ty X đã được lưu trong hồ sơ kiểm toán bao gồm:
• Các bên tham gia liên doanh: Bên Việt Nam là Công ty sản xuất giầy A góp 30% vốn bằng quyền sử dụng đất. Bên Hồng Kông góp 70% bằng tiền mặt.
• Tổng số vốn đăng kí kinh doanh: 50.100.000.000 VNĐ
• Trụ sở chính: Thanh Xuân – Hà Nội
• Lĩnh vực hoạt động: sản xuất và xuất khẩu giầy da cao cấp sang thị trường Châu Âu.
• Hội đồng quản trị: Hội đồng quản trị bao gồm 6 thành viên, 3 thành viên mang quốc tịch Việt Nam và 3 thành viên mang quốc tịch Hồng Kông.
• ….
Năm nay, nhóm thực hiện kiểm toán cho công ty không thay đổi. Theo đánh giá của kiểm toán viên tiền nhiệm và tìm hiểu các thông tin bổ sung về công ty, kiểm toán viên nhận thấy
• Tính liêm chính của Ban giám đốc của khách hàng được đánh giá cao
• Công ty cung cấp đầy đủ các tài liệu mà kiểm toán viên yêu cầu, tích cực hợp tác
• Tình hình kinh doanh trong năm qua ổn định
Vì vậy, kiểm toán viên đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toán với công ty X là ở mức trung bình. Do đó, công ty đã ký hợp đồng kiểm toán với Công ty X.
Đối với Công ty Y :
Trước tiên tiến hành đánh giá tính độc lập của Kiểm toán viên với khách hàng thông qua bảng câu hỏi đã được thiết kế sẵn.
Biểu 2.1: Câu hỏi đánh giá tính độc lập của Kiểm toán viên
Câu hỏi về tính độc lập của Kiểm toán viên
Khách hàng : Công ty Y
Câu hỏi Có Không
1_ Kiểm toán viên có góp vốn cổ phần trong công ty sắp tiến hành kiểm toán hay không?
X
2_ Kiểm toán viên có vay vốn của khách hàng hay không? X
3_ Kiểm toán viên có là cổ đông chi phối của khách hàng không? X
4_ Kiểm toán viên có cho khách hàng vay vốn không? X
5_ Kiểm toán viên có kí kết hợp đồng gia công với khách hàng không? X
6_ Kiểm toán viên có cung cấp nguyên vật liệu hay dịch vụ cho khách hàng không?
X
7_ Kiểm toán viên có làm đại lí bán sản phẩm cho khách hàng không? X
8_ Kiểm toán viên có quan hệ họ hàng thân thiết với những người trong bộ máy quản lí của công ty khách hàng hay không?
X
9_ Kiểm toán viên có làm dịch vụ trực tiếp ghi sổ kế toán, giữ sổ kế toán và lập Báo cáo tài chính cho khách hàng không?
X
10_ Kết luận : Kiểm toán viên sẽ tham gia kiểm toán khách hàng đã đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán về tính độc lập?
X
Sau đó, kiểm toán viên sẽ tiến hành thu thập các thông tin cơ sở về công ty Y.
• Loại hình doanh nghiệp: Là công ty TNHH có hai thành viên trở lên (12 thành viên góp vốn)
• Cơ cấu tổ chức: gồm có Ban Giám Đốc, Hội đồng thành viên, các phòng nghiệp vụ và các tổ đội sản xuất
• Ngành nghề kinh doanh: Thi công các công trình giao thông dân dụng; các công trình cầu đường; sản xuất và kinh doanh các loại vật liệu xây dựng; Kinh doanh thương mại tổng hợp; Thu mua, xuất nhập khẩu nông sản…
• Sản phẩm chính: Các công trình giao thông; đường bê tông, cống thoát nước, khu chung cư, tập thể, sản phẩm phục vụ ngành xây dựng..
• Chế độ kế toán áp dụng: Áp dụng chế độ kế toán theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC và các văn bản hướng dẫn có liên quan
• Tình hình kinh doanh của Công ty: Qua tìm hiểu, kiểm toán viên nhận thấy trong mấy năm gần đây, Công ty ngày càng phát triển và mở rộng quy mô, doanh thu và lợi nhuận sau thuế tăng trưởng với tốc độ ổn định. Như vậy tình hình kinh doanh của Công ty Y được đánh giá là có triển vọng phát triển.
Như vậy qua tìm hiểu các thông tin sơ bộ về Công ty Y, kiểm toán viên đánh giá mức rủi ro kinh doanh mà VAE sẽ gặp phải khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng này là ở mức trung bình. Do đó, Công ty chấp nhận ký kết hợp đồng kiểm toán.
2.2.1.2 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện báo cáo tài chính
Vì Công ty X là khách hàng kiểm toán truyền thống, có quy mô vốn lớn, là công ty liên doanh nên số lượng người quan tâm đến báo cáo tài chính là khá nhiều. Điều này dẫn đến khả năng nếu Báo cáo tài chính của công ty có sai phạm trọng yếu thì sẽ dẫn đến tác hại ở mức độ khá lớn. Vì vậy kiểm toán viên dự kiến rủi ro kiểm toán mong muốn đối với công ty X ở mức độ thấp. Đối với Công ty Y, vì đây là cuộc kiểm toán năm đầu tiên nên để đảm bảo chất lượng cuộc kiểm toán, rủi ro kiểm toán mong muốn cũng được dự kiến ở mức độ thấp
a. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện toàn bộ báo cáo tài chính
Đối với công ty X:
Kiểm toán viên nhận thấy công ty X kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu giầy da cao cấp sang thị trường châu Âu. Trong khi đó, châu Âu là một thị trường khá ổn định đối với việc xuất khẩu giầy da cao cấp. Mức tăng trưởng thị trường là khá cao. Công ty có khả năng duy trì sản xuất và cung cấp sản phẩm ra thị trường ở mức độ cao. Tuy nhiên, giá nguyên liệu ngày càng tăng, gây áp lực cho công ty trong việc giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Kiểm toán viên cũng đánh giá khách hàng có cơ cấu tổ chức tốt, đội ngũ hội đồng quản trị và ban giám đốc có năng lực và kinh nghiệm. Đội ngũ kế toán cũng có trình độ tốt. Đây là khách hàng hàng năm của công ty nên xem lại hồ sơ kiểm toán năm trước, kiểm toán viên nhận thấy ý kiến báo cáo kiểm toán là ý kiến chấp nhận toàn phần. Khách hàng cung cấp đầy đủ tài liệu cần thiết cho kiểm toán viên. Trong năm vừa qua, công ty không có vướng mắc gì về pháp luật. Qua những phân tích trên, kiểm toán viên đánh giá mức rủi ro tiềm tàng trên báo cáo tài chính ở mức Trung bình. Dưới đây là trích giấy tờ làm việc bảng câu hỏi đánh giá rủi ro tiềm tàng trên báo cáo tài chính của công ty X.
Biểu 2.2: Đánh giá Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ BCTC công ty X
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty X Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính
1- Lĩnh vực hoạt động của công ty:
Hoạt động trong lĩnh vực xây dựng
2- Cơ cấu tổ chức của khách hàng như thế nào ?
Được tổ chức tốt.
3- Chính sách kế toán của công ty khách hàng đang áp dụng ?
Áp dụng chế độ kế toán theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC và các văn bản hướng dẫn có liên quan
4- Thay đổi trong chính sách kế toán đơn vị đang áp dụng
Không có
5- Năng lực của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc?
Các thành viên của Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc đều có năng lực tốt, có nhiều kinh nghiệm.
6- Trình độ của kế toán trưởng và các nhân viên kế toán, Kiểm toán viên nội bộ (nếu có)?
Kế toán trưởng và các nhân viên kế toán đều đã tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân hay Đại học Tài Chính Kế Toán, đại học Thương mại
7- Quan hệ giữa Công ty khách hàng và Kiểm toán viên? Tốt
8- Kiểm toán viên có nghi ngờ gì về tính liêm chính của hội đồng quản trị và ban giám đốc? Không.
9- Khách hàng có ý định lừa dối Kiểm toán viên?
Khách hàng cung cấp đầy đủ khi có yêu cầu của Kiểm toán viên.
10- Sự thay đổi về thị trường, sự cạnh tranh?
Châu Âu là một thị trường khá ổn định đối với việc xuất khẩu giầy da cao cấp. Mức tăng trưởng thị trường là khá cao. Công ty có khả năng duy trì sản xuất và cung cấp sản phẩm ra thị trường ở mức độ cao.
11- Ý kiến của Kiểm toán viên trên Báo cáo kiểm toán năm trước?
Chấp nhận toàn phần
12- Liệu Ban giám đốc và nhân viên phòng kế toán có áp lực bất thường nào không?
Giá nguyên vật liệu ngày càng tăng, đòi hỏi công ty phải có những biện pháp làm giảm giá thành, nâng cao chất lượng để tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
13- Sự thay đổi nhân sự trong Ban Giám đốc, Hội đồng quản trị và phòng kế toán? Không.
14- Số lượng các nghiệp vụ kinh tế bất thường Không có
15- Vướng mắc của khách hàng với các bên liên quan và pháp luật Không có
Kết luận : Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình
Đối với công ty Y
Tương tự với công ty Y, kiểm toán viên cũng lập và trả lời các câu hỏi đánh giá rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ báo cáo tài chính. Công ty Y hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, thi công các công trình dân dụng, công trình cầu đường, sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dựng…Lĩnh vực này rủi ro khá cao. Tuy nhiên, cũng giống như công ty X, công ty có cơ cấu tổ chức tốt, ban lãnh đạo có chuyên môn và kinh nghiệm… Ý kiến kiểm toán viên báo cáo kiểm toán năm trước do công ty Kiểm toán và Tư vấn A&C đưa ra là ý kiến chấp nhận toàn phần. Dựa vào những thông tin đó và dựa vào xét đoán nghề nghiệp, kiểm toán viên cũng đánh giá mức rủi ro tiềm tàng là Trung bình
Sau đây là minh họa cho đánh giá rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ báo cáo tài chính của công ty Y
Biểu 2.3: Đánh giá Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ BCTC công ty Y
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty Y Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính
1- Lĩnh vực hoạt động của công ty:
Hoạt động trong lĩnh vực xây dựng
………………..
11- Ý kiến của Kiểm toán viên trên Báo cáo kiểm toán năm trước?
Chấp nhận toàn phần- do công ty kiểm toán A&C thực hiện
Kết luận : Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình
b. Đánh giá rủi ro kiểm soát trên phương diện toàn bộ báo cáo tài chính
Đánh giá môi trường kiểm soát
Đối với cả 2 khách hàng, Kiểm toán viên tiến hành thu thập các thông tin, tài liệu như: Biên bản cuộc họp Hội đồng quản trị, các văn bản quy định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ chức năng, quyền hạn của các cá nhân quan trọng trong công ty, các nội quy, quy định được áp dụng trong Công ty , các kế hoạch dự toán được lập, các thủ tục phê chuẩn, văn bản qui định tổ chức công tác kế toán, các văn bản qui định sự kiểm soát của cơ quan Nhà Nước đối với công ty…Bên cạnh đó, Kiểm toán viên còn tiến hành phỏng vấn Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, kế toán trưởng, các nhân vật quan trọng, quan sát các hoạt động và quá trình hoạt động…
Đối với công ty X
Qua việc tìm hiểu công ty X, kiểm toán viên nhận thấy:
• Công ty có các quy định, chính sách về nhân sự và hành chính đầy đủ, rõ ràng. Trong các biên bản họp hội đồng quản trị đều đề ra phương án kinh doanh, đường lối chiến lược phát triển của công ty trong ngắn hạn và dài hạn được cấp có thẩm quyền phê duyệt, tuy nhiên Công ty chưa có quy định cụ thể trong việc đào tạo, nâng lương và thuyên chuyển nhân viên.
• Công ty đang thực hiện các cơ chế giám sát về quy chế làm việc, thời gian nghỉ ngơi, quy chế trả lương, các quy định về các chi phí hoạt động, quy định về hạn mức sử dụng nguyên vật liệu, quy định về sử dụng quỹ khen thưởng phúc lợi
• Công ty thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, không vi phạm chính sách, pháp luật Nhà nước
• Tính chính trực, năng lực của Ban Giám đốc và đội ngũ kế toán: Được đánh giá cao……..
Từ những thông tin trên và kinh nghiệm của mình, kiểm toán viên kết luận về môi trường kiểm soát ở công ty X là Khá. Những thông tin này được tổng hợp và phản ánh lên bảng câu hỏi đánh giá môi trường kiểm soát
Biểu 2.4: Bảng đánh giá môi trường kiểm soát của công ty X.
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty X Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá môi trường kiểm soát
Câu hỏi
Có Không Không áp dụng
1_ Hội đồng quản trị và Ban giám đốc có bị chi phối bởi, một hay một nhóm người không trung thực không
2_ Kiểm toán viên có nghi ngờ về tính liêm chính của Ban giám đốc và Hội đồng quản trị ?
3_ Hội đồng quản trị và Ban giám đốc trước đây đã từng liên quan đến hành vi giam lận hay hành vi vi phạm pháp luật ? ….
……………
Kết luận : Môi trường kiểm soát được đánh giá là Khá. X
X
X
X
X
Đối với công ty Y
Tương tự công ty X, kiểm toán viên cũng thu thập các thông tin như trên và trả lời vào bảng câu hỏi đánh giá môi trường kiểm soát. Tuy nhiên, Công ty Y chưa có đầy đủ chính sách qui định về chức năng của các nhân viên kế toán, cập nhật phân công công việc cho các nhân viên kế toán, hướng dẫn công việc cho các nhân viên…Do đó, kiểm toán viên đánh giá môi trường kiểm soát của công ty Y là Trung bình
Đánh giá hệ thống kế toán
Đối với Hệ thống kế toán, Kiểm toán viên chủ yếu xem xét các chính sách kế toán đang áp dụng và những thay đổi trong chính sách kế toán đó.
• Chế độ kế toán mà công ty đang áp dụng:
Công ty X và Công ty Y đều đang áp dụng chế độ kế toán Việt Nam ban hành theo Quyết định 15/2006/QĐ-BTC . Hình thức kế toán là hình thức Nhật ký chung.
• Niên độ kế toán:
Cả hai công ty đều có niên độ kế toán bắt đầu vào ngày 01/01 và kết thúc vào ngày 31/12 hàng năm
• Đồng tiền hạch toán :
Đồng tiền được sử dụng trong ghi chép và báo cáo kế toán là đồng Việt Nam (VND).
Đối với công ty X, các nghiệp vụ phát sinh bằng ngoại tệ được qui đổi sang đồng Việt Nam theo tỷ giá do Ngân hàng công bố tại thời điểm phát sinh nghiệp vụ. Cuối kì, các khoản tiền và các khoản phải thu, phải trả được đánh giá lại theo tỷ gí thực tế tại thời điểm lập Bảng cân đối kế toán. Chênh lệch tỷ giá phát sinh do đánh giá lại được ghi vào chi phí tài chính hay doanh thu tài chính, cuối kỳ kết chuyển vào kết quả hoạt động kinh doanh.
Công ty Y không phát sinh các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ
• Tài sản cố định và khấu hao tài sản cố định:
Tất cả tài sản cố định được ghi sổ theo nguyên giá và hao mòn lũy kế, khấu hao tài sản cố định được thực hiện theo phương pháp đường thẳng. Tỷ lệ khấu hao được áp dụng theo Quyết định 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999.
• Hàng tồn kho:
Hàng tồn kho được ghi sổ theo giá gốc (gồm giá trị trên hóa đơn không bao gồm VAT cộng với chi phí thu mua, vận chuyển) và được hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên. Phương pháp tính giá hàng tồn kho là phương pháp bình quân gia quyền.
• Phương pháp tính các khoản dự phòng, tình hình trích lập và hoàn nhập các khoản dự phòng:
Cả 2 công ty đều không thực hiện trích lập các khoản dự phòng. Đối với công ty Y, có 1 số khoản phải thu quá hạn nhưng công ty không trích lập dự phòng vì đây là những khoản thu đang chờ quyết toán và có khả năng thu hồi trong những năm tới.
• Nguyên tắc ghi nhận doanh thu: Đối với Công ty X, ghi nhận doanh thu theo thời điểm khách hàng chấp nhận thanh toán. Đối với Công ty Y, ghi nhận doanh thu theo phiếu giá thanh toán và các biên bản nghiệm thu.
• Các thay đổi trong chính sách kế toán:
Cả 2 Công ty đều không có sự thay đổi lớn nào về chính sách kế toán.
• Đội ngũ nhân viên kế toán:
Trong năm 2007, đội ngũ nhân viên kế toán cả hai công ty đều không có sự thay đổi nào. Các nhân viên đều tốt nghiệp các trường đại học chuyên ngành kế toán.
Qua việc tìm hiểu các thông tin trên, kiểm toán viên đánh giá hệ thống kế toán của 2 công ty là Khá
Đánh giá thủ tục kiểm soát
Xem xét các thủ tục kiểm soát trong bước này, kiểm toán viên trả lời các câu hỏi trong bảng đánh giá các thủ tục kiểm soát, chủ yếu tập trung vào các nguyên tắc thiết kế thủ tục kiểm soát.
Đối với công ty X:
Công ty X có các văn bản trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận và từng người trong từng bộ phận. Sự phân công trách nhiệm và quyền lợi trong công ty đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm. Công ty có chế độ ủy quyền rõ ràng. Mọi nghiệp vụ kinh tế đều được phê chuẩn đúng đắn theo cấp có thẩm quyền.
Ví dụ như nghiệp vụ chi tiền: người có thẩm quyền duyệt chi là kế taón trưởng và thủ trưởng đơn vị, người lập phiếu chi là kế toán thanh toán, sau đó thủ quỹ có quyền chi tiền và thủ trưởng đơn vị sẽ là người kí vào phiếu chi đó
Công ty X sử dụng ứng dụng tin học trong quá trình kiểm soát đó là việc ứng dụng thẻ từ đối với nhân viên trong công ty để kiểm tra về thời gian làm việc của nhân viên và việc ra vào các khu vực quan trọng của công ty.
Dựa vào những phân tích trên, kiểm toán viên đánh giá các thủ tục kiểm soát của công ty X là Khá. Kết luận này được phản ánh trên giấy tờ làm việc thông qua bảng câu hỏi đánh giá các thủ tục kiểm soát đã thiết kế sẵn.
Đối với công ty Y
Kiểm toán viên cũng có những phân tích và đánh giá các thủ tục kiểm soát tương tự như công ty X. Tuy nhiên, công ty Y chưa ứng dụng tin học trong quá trình kiểm soát do đặc thù của ngành xây dựng. Do đó, kiểm toán viên cũng đánh giá các thủ tục kiểm soát của công ty Y là Khá
Dưới đây là minh họa bảng câu hỏi đánh giá các thủ tục kiểm soát được phản ánh trên giấy tờ làm việc của công ty.
Biểu 2.5: Đánh giá các thủ tục kiểm soát
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty X Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá các thủ tục kiểm soát
Câu hỏi
Có Không Không áp dụng
1- Các chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong công ty có được phân công, phân nhiệm rõ ràng và được thể hiện trên các văn bản không?
2- Các trách nhiệm và công việc trong Công ty có được phân chia cụ thể rõ ràng cho nhiều bộ phận và cho nhiều người trong bộ phận hay không?
3- Sự phân công trách nhiệm và quyền lợi trong công ty có đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm hay không?
4- Quyền hạn của những người giữ vai trò quan trọng trong Công ty có được quy định rõ ràng và có quy định rõ chế độ uỷ quyền không?
5- Mọi nghiệp vụ kinh tế có được phê chuẩn đúng đắn theo đúng cấp có thẩm quyền không?
6- Có ứng dụng tin học trong quá trình kiểm soát không?( bảng mã từ đối với nhân viên,..) X
X
X
X
X
X
X
Đánh giá bộ phận kiểm toán nội bộ
Công ty X và Y không có bộ phận kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên công ty X đã có Ban kiểm soát nội bộ.
Kết luận chung: Thông qua đánh giá các yếu tố trong Hệ thống Kiểm soát nội bộ của công ty X, kiểm toán viên kết luận Hệ thống Kiểm soát nội bộ của công ty là Khá. Do đó, rủi ro kiểm soát trên toàn bộ Báo cáo tài chính của công ty X được kết luận là Thấp.
Công ty Y có hệ thống kế toán được đánh giá là Khá, tuy nhiên chưa tốt bằng công ty X và chưa có bộ phận kiểm toán nội bộ cũng như Ban kiểm soát nội bộ. Vì thế, kiểm toán viên kết luận rủi ro kiểm soát trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình.
c. Xác định rủi ro phát hiện trên phương diện toàn bộ báo cáo tài chính
Rủi ro tiềm tàng trên toàn bộ Báo cáo tài chính của công ty X được đánh giá là Trung bình và Rủi ro kiểm soát được đánh giá là Thấp nên để phù hợp với mức Rủi ro kiểm toán mong muốn là Thấp, Kiểm toán viên xác định mức Rủi ro phát hiện trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình.
Công ty Y có mức Rủi ro tiềm tàng và Rủi ro kiểm soát trên toàn bộ Báo cáo tài chính là Trung bình, nên mức Rủi ro phát hiện cũng được Kiểm toán viên xác định là Trung bình.
Rủi ro phát hiện được xác định ở mức Trung bình thì Kiểm toán viên sẽ tiến hành kết hợp thực hiện các thử nghiệm kiểm soát và các thử nghiệm cơ bản trong các bước công việc tiếp theo. Đồng thời kiểm toán viên sẽ thu thập các bằng chứng ở mức độ không cao và tiến hành chọn mẫu kiểm toán.
2.2.1.3 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện số dư khoản mục và các loại nghiệp vụ
a. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư khoản mục và các loại nghiệp vụ
Để đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư khoản mục và các loại nghiệp vụ trên các cơ sở dẫn liệu chính, kiểm toán viên xem xét bản chất của các khoản mục kết hợp với đặc thù sản xuất kinh doanh của mỗi công ty để xem xét khả năng sai phạm có thể xảy ra đối với từng khoản mục. Đồng thời dựa vào việc phân tích sơ bộ bảng cân đối kế toán của mỗi công ty, kiểm toán viên rút ra kết luận về rủi ro tiềm tàng đối với một số khoản mục chính tài chính
Đối với khoản mục tiền: Kiểm toán viên thường nhận diện các rủi ro xảy ra đối với khoản mục tiền như sau:
• Tính có thực : Rủi ro thường gặp phải đối với tài khoản tiền là số tiền trên Bảng cân đối bị ghi tăng lên vì người ta thường ghi tăng các khoản tiền để làm thay đổi các nguồn chi trong doanh nghiệp hay làm thay đổi khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
• Tính trọn vẹn : Kế toán có thể không phản ánh hết các nghiệp vụ có liên quan đến tiền nhằm mục đích tư lợi cá nhân.
• Tính giá: Công ty X thường giao dịch với nhà cung cấp ở nước ngoài và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài nên có nhiều tài khoản tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ. Do đó, kiểm toán viên đặc biệt quan tâm đến việc sử dụng tỷ giá ngoại tệ tại công ty X.
Rủi ro đối với khoản phải thu :
• Tính có thực : Các khoản phải thu có thể được ghi tăng lên để che đậy sự biển thủ. Các nhân viên thu bán hàng có thể lấy tiền và không ghi chép lại các biên lai thu tiền. Đồng thời để tránh việc chú ý vào một khoản phải thu tồn tại lâu dài, người biển thủ có thể lấy số tiền mới thu về bù vào số dư của khách hàng cũ.
• Tính trọn vẹn : Các khoản phải thu có thể bị ghi thiếu để làm thay đổi khả năng thanh toán của công ty.
• Tính phân loại và trình bày: Các khoản phải thu có thể không được phân loại một cách đúng đắn bằng cách cộng các khoản phải thu nội bộ vào các khoản phải thu bán hàng và các khoản phải thu khác.
Tài khoản hàng tồn kho:
• Tính có thực : Rủi ro cơ bản là hàng tồn kho có thể bị ghi tăng lên.
• Tính tính giá: Đối với công ty X, có một số nguyên vật liệu được công ty nhập khẩu từ nước ngoài nên có khả năng giá trị hàng tồn kho quy đổi sang VND bị tính toán sai.
Đối với doanh nghiệp sản xuất như công ty X và công ty xây dựng như công ty Y thì có rủi ro lớn là thành phẩm và chi phí sản xuất dở dang không được xác định chính xác.
• Phân loại: Hàng tồn kho cũng có thể bị phân loại sai như nhầm lẫn giữa thành phẩm và hàng gửi bán hay hàng mua đang đi đường với hàng đã về kho.
Tài khoản tài sản cố định :
• Tính có thực: Tài sản cố định trong Bảng cân đối có thể bị khai tăng hơn bằng cách ghi các tài sản không thuộc quyền sở hữu của công ty. Ngoài ra, theo thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 09/10/2002 hướng dẫn thực hiện bốn Chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ tài chính, một số Tài sản cố định không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định phải đưa vào chi phí trả trước dài hạn và tiến hành phân bổ vào chi phí trong thời gian không quá 3 năm. Do đó, có khả năng rủi ro cao đối với một số tài sản cố định đang được ghi trên Bảng cân đối kế toán không đủ tiêu chuẩn được coi là tài sản cố định.
Tài khoản đầu tư ngắn hạn, dài hạn :
• Tính có thực : Các khoản đầu tư dài hạn có thể bị ghi tăng thông qua việc vào sổ sách các chứng khoán dài hạn không thuộc quyền sở hữu của công ty tại thời điểm 31/12/2007
• Tính giá : Các khoản đầu tư dài hạn có thể được vào sổ không đúng giá trị thực tế tại thời điểm 31/12/2007 hay không lập dự phòng cho các khoản đầu tư
Tài khoản chi phí trả trước dài hạn :
Rủi ro có thể xảy ra với khoản chi phí trả trước dài hạn là đơn vị chưa có tiêu thức phân bổ rõ ràng chi phí này vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Điều này ảnh hưởng đến tính chính xác và đúng đắn của chi phí cũng như đến kết quả hoạt động kinh doanh.
Tài khoản chi phí xây dựng cơ bản dở dang :
• Tính có thực : Trong năm công ty X có đầu tư mở rộng sản xuất và xây dựng nhà xưởng mới nhưng chưa hoàn thành. Rủi ro cao có thể xảy ra là tính có thực của chi phí và giá trị ghi nhận của chi phí xây dựng cơ bản dở dang.
Tài khoản nợ ngắn hạn, nợ dài hạn, nợ khác
• Tính đầy đủ : Các khoản nợ ngắn hạn trên Bảng cân đối kế toán thường bị ghi giảm để làm thay đổi khả năng thanh toán hay che đậy sự biển thủ.
• Tính định giá: Đối với công ty X, các khoản nợ bằng ngoại tệ có thể sẽ bị chuyển đổi sai sang VND không theo đúng tỷ giá tại thời điểm 31/12.
Tài khoản nguồn vốn chủ sở hữu :
• Phân loại và trình bày : Rủi ro có thể xảy ra các nguồn vốn có thể bị phân loại sai.
• Quyền và nghĩa vụ : Một số khoản nợ có thể bị ghi nhầm là nguồn vốn có thể bị phân loại sai.
Ngoài ra, rủi ro có thể xảy ra là các thay đổi đối với nguồn vốn chủ sở hữu có thể không tuân thủ các quy định về tài chính hay không được ủy quyền phê chuẩn một cách đúng đắn.
Doanh thu, thu nhập :
• Tính có thực: Rủi ro có thể xảy ra là các khoản doanh thu bị ghi khống để tăng lợi nhuận trong năm do dức ép của Hội đồng quản trị.
• Phân loại và trình bày: Do ảnh hưởng của Chuẩn mực kế toán số 14-Doanh thu và thu nhập khác, được ban hành theo quyết định số 149/ 2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ tài chính, một số khoản doanh thu và thu nhập có thể bị phân loại và trình bày sai.
• Tính giá : Công ty X sản xuất sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài do đó có khả năng doanh thu bằng ngoại tệ có thể được qui đổi không đúng theo tỷ giá tại thời điểm phát sinh.
Chi phí :
• Tính đầy đủ : Rủi ro có nhiều khả năng xảy ra là chi phí không được ghi đủ làm nhằm làm giảm chi phí từ đó tăng lợi nhuận.
• Tính có thực: Chi phí có thể bị khai tăng để làm giảm lợi nhuận, từ đó làm giảm mức thuế phải nộp.
• Tính phân loại, trình bày : Việc trình bày và phân loại các khoản mục chi phí trên Báo cáo kết quả kinh doanh có thể bị sai.
Sau đây là bảng phân tích sơ bộ bảng cân đối kế toán của công ty X, và công ty Y, từ đó kiểm toán viên rút ra rủi ro tiềm tàng đối với một số khoản mục chính
Đối với công ty X
Bảng 2.3: Bảng phân tích sơ bộ Bảng cân đối kế toán của công ty X
Chỉ tiêu phân tích
31/12/2006
31/12/2007
Chênh lệch
Số tiền %
A Tài sản
I. Tài sản ngắn hạn 14,048,219,800 25,853,324,800 11,805,105,000 84
1. Tiền 3,802,626,800 10,110,928,800 6,308,302,000 166
2. Các khoản phải thu 6,003,690,600 11,814,989,600 5,811,299,000 97
3. Hàng tồn kho 3,094,282,000 2,648,100,400 (446,181,600) -14
4. Tài sản lưu động khác 1,147,620,400 1,279,306,000 131,685,600 11
II. Tài sản dài hạn 87,338,116,000 105,065,187,900 17,727,071,900 20
1. Tài sản cố định hữu hình 37,837,208,000 47,265,000,000 9,427,792,000 25
Nguyên giá 39,730,328,800 49,785,800,000 10,055,471,200 25
Giá trị hao mòn lũy kế (1,922,560,000) (2,520,800,000) (598,240,000) 31
2. Tài sản cố định vô hình 37,496,900,000 43,798,900,000 6,302,000,000 17
Nguyên giá 40,332,800,000 47,895,200,000 7,562,400,000 19
Giá trị hao mòn lũy kế (2,835,900,000) (4,096,300,000) (1,260,400,000) 44
3. CPXDCBDD 2,520,800,000 3,667,456,700 1,146,656,700 45
4. Chi phí trả trước dài hạn 9,483,208,000 10,333,831,200 850,623,200 9
Tổng tài sản 101,386,335,800 130,918,512,700 29,532,176,900 29
B Nguồn vốn
I. Nợ phải trả 21,791,685,800 40,002,575,200 18,210,889,400 84
1. Nợ ngắn hạn 3,153,520,800 3,797,585,200 644,064,400 20
2. Phải trả nhà cung cấp 3,108,776,600 4,411,400,000 1,302,623,400 42
3. Vay dài hạn 15,529,388,400 31,793,590,000 16,264,201,600 105
II. Nguồn vốn chủ sở hữu 79,594,650,000 90,915,937,500 11,321,287,500 14
1. Vốn chủ sở hữu 78,886,679,900 78,886,679,900 0 0
2. Các quỹ 472,650,000 1,906,355,000 1,433,705,000 303
3. Lợi nhuận chưa phân phối 235,320,100 10,122,902,600 9,887,582,500 4202
Tổng nguồn vốn 101,386,335,800 130,918,512,700 29,532,176,900 29
Ta thấy:
• Khoản mục tiền: số dư cuối năm tăng so với đầu năm 166%. Như vậy có sự biến động lớn. Tuy nhiên theo báo cáo kiểm toán năm trước, không có sai phạm trọng yếu với khoản mục tiền. Tuy nhiên, công ty X hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nên có giao dịch bằng ngoại tệ và có đánh giá lại chênh lệch tỷ giá hối đoái. Vì vậy rủi ro với khoản mục tiền là Trung bình
• Các khoản phải thu: Số dư cuối năm tăng so với đầu năm 97%, không làm tăng khả năng thanh toán của công ty. Công ty không trích lập dự phòng. Tuy nhiên, theo báo cáo kiểm toán năm trước, không có sai phạm trọng yếu với khoản phải thu. Do đó, rủi ro với khoản mục này là Trung bình
• Hàng tồn kho: Giảm 14%. Công ty X xuất khẩu sản phẩm ra nước ngaòi và nhập khẩu một số nguyên liệu về sản xuất nên khả năng sai phạm về tính giá hàng tồn kho là cao. Hơn nữa việc tính giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất kinh doanh dở dang lại liên quan trực tiếp đến giá vốn hàng bán. Vì thế, rủi ro tiềm tàng với khoản mục này được đánh giá là cao
• Chi phí trả trước dài hạn: Có ước tính về thời gian trả trước. Rủi ro với khoản mục này là cao vì tiêu thức phân bổ chi phí vào chi phí kinh doanh trong kỳ sẽ ảnh hưởng đế tính chính xác và đúng đắn của chi phí cũng như kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ.
• Tài sản cố định: Số dư cuối kỳ tăng so với số dư đầu kỳ. Điều này có thể do ghi tăng tài sản cố định hay ghi giảm chi phí khấu hao. Điều này làm ảnh hưởng đến chi phí và lợi nhuận trong kì. Như vậy khoản mục này được đánh giá có rủi ro tiềm tàng là cao
• Các khoản phải trả: thường được ghi giảm để làm thay đổi khả năng thanh toán nhưng ở đây số dư cuối kỳ tăng so với số dư đầu kỳ. Như vậy rủi ro tiềm tàng đối với khoản mục này ở mức Trung bình
• Các nguồn vốn và quỹ: Việc nghiệp vụ liên quan đến các tài khoản này không phức tạp và thường có quy định rõ trong biên bản họp hội đồng quản trị và các quy định về sử dụng các quỹ của công ty. Do đó, rủi ro tiềm tàng đối với khoản mục này thấp
…………….
Từ việc phân tích và xem xét các rủi ro thường gặp đối với từng khoản mục trên Báo cáo tài chính của hai công ty, Kiểm toán viên Công ty VAE đưa ra kết luận về Rủi ro tiềm tàng đối với từng khoản mục của công ty X. Kết luận này được thể hiện trên giấy tờ làm việc như sau :
Biểu 2.6: Kết luận về Rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và nghiệp vụ đối với công ty X.
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty X Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá rủi ro tiềm tàng cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính
Rủi ro tiềm tàng được đánh giá cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính như sau:
- Rủi ro tiềm tàng cao : Doanh thu, hàng tồn kho, Chi phí trả trước dài hạn, tài sản cố định.
- Rủi ro tiềm tàng trung bình: Tiền, phải thu, Phải trả, Chi phí.
- Rủi ro tiềm tàng thấp : Nguồn vốn và quỹ, các khoản vay và các tài khoản còn lại
Đối với công ty Y: Kiểm toán viên xem xét một số khoản mục chính
• Doanh thu: Đây là khoản mục có rủi ro tiềm tàng cao vì có thể doanh thu ghi nhận theo tạm tính, không theo nguyên tắc là dựa vào phiếu giá và biên bản nghiệm thu khối lượng hoàn thành.
• Phải thu: Một thực tế xảy ra với các công ty hoạt động trong lĩnh vực xây dựng đó là khi công trình hoàn thành, thời gian thu hồi các khoản nợ này kéo dài rất lâu và khó xác định được xem khoản phải thu đó có khả năng thu hồi hay không để trích lập dự phòng. Do đó, kiểm toán viên đánh giá rủi ro tiềm tàng với khoản mục này là cao
• Các khoản mục khác: Tương tự như công ty X
Từ những phân tích và nhận định trên, Kiểm toán viên Công ty VAE đưa ra kết luận về Rủi ro tiềm tàng đối với từng khoản mục của công ty Y. Kết luận này được thể hiện trên giấy tờ làm việc như sau :
Biểu 2.7: Kết luận về Rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và nghiệp vụ đối với công ty Y.
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM-VAE
Khách hàng: Công ty Y Người lập: Ngày:
Năm tài chính: 2007 Người soát xét: Ngày:
Công việc: Đánh giá rủi ro tiềm tàng cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính
Rủi ro tiềm tàng được đánh giá cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính như sau:
- Rủi ro tiềm tàng cao : Doanh thu, hàng tồn kho, phải thu, tài sản cố định.
- Rủi ro tiềm tàng trung bình: Phải trả, chi phí, nợ dài hạn, nợ khác, tiền.
- Rủi ro tiềm tàng thấp : Nguồn vốn và quỹ, các khoản vay và các tài khoản còn lại
b. Đánh giá rủi ro kiểm soát trên phương diện số dư khoản mục và các loại nghiệp vụ
Đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát trên từng khoản mục
Đối với công ty X
Công ty X là khách hàng truyền thống của Công ty VAE nên Kiểm toán viên sử dụng các Hồ sơ kiểm toán năm trước để đánh giá rủi ro kiểm soát trên số dư đầu năm. Kiểm toán viên nhận thấy, nhìn chung các quá trình kiểm soát nội bộ đối với các khoản mục được Công ty X thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên, năm nay kiểm toán viên vẫn phải đánh giá lại hệ thống kiểm soát nội bộ với từng khoản mục
Tiền: Kiểm toán viên nhận thấy công ty X đảm bảo nguyên tắc bất kiêm nhiệm đó là thủ quỹ và kế toán được đảm nhận bởi 2 người khác nhau. Hàng tháng đều thực hiện kiểm kê quỹ tiền mặt và đối chiếu giữa thủ quỹ và kế toán tiền mặt. Việc đối chiếu số dư tiền gửi ngân hàng cũng được tiến hành thường xuyên. Các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến tiền đều có sự phê chuẩn và ghi sổ theo chứng từ ( phiếu chi, phiếu thu, giấy báo có, giấy báo nợ..). Các khoản ngoại tệ cũng được theo dõi riêng. Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đảm bảo tính đúng kỳ.
Qua những phân tích trên, kiểm toán viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ với khoản mục tiền là Khá, do đó kết luận rủi ro kiểm soát đối với khoản mục này ở mức thấp
Các khoản phải thu phải trả: Công ty X theo dõi riêng từng khoản công nợ phải thu phải trả và thực hiện đối chiếu công nợ khá đầy đủ (được 90%). Việc hạch toán các khoản phải thu, phải trả dựa trên chứng từ ( hóa đơn bán hàng, hóa đơn mua hàng, phiếu chi, phiếu thu,…)Công ty không thực hiện trích dự phòng phải thu khó đòi vì đối tượng công nợ của công ty X có khả năng thu hồi hay công ty có khả năng trả….Các khoản phải thu, phải trả phát sinh có liên quan đến ngoại tệ đều được đánh giá lại cuối kì.
Từ những phân tích trên, kiểm toán viên cũng đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ với khoản mục phải thu, phải trả là Khá, do đó kết luận rủi ro kiểm soát đối với khoản mục này ở mức thấp
Hàng tồn kho: Công ty X thực hiện kiểm kê hàng tồn kho theo đúng quy định. Trong các phiếu nhận hàng, hóa đơn giao hàng, phiếu xuất kho, nhập kho đều có đủ chữ kí của các bộ phận liên quan. Công ty cũng thực hiên phân loại hàng tồn kho chậm luận chuyển, hư hỏng lỗi thời và để riêng các hàng tồn kho loại này riêng. Giá trị hàng tồn kho được ghi sổ theo giá gốc và phương pháp tính giá hàng xuất kho phương pháp bình quân gia quyền. Tuy nhiên, công ty chưa thực hiện lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho, hệ thống thẻ kho không được duy trì thường xuyên và địa điểm kho chưa được hợp lí và an toàn, thủ kho là người không được đào tạo chính quy. Do đó kiểm toán viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ với hàng tôn kho là Trung bình, do đó rủi ro kiểm soát với khoản mục này là Trung bình
Tài sản cố định: Công ty X thực hiện kiểm kê tài sản cố định theo quy định. Các tài sản cố định đều được ghi sổ theo giá gốc và theo dõi ở bộ phận kế toán, không có bộ phận riêng theo dõi. Việc tính khấu hao tài sản cố định nhất quán so với năm trước. Tuy nhiên, công ty không theo dõi riêng các tài sản cố định không cần dùng, chờ thanh lý. Thủ tục thanh lý tài sản cố định chưa đầy đủ, có một số nghiệp vụ không có quyết định của hội đồng quản trị hay không có biên bản thanh lý…
Từ những nhận xét trên, kiểm toán viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ với khoản mục này là trung bình, do đó, rủi ro kiểm soát được kết luận ở mức Trung bình
Các khoản vay: Công ty vay theo các hợp đồng vay vốn với lãi suất không cao quá so với quy định. Đồng thời cũng theo dõi hời hạn trả nợ của các khoản vay tuy nhiên công ty không thực hiện đối chiếu thường xuyên khoản vay với người cho vay và không theo dõi được hết lãi vay phải trả người cho vay. Do đó, hệ thống kiểm soát nội bộ đối với khoản mục này là trung bình, kiểm toán viên kết luận rủi ro kiểm soát ỏ mức Trung bình
Doanh thu:Việc hạch toán doanh thu căn cứ vào các hóa đơn chứng từ bán hàng và các chứng từ hợp lệ khác. Các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại được sự phê chuẩn của người phụ trách. Doanh thu được hạch toán đúng kỳ kế toán. Như vậy hệ thống kiểm soát nội bộ đối với khoản doanh thu là Khá, do đó, rủi ro kiểm soát đối với khoản mục này là Thấp
Chi phí: Các chi phí có sự kiểm tra và phê duyệt của lãnh đạo, công ty theo dõi chi tiết từng khoản mục chi phí và hạch toán chi phí đúng kỳ kế toán. Do đó, hệ thống kiểm soát nội bộ với khoản chi phí là Khá, rủi ro kiểm soát đối với khoản mục này ở mức thấp
……..
Kết luận: Các khoản mục được đánh giá Rủi ro kiểm soát ở mức trung bình là: Hàng tồn kho, tài sản cố định, các khoản vay. Các khoản mục còn lại có Rủi ro kiểm soát ở mức thấp.
Đối với công ty Y
Công ty Y là khách hàng kiểm toán năm đầu của Công ty VAE nên để đảm bảo đánh giá đúng mức rủi ro, Kiểm toán viên tiến hành đánh giá sơ bộ Rủi ro kiểm soát trên số dư đầu năm. Qua trao đổi với Kiểm toán viên tiền nhiệm, Kiểm toán viên VAE được biết các quá trình Kiểm soát nội bộ đối với từng khoản mục trên Báo cáo tài chính được công ty Y thực hiện đầy đủ trong năm 2006. Do đó, Kiểm toán viên VAE đánh giá Rủi ro kiểm soát trên số dư đầu năm là thấp.
Kiểm toán viên cũng tiến hành đánh giá hệ thống kiểm soát trên số dư cuối kỳ đối với từng khoản mục chính.
Đối với khoản mục tiền, hàng tồn kho, chi phí, kiểm toán viên có những nhận định và kết luận giống như công ty X
KẾT LUẬN
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng còn khá mới mẻ. Đứng trước xu thế hội nhập toàn cầu, các công ty kiểm toán Việt Nam đang nỗ lực hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ để có thể cạnh tranh với các công ty kiểm toán nước ngoài. Nâng cao và hoàn thiện công tác đánh giá rủi ro kiểm toán là một trong các yếu tố quan trọng, quyết định đến sự thành bại của một cuộc kiểm toán. Vì đánh giá rủi ro kiểm toán giúp kiểm toán viên lập kế hoạch kiểm toán hiệu quả, thiết kế chương trình kiểm toán hợp lý để đảm bảo về chất lượng cũng như chi phí và thời gian kiểm toán.
Qua quá trình thực tập tại công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam, thực tế cho thấy công ty đã xây dựng một qui trình đánh giá rủi ro và trọng yếu được thiết kế và thực hiện khá hoàn thiện bên cạnh một số tồn tại nhỏ. Với sự nghiên cứu và tìm hiểu thực tế quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán của VAE.,Ltd và dựa trên cơ sở lý luận được trang bị trong thời gian học tập và nghiên cứu tại trường, em đã cố gắng đề ra một số kiến nghị với hy vọng góp phần hoàn thành qui trình.
Mặc dù đã cố gắng trong suốt quá trình thực tập cũng như trong suốt quá trình hoàn thiện luận văn tốt nghiệp nhưng chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Kế toán cùng toàn thể các anh chị KTV giúp đỡ em để hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này.
Em xin chân thành Thank Ths Nguyễn Thị Hồng Thúy và toàn bộ các anh chị kiểm toán viên trong công ty VAE đã giúp đỡ em trong suốt thời gian qua.
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC 3
1.1 Trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính 3
1.1.1 Khái niệm trọng yếu 3
1.1.2 Vai trò của trọng yếu 4
1.1.3 Quy mô và bản chất của khoản mục nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu 6
1.1.3.1 Quy mô trong mối quan hệ với trọng yếu 6
1.1.3.2 Bản chất của khoản mục, nghiệp vụ trong mối quan hệ với trọng yếu. 7
1.1.4 Đánh giá trọng yếu trong kiểm toán báo cáo tài chính 10
1.1.4.1 Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu 11
1.1.4.2 Phân bổ ước lượng ban đầu về trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC 12
1.1.4.3 Ước tính tổng số sai sót cho từng khoản mục 13
1.1.4.4 Ước tính tổng số sai sót có thể chấp nhận được 13
1.1.4.5 So sánh ước tính sai số kết hợp với ước lượng ban đầu về trọng yếu hay ước lượng ban đầu về trọng yếu đã có sự điều chỉnh 13
1.2 Rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính 14
1.2.1 Khái niệm rủi ro kiểm toán 14
1.2.2 Các bộ phận cấu thành rủi ro kiểm toán 16
1.2.2.1 Rủi ro tiềm tàng 16
1.2.2.2 Rủi ro kiểm soát 16
1.2.2.3 Rủi ro phát hiện 17
1.2.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro 17
1.2.3.1 Mô hình rủi ro kiểm toán 17
1.2.3.2 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro 22
1.2.4 Đánh giá rủi ro kiểm toán 24
1.2.4.1 Đánh giá rủi ro tiềm tàng 24
1.2.4.2 Đánh giá rủi ro kiểm soát 27
1.2.4.3 Xác định rủi ro phát hiện 33
1.3 Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính và ảnh hưởng của nó đến phương pháp kiểm toán. 34
PHẦN 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN VÀ ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM (VAE.,LTD)……………………… 35
2.1 Tổng quan về Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam 35
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam 35
2.1.1.1 Giai đoạn từ khi thành lập đến năm 2002 35
2.1.1.2 Giai đoạn từ năm 2002 đến năm 2004 35
2.1.1.3 Giai đoạn từ năm 2004 đến tháng 10 năm 2006 35
2.1.1.4 Giai đoạn từ tháng 10 năm 2006 đến nay 35
2.1.2 Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh 35
2.1.3 Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của đơn vị 35
2.1.4 Thành tựu đạt được 35
2.1.5 Đặc điểm về tổ chức kiểm toán tại Công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam 35
2.1.5.1 Đặc điểm về quy trình kiểm toán 35
2.1.5.2 Đặc điểm về hệ thống hồ sơ kiểm toán 35
2.1.5.3 Đặc điểm hệ thống kiểm soát chất lượng 35
2.2 Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán tài chính tại VAE.,Ltd 35
2.2.1 Thực trạng đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại công ty VAE. 35
2.2.1.2 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện BCTC 35
2.2.1.3 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện số dư khoản mục và các loại nghiệp vụ 35
2.2.1.4 Ước lượng ban đầu về trọng yếu 35
2.2.1.5 Phân bổ ước lượng trọng yếu ban đầu cho các khoản mục 35
2.2.1.6 Xác định nội dung kiểm toán dựa vào đánh giá mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán 35
2.2.2 So sánh quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính của 2 khách hàng là công ty X và công ty Y 35
2.2.2.1 Điểm giống nhau trong quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán của công ty X và công ty Y. 35
2.2.2.2 Điểm khác nhau trong quy trình đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán của công ty X và công ty Y. 35
2.2.3 Quy trình chung đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán BCTC tại công ty VAE 35
2.2.3.1 Đánh giá rủi ro chấp nhận hợp đồng kiểm toánBCTC 35
2.2.3.2 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện BCTC 35
2.2.3.3 Đánh giá rủi ro kiểm toán trên phương diện số dư khoản mục và nghiệp vụ 35
2.2.3.4 Ước lượng mức trọng yếu ban đầu cho toàn bộ BCTC. 35
2.2.3.5 Phân bổ mức trọng yếu ban đầu cho các khoản mục trên báo cáo tài chính. 35
PHẦN 3: NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI VAE.,LTD 35
3.1 Nhận xét về quy trình tác đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại VAE., Ltd. 35
3.1.1 Ưu điểm 35
3.1.1.1 Vận dụng các chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam và chuẩn mực KT quốc tế vào thực tiễn đánh giá trọng yếu và rủi ro KT 35
3.1.1.2 Có sự phân công trong việc đánh giá trọng yếu và rủi ro KT 35
3.1.1.3 Đánh giá Trọng yếu và Rủi ro kiểm toán được trình bày trên giấy tờ làm việc 35
3.1.2 Nhược điểm 35
3.1.2.1 Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán với khách hàng có quy mô nhỏ 35
3.1.2.2 Đánh giá, rủi ro kiểm toán khi chấp nhận hợp đồngKT 35
3.1.2.3 Bảng câu hỏi đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ với việc đánh giá rủi ro kiểm soát. 35
3.2 Kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính 35
3.2.1 Kiến nghị với Nhà nước và cơ quan chức năng 35
3.2.2 Kiến nghị với công ty TNHH Kiểm toán và Định giá Việt Nam 35
3.2.2.1 Kiến nghị để khắc phục những nhược điểm trong công tác đánh giá trọng yếu và rủi ro tại công ty 35
3.2.2.2 Các kiến nghị khác nhằm hoàn thiện công tác đánh giá trọng yếu và rủi ro 35
KẾT LUẬN 35
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links