be_buu

New Member
Gặp anh bạn người Nhật quen thời còn đi tầm sư học đạo tại Thái lan sáng 19/5 hôm nay



tui hỏi Aligato " vì sao bạn meo cho tớ là các bạn phải mua ròng suốt và cho đến kết thúc tháng 5/2014 ?"



Giải thích vấn đề này anh Aligato nói :" rất đơn giản , thứ nhất là các công nhân của các bạn đã đi làm trở lại , các đơn đặt hàng từ này cho đến cuối năm không những không giảm mà còn tăng.

Thứ hai , hệ thống chuyên chở bằng đường thủy của chúng ta trên toàn tuyết hải vận dài suốt 3000 km chiều dài trên đất nước các bạn ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lợi nhập khẩu dầu mỏ đến Nhật bản , nước của chúng tui , do đó , tuyến hải hành này buộc phải thông suốt , yên tâm nhé "

thứ ba , tui muốn tâm sự thêm với các bạn Việt Nam về chỉ số P/E trên sàn HOSE của các bạn



chỉ số P/E trên sàn HOSE của các bạn hiện nay chỉ còn 13 , nghĩa là qúa , quá đạt mức kỳ vọng của nhà đầu tư nước ngoài như chúng tui , cho nên , mua ròng suốt là đương nhiên ."



nhìn cặp tài liệu dày cộp của anh chàng đem cả vợ con sang Việt Nam từ Japan để đầu tư chứng khoán

tui nhìn các chỉ số mà anh nghiên cứu ....



P/E là tỷ lệ giữa giá thị trường và lợi nhuận ròng trên mỗi cổ phần của một công ty. Chính định nghĩa này đã ngầm định một cách đơn giản để tính toán chỉ số này, chỉ cần lấy giá hiện tại của mỗi cổ phần chia cho lợi nhuận ròng trên mỗi cổ phần đó (EPS):

P/E = Giá trị thị trường /Lợi nhuận ròng trên một cổ phần (EPS)



Trong hầu hết các trường hợp, việc tính toán tỷ lệ P/E đều có sử dụng tới chỉ số EPS của 4 quý trước. Điều này được hiểu như là một dấu hiệu của P/E. Tuy nhiên, cũng có lúc chỉ số EPS được lấy từ việc ước tính lợi nhuận kì vọng cho 4 quý tiếp theo. P/E tính theo cách này được gọi là P/E định hướng hay P/E kế hoạch. Một cách tính khác cũng thường được thấy là sử dụng EPS của hai quý trước đó và ước tính cho hai quý tiếp theo.



Trên thực tế thì không có sự khác biệt lớn lắm giữa các cách tính trên. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng trong cách tính đầu tiên, bạn sử dụng dữ liệu có thật từ hoạt động trong quá khứ của công ty. Hai cách tính khác dựa vào những tính toán ước lượng, do đó không phải lúc nào cũng hoàn hảo và chính xác.



Khi các công ty làm ăn không có lãi, tất yếu là EPS của công ty đó sẽ âm, do vậy việc tính toán P/E của các công ty này sẽ gặp nhiều khó khăn. Có nhiều ý kiến khác nhau về việc làm thế nào để giải quyết được vấn đề này. Một số ý kiến cho rằng cứ để hệ số P/E âm, một số khác thì cho rằng nên gán cho P/E trong trường hợp này giá trị bằng 0, trong khi phần lớn ý kiến khác thì nghĩ đơn giản là trong trường hợp này, P/E không tồn tại.



Thông thường, tỷ lệ P/E trung bình trên thị trường thường dao động trong khoảng từ 15 – 25. Sự dao động này phần lớn phụ thuộc vào tình trạng của nền kinh tế. Hệ số P/E cũng rất khác nhau giữa các công ty và các ngành, lĩnh vực kinh doanh.



Vậy hệ số P/E được sử dụng để làm gì?



Theo lý thuyết, P/E của một cổ phiếu sẽ cho chúng ta biết là các nhà đầu tư sẵn lòng trả bao nhiêu cho mỗi dollar tiền lãi là bao nhiêu. Với nội dung này, đôi khi P/E còn được gọi là số nhân (multiple ) của một cổ phiếu. Nói cách khác, một tỉ lệ P/E ở mức 20 sẽ cho biết rằng cá nhà đầu tư vào cổ phiếu này sẵn lòng chi 20 $ cho mỗi một đôla lợi nhuận mà công ty đó tạo ra. Tuy nhiên, đây là cách tiếp cận P/E quá đơn giản và không tính đến triển vọng tăng trưởng của công ty đó.



Mặc dù số liệu EPS trong công thức tính P/E thường dựa chủ yếu vào lợi nhuận ròng từ hoạt động kinh doanh của công ty trong 4 quý trước đó nhưng P/E cũng không chỉ đơn thuần là thước đo về hiệu quả hoạt động của công ty trong quá khứ. Kỳ vọng của thị trường về sự phát triển của công ty cũng là một nhân tố được tính tới trong chỉ số này. Nên nhớ rằng, giá cổ phiếu của một công ty sẽ phản ánh nhận định của các nhà đầu tư về giá trị của công ty đó. Tiềm năng phát triển trong tương lai cũng được tính tới khi định giá cổ phiếu. Do đó, một cách tốt hơn để lý giải tỉ lệ P/E đó là P/E là sự phản ánh mức độ lạc quan cũng như kì vọng của thị trường về khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp trong tương lai.



Nếu một công ty có hệ số P/E cao hơn mức trung bình của toàn bộ thị trường mức bình quân ngành, điều này có nghĩa là thị trường đang kỳ vọng vào khả năng tăng trưởng tốt của công ty trong một thời gian tới, có thể là vài tháng hay vài năm nữa. Một công ty có hệ số P/E cao cuối cùng sẽ phải “xứng đáng với kì vọng của thị trường” thể hiện thông qua sự tăng trưởng lớn về lợi nhuận hoạt động, nếu không chắc chắn giá cổ phiếu của công ty đó sẽ giảm.



Một ví dụ điển hình là tập đoàn FPT. Vài năm trước đây, khi mà tập đoàn này tăng trưởng ngoạn mục, và có tỷ lệ P/E trên 80. Ngày nay, FPTlà một trong những công ty lớn nhất tại Việt Nam, tuy nhiên thu nhập và lãi của công ty này không thể duy trì với tốc độ tăng trưởng như trước đây. Tỷ lệ P/E của tập đoàn đã giảm xuống mức 9,13 vào ngày 28/11/2008. Sự sụt giảm tỷ lệ P/E là điều hết sức bình thường khi các công ty có tốc độ tăng trưởng ở mức cao vào giai đoạn mới hình thành, củng cố được vị thế và danh tiếng của mình sau đó chuyển thành các công ty bluechips.



Đắt hay rẻ



Kết hợp P/E để đánh giá giá trị cổ phiếu tốt hơn hẳn so với việc sử dụng đơn thuần giá trị thị trường của cố phiếu đó.

VD: nếu các yếu tố khác là tương tự nhau, một cổ phiếu có giá 10000VNĐ và P/E là 75 sẽ đắt hơn một cổ phần trị giá 100.000VNĐ nhưng có tỷ lệ P/E chỉ là 20. Điều này có nghĩa sử dụng P/E để phân tích cũng sẽ có hạn chế nhất định, bạn không thể so sánh tỷ lệ P/E của 2 công ty quá khác biệt nhau để quyết định rằng công ty nào có giá trị tốt hơn.



Sẽ rất khó để có thể quyết định rằng một chỉ số P/E nào đó là cao hay thấp nếu như không tính toán hai nhân tố chính:



Thứ nhất là tốc độ tăng trưởng của công ty - Công ty đó đã phát triển như thế nào trong quá khứ và tốc độ tăng trưởng này có được kỳ vọng sẽ tăng lên, hay ít nhất là cũng sẽ duy trì không đổi trong tương lai hay không? Rõ ràng là không ổn nếu như trước đây công ty có mức tăng trưởng là 5 nhưng lại có tỷ lệ P/E ở mức trung bình. Nếu như tỷ lệ tăng trưởng kế hoạch không điều chỉnh lại hệ số P/E, khi đó giá cổ phần sẽ cao hơn giá trị thực. Trong trường hợp này, tất cả những gì bạn phải làm là tính toán chỉ số P/E sử dụng EPS kế hoạch.



Thứ hai là yếu tố ngành kinh doanh - việc so sánh các công ty với nhau chỉ thực sự hữu dụng khi các công ty đó nằm trong cùng một ngành kinh doanh. Ví dụ, các doanh nghiệp hay thực thể kinh doanh thường có số nhân (multiple) thấp bởi các doang nhgiệp này hoạt động trong ngành kinh doanh có tốc độ tăng trưởng thấp và tương đối ổn định. Ngược lại, ngành công nghệ là một ngành có tốc độ tăng trưởng đáng kinh ngạc và liên tục có sự đổi mới. Việc so sánh các công ty công nghệ này so với các thực thể kinh doanh nói trên sẽ chẳng cho bạn thấy được điều gì. Bạn chỉ nên so sánh các doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành kinh doanh, hay so sánh các chỉ tiêu của doanh nghiệp với các chỉ tiêu bình quân ngành.



P/E và những mặt hạn chế.



Cho đến giờ thì chúng ta biết được rằng trong một số trường hợp nhất định, P/E có thể giúp xác định xem liệu một công ty có được đánh giá quá cao hay đang bị định giá thấp hay không. Nhưng việc phân tích tỷ lệ P/E cũng chỉ có giá trị trong một số trường hợp nào nhất định và việc phân tích nà vẫn có những “cạm bẫy”. Một vài nhân tố có thể khiến cho việc phân tích P/E trở nên vô ích bao gồm:


Hoạt động kế toán: Lợi nhuận ròng là một chỉ số kế toán bao gồm cả những khoản mục phi tiền tệ. Hơn nữa việc tính toán lợi nhuận doanh nghiệp bị chi phối bởi các nguyên tắc kế toán. Mà các nguyên tắc kế toán (GAAP) có thể thay đổi theo thời gian, cũng có sự khác biệt giữa các quốc gia. Để khiến cho mọi việc thêm phức tạp, EPS có thể bị bóp méo, hay ẩn chứa dưới nhiều con số, phụ thuộc vào cách thức làm sổ sách kế toán của doanh nghiệp như thế nào. Và kết quả là chúng ta vẫn không thể biết được liệu có so sánh đúng những số liệu này không, hay lại đang so quả táo với quả lê?
Thông thường việc tuân thủ các nguyên tắc kế toán (GAAP) mà những nguyên tắc này thay đổi theo thời gian và khác nhau trong từng nước. Làm phức tạp thêm các vấn đề, EPS có thể bị bóp méo, prodded và cho vào trong những con số khác nhau phụ thuộc vào bạn làm sổ sách kế toán như thế nào. Kết qủa là chúng ta vẫn không biết được dù chúng ta so sánh những con số như nhau hay apples to oranges (để hiểu rõ hơn về vấn đề này, hãy xem các loại khác nhau của EPS)


Lạm phát: Trong thời gian lạm phát cao, hàng tồn kho và chi phí khấu hao có khuynh hướng giảm đi vì chi phí thay thế hàng hoá và trang thiết bị tăng theo mức giá chung của thị trường. Do đó, tỷ lệ P/E có khuynh hướng thấp hơn trong suốt thời gian lạm phát cao bởi lợi nhuận đã bị bóp méo đi, lớn hơn với con số thực tế. Cũng như tất cả các chỉ số khác, việc xem xét P/E trong một thời gian để xác định xu hướng sẽ hữu ích hơn nhiều. Lạm phát sẽ khiến cho việc theo dõi trở nên khó khăn vì thông tin trong quá khứ sẽ không còn phù hợp nhiều với điều kiện hiện tại nữa, độ sai lệch cũng lớn hơn.


Có nhiều cách lý giải P/E



Một tỷ lệ P/E thấp cũng không nhất thiết là công ty đó bị định giá thấp. Thay vào đó, điều này có nghĩa là thị trường đang tin rằng công ty có thể sẽ gặp khó khăn trong tương lai gần. Giá cổ phiếu giảm thường do tác động của một số nguyên nhân nào đó. Có thể là do công ty đã thông báo rằng lợi nhuận ròng thu được sẽ thấp hơn kỳ vọng. Điều này sẽ không được phản ánh trong hệ số P/E cho đến khi thông tin về lợi nhuận ròng thật sự được đưa ra, trong suốt thời gian đó thì công ty có thể bị đánh giá thấp hơn giá trị thực.



tui hỏi Aligato sâu hơn , thế ở Nhật Bản , người ta có tranh luận sôi nổi không khi nói về các công ty và chỉ số mua của các doanh nghiệp tại Việt Nam?



Aligato nói thêm , không những tranh luận sôi nổi mà còn rất sôi nổi nữa là đằng khác



tui cho anh xem 1 đoạn tranh luận nên mua cổ phiếu của công ty tại Việt Nam có chỉ số p/e cao hay thấp nhé



anh mở latop và chúng tui cùng xem



Một người tham gia thị TTCK luôn được dạy rằng thứ quan trọng bậc nhất để xem xét đánh giá một cổ phiếu là chỉ số P/E, xem xét chỉ số P/E cao hay thấp tại thị trường VIET NAM để quyết định mua, bán một mã cổ phiếu nào đó.







Tựu chung các hướng dẫn sơ lược đó đều giống nhau là nên tập trung vào các cổ phiếu có chỉ số P/E thấp và không nên đầu tư vào các cổ phiếu có chỉ số P/E quá cao.



P/E cũng là chỉ số được các nhà phân tích sử dụng trong nhiều năm liền để định giá cổ phiếu. Tuy nhiên, trên TTCK có rất nhiều mã cổ phiếu có chỉ số P/E rất cao nhưng vẫn tiếp tục tăng giá, rất nhiều cổ phiếu có P/E thấp nhưng giá vẫn không thể tăng lên được trong một thời gian rất dài, vậy hướng dẫn này có tính khả thi đến đâu trong việc giúp chúng ta tìm kiếm lợi nhuận?



Tất nhiên trên thị trường khi một cổ phiếu được bán với giá gấp 30-40 lần lợi tức (P/E cỡ 30 đến 40) thì chắc chắn phải có lý do riêng và do thị trường tự quyết định, vì vào thời điểm nào cũng vậy, mọi cổ phiếu đều được mua bán với giá gần với giá trị thực của chúng. Thế nên, nếu chỉ nhìn con số tuyệt đối P/E của một mã cổ phiếu thấy quá cao, có thể bạn đã mất cơ hội dự bữa tiệc ăn mừng sự tăng giá phi mã của PVD từ 120 (P/E là 140) lên 310, của FPT từ 400 (P/E là 73) lên 670 ...



Các cổ phiếu có chỉ số P/E cao



Tỉ số P/E cao thường được chấp nhận trên TTCK tăng giá, ở các nền kinh tế mới nổi, đang trên đà tăng trưởng với tốc độ rất cao (như ở Việt Nam và Trung Quốc). Nếu chỉ số P/E của một công ty quá cao có thể có các lý do sau: Ngành nghề của công ty đó rất hấp dẫn, có tiềm năng, công ty có khả năng đưa ra các sản phẩm mới có tính cách mạng trong đời sống (như các lĩnh vực kỹ thuật cao, phần mềm, dược phẩm), ngành nghề của công ty bình thường nhưng tốc độ tăng trưởng của công ty trong thời gian tới hứa hẹn sẽ rất cao (tức là hệ số P/E sẽ nhanh chóng hạ thấp xuống).



Một trường hợp khác, cổ phiếu có chỉ số P/E cao là vì một lý do nào đó thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS) rất nhỏ, dù thị giá của cổ phiếu này không cao nên người ta chấp nhận với kỳ vọng EPS được cải thiện, giá cổ phiếu sẽ tăng. Chú ý rằng việc so sánh chỉ số P/E cao thấp giữa hai ngành khác nhau là khập khiễng vì mỗi ngành có các đặc thù riêng. Chẳng hạn các ngành ngân hàng, bán lẻ, đầu tư tài chính, công nghệ thông tin được các NĐT chấp nhận với chỉ số P/E cao, các ngành sản xuất cơ bản như cơ khí, sản xuất giấy, xây dựng… được chấp nhận với chỉ số P/E thấp hơn.



Lưu ý quan trọng khác là khi một cổ phiếu đang trên đà tăng giá thì việc chỉ số P/E của cổ phiếu đó cao không ngăn cản lại được quá trình tăng giá đó. Như vậy, trong các giai đoạn thị trường “nóng” như tháng 3 và tháng 4 năm 2006, giai đoạn tháng 12 năm 2006 đến tháng 2 năm 2007, những người tham gia thị trường không nên bận tâm quá nhiều đến chỉ số P/E. Nhưng cũng cần lưu ý các NĐT rằng mua cổ phiếu có hệ số P/E cao sẽ gặp rất nhiều rủi ro khi lợi nhuận của công ty đột ngột suy giảm. Xem xét đánh giá chỉ số P/E của một cổ phiếu cao hay thấp phải xem xét mối liên quan với đặc thù ngành nghề, tốc độ tăng dự kiến lợi nhuận và doanh thu, triển vọng chung của nền kinh tế quốc dân.



Các cổ phiếu có chỉ số P/E thấp



Chỉ số P/E thấp xảy ra ở TTCK giảm giá mạnh, “ngủ đông” nhiều năm liền hay nền kinh tế tăng trưởng rất chậm hay đang trên đà suy thoái. Chỉ số P/E thấp cũng nằm trong một số ngành không có tiềm năng phát triển hay ở cổ phiếu của các công ty yếu kém, đội sổ trong một ngành, hay các cổ phiếu không được sự quan tâm nắm giữ của các tổ chức. Lời khuyên của các giáo sư giảng dạy chứng khoán là tập trung vào các cổ phiếu có chỉ số P/E thấp, tuy nhiên điều này không hoàn toàn đúng. Bất kỳ ai mua một chứng khoán cũng tìm kiếm lợi nhuận đến từ hai nguồn: cổ tức và sự tăng giá của cổ phiếu. Thông thường lợi nhuận đến từ việc tăng giá cổ phiếu gấp hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn lần lợi nhuận thu được từ nguồn cổ tức. Vì thế, nếu quan tâm quá mức đến việc bỏ ra bao nhiêu đồng để có một đồng cổ tức (tức là bạn chỉ chấp nhận các cổ phiếu có chỉ số P/E thấp) có thể bạn bỏ mất cơ hội thu được lợi nhuận lớn từ viêc tăng giá phi mã của cổ phiếu có chỉ số P/E cao.



Lưu ý rằng trong một nhóm các công ty thuộc cùng một ngành không nên lựa chọn các công ty có chỉ số P/E thấp nhất, vì thông thường đây là các công ty không có tiềm năng phát triển hay có thành tích cực kỳ cùng kiệt nàn, yếu kém. Do đó, khi xem xét cổ phiếu có chỉ số P/E thấp cần chú ý thêm tới thu nhập trên mỗi cổ phiếu và yếu tố ngành nghề. Chỉ số P/E của một cổ phiếu thấp không phải là nguyên nhân để cổ phiếu đó tăng giá nên đừng bao giờ mua chúng vì bạn thấy chỉ số P/E thấp.



Nguồn : diễn đàn chứng khoán Nhật Bản NIKKEI INVEST JP.
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
N Mô hình trường học thân thiện ở vùng miền núi dân tộc thiểu số Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp trường tiểu học và trung học cơ sở Lầu Thí Ngài, xã Lầu Thí Ngài, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai) Văn hóa, Xã hội 0
F Những lỗi cần tránh khi tạo dáng đôi mày ngài ? Sức khỏe 2
R Nâng cao hiệu quả giảng dạy bài những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm từ thế kỉ X đến XV Luận văn Sư phạm 0
D Nghiên cứu ảnh hưởng của muội than đến cơ tính và tổ chức của hỗn hợp PBT/PA6 Khoa học kỹ thuật 0
D Nghiên cứu các yếu tố tác động đến gia tăng giá trị đất đô thị tại Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D Các nhân tố ảnh hưởng đến giá bán căn hộ chung cư cao cấp - Nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
D Các nhân tố ảnh hưởng đến ý định của người mua nhà ở của người mua nhà khu vực đô thị Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
D điều chỉnh cục bộ quy hoạch chung xây dựng thành phố uông bí đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 Văn hóa, Xã hội 0
D nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần dược hậu giang đến năm 2010 Văn hóa, Xã hội 0
D PHÂN TÍCH một số yếu tố ẢNH HƯỞNG đến LƯỢNG KHÍ THẢI CO2 của một số QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI năm 2014 Khoa học Tự nhiên 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top