Chỉ cần khoảng 2 triệu cùng vốn cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước sẽ làm ra (tạo) ra một chỗ làm mới, trong khi khu vực nhà nước là 8 triệu đồng. Giá như chỉ cần bớt đi 10-15% tổng số vốn đầu của khu vực nhà nước sang cho khu vực ngoài nhà nước thì lợi biết bao!
Một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước phải đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô, có nghĩa là tăng trưởng cao nhưng bất lạm phát, bất thất nghiệp, cân bằng ngoại thương, cân bằng thu chi ngân sách nhà nước, cung cầu và giá cả hàng hóa, dịch vụ phải theo qui luật thị trường điều tiết. Thế nhưng, những vấn đề này ngày càng khó ổn định, nhất là từ khi Việt Nam gia (nhà) nhập WTO.
Khu vực nhà nước vẫn được ưu ái
Các văn bản chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đều khẳng định tất cả các thành phần kinh tế ở nước ta đều bình đẳng, được làm ra (tạo) mọi điều kiện thuận lợi để phát triển. Nhưng thực tế, các doanh nghề nhà nước vẫn được sự ưu ái thể hiện ở chính sách đầu tư, chính sách giá, thuế, chính sách sử dụng tài nguyên, đất đai và được độc quyền trong một số lĩnh vực. Các doanh nghề nhà nước bất bận tâm nhiều về hiệu quả kinh doanh - lời ăn, lỗ nhà nước - tức toàn dân chịu.
Đáng tiếc là với sự ưu ái đó thì các doanh nghề nhà nước lại bất hoàn thành sứ mạng là chủ đạo của toàn nền kinh tế, hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp. Lao động khu vực Nhà nước tính đến năm 2007 chỉ chiếm 9% lực lương lao động toàn xã hội, nhưng hàng năm vẫn được đầu tư một khoản vốn chiếm tỷ trọng trên 40% vốn đầu tư toàn xã hội. Tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực nhà nước lại thấp.
Năm 2007, đầu tư 13,3 cùng vốn vào khu vực nhà nước mới tăng được 1 cùng GDP, trong khi khu vực ngoài nhà nước chỉ cần 4,5 đồng. (*)
Năm 2007, khu vực nhà nước chỉ còn đóng lũy 36% vào tổng GDP của cả nước, tỷ lệ đóng lũy vào ngân sách nhà nước vẫn chỉ đạt 11-12%.
Từ con số thống kê cho thấy: chỉ cần khoảng 2 triệu cùng vốn cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước sẽ làm ra (tạo) ra một chỗ làm mới, trong khi khu vực nhà nước là 8 triệu đồng. Giá như chỉ cần bớt đi 10-15% tổng số vốn đầu của khu vực nhà nước sang cho khu vực ngoài nhà nước thì lợi biết bao!
Về ngoại thương, vừa đến lúc phải thay khẩu hiệu “sản xuất hàng trong nước thay thế hàng nhập khẩu” thành khẩu hiệu “sản xuất hướng về xuất khẩu”. Đây bất phải chỉ là từ ngữ mà đây là chiến lược kinh tế, khi ta vừa hội nhập quốc tế.
Hội nhập, đương nhiên hàng các nước dễ dàng vào nước ta và hàng của ai tốt, giá rẻ thì sẽ chiếm được thị phần. Ta bất thể bảo thủ cứ sản xuất ra những sản phẩm mà có cố hết mức cũng bất thể đẹp, tốt, rẻ hơn so với hàng nhập khẩu được. Nhưng để cân bằng cán cân ngoại thương buộc ta phải tăng cường sản xuất những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có thể xuất khẩu được mà lợi thế so sánh thuộc về nước ta như những hàng nông, lâm, thủy sản, dệt, may, da, giầy dép...
Nhưng ta phải tiến tới là hàng chế biến, chứ bất phải là hàng thô. Bao nhiêu năm nước ta vừa phải xuất dầu thô và nhập xăng dầu thành phẩm là bài học đắt giá vì thiếu nhãn quan nhìn xa, trông rộng.
Lao động giá rẻ bất bao giờ là một lợi thế!
Ai cũng biết rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng và tăng trưởng với tốc độ cao thì phải kết hợp tốt cả hai yếu tố: vốn và nhân lực. Nước ta là một nước nghèo, đông dân, yếu tố nhân lực trong tăng trưởng là yếu tố quyết định.
Tất nhiên, thời (gian) kỳ vừa qua tăng trưởng của nước ta phải bắt đầu bằng chuyện dựa vào yếu tố vốn, vì thời (gian) kỳ qua nước ta chưa có nguồn nhân lực chất lượng cao và cơ sở hạ tầng của nền kinh tế còn yếu kém.
Và cũng nên nhớ một điều, lao động với giá rẻ bất bao giờ là một lợi thế. Nếu nghĩ lao động với giá rẻ là lợi thế thì chỉ suốt đời đi làm thuê cho nước ngoài, mà bất bao giờ có thể khai mở được nguồn nhân lực cao cho phát triển.
Hơn 20 năm qua, nước ta chủ yếu phụ thuộc vào vốn đầu tư để tăng trưởng là quá đủ.
Giáo dục - bất thể lúc nào cũng phong trào
Trong hơn 20 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà nền giáo dục - đào làm ra (tạo) của nước nhà chưa kịp cho ra lò những thế hệ nguồn nhân lực chất lượng cao như mong muốn.
Nguồn nhân lực chất lương cao phải là toàn thể 45 triệu lao động đang làm chuyện trong các ngành kinh tế có thể lực tốt, có trình độ kỹ thuật tay nghề cao, có năng lực, ý thức làm chuyện trước hết vì mình, vì gia (nhà) đình và xã hội và 86 triệu người dân Việt phải được nâng cao trình độ nhận thức, quyền dân chủ.
Nếu chỉ căn cứ vào các số liệu thống kê thì giáo dục - đào làm ra (tạo) ở nước ta từ bậc mẫu giáo đến lớn học, sau lớn học vừa tăng một cách đáng kể và đôi lúc đáng “sợ”.
Đến năm 2007, nước ta vừa có gần 28 nghìn trường học phổ thông các cấp, 345 trường Đại học, Cao đẳng và 273 trường trung học chuên nghiệp, hàng ngày có hơn 1/4 dân số tới trường, trong đó có gần 2 triệu sinh viên đang theo học lớn học cao đảng và hơn 600 nghìn học sinh đang học ở các trường trung học chuyên nghiệp.
Nhưng về thực chất, giáo dục và đào làm ra (tạo) ở Việt Nam mới chỉ chạy the