khoc_vi_girl2000
New Member
Download miễn phí Đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng của ngập úng đến hiện trạng chết cây ăn trái ở vườn cây Lái Thiêu – Bình Dương
Bảng các chữ viết tắt
Danh mục hình
Danh mục bảng
CHƯƠNG 1 : MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
CHƯƠNG 2 : TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NGHIÊN CỨU 3
2.1. Một số đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Thuận An tỉnh Bình Dương 3
2.1.1 Điều kiện tư nhiên 3
1. Vị trí địa lý 3
2. Địa hình 3
3. Đất đai 5
4. Nguồn nước – thủy văn 6
5. Đặc điểm khí hậu 8
2.1.2 Những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên trong sản xuất nông nghiệp của huyện 10
1. Những thuận lợi 10
2. Những khó khăn 10
2.1.3. Đặc điểm kinh tế – xã hội 10
1 Hiện trạng phát triển kinh tế 10
2. Kết cấu hạ tầng 14
2.1.4. Văn hóa – xã hội 15
1. Y tế 15
2. Dân số – lao động 15
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/web-viewer.html?file=jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-demo-2017-07-19-de_tai_nghien_cuu_anh_huong_cua_ngap_ung_den_hien_trang_chet_mKUSRkOCkC.png /tai-lieu/de-tai-nghien-cuu-anh-huong-cua-ngap-ung-den-hien-trang-chet-cay-an-trai-o-vuon-cay-lai-thieu-binh-duong-92765/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
An Sơn là xã có mật độ kênh rạch lớn nhất. Đóng vai trò chính trong việc cấp thoát nước cho toàn xã là các rạch lớn như Rạch Bà Lụa, Rạch Sơn, Rạch Hai Diêu, Rạch Sáu Hô và Rạch Cầu Quay. Ngoài ra, còn có các rạch nhánh và các kênh mương nhỏ dẫn nước từ rạch lớn vào vườn cây khi triều lên và thoát nước từ vườn ra khi nước ròng hay co mưa.
Do nằm tiếp giáp với sông Sài Gòn nên Bình Nhâm cũng có mật độ kênh rạch tương đối cao. Rạch Búng, Rạch Cây Me và Rạch Bà Học kết hợp với các rạch nhánh, suối và kênh nhỏ làm thành hệ thống tưới tiêu nước cho toàn xã.
Hệ thống cấp thoát nước chính cho các vườn cây trong thị trấn An Thạnh bao gồm Rạch Búng, Rạch Bà Lụa, Suối Cát và Rạch Mương Trâm.
Hưng Định là xã có ít kênh rạch nhất trong bốn xã thuộc khu vực nghiên cứu. Trước đây, khi triều lên nước từ sông Sài Gòn tràn qua Rạch Búng rồi vào Rạch Nhánh và suối Chòm Sao để tưới cho các vườn cây trong xã. Từ năm 2005, suối Chòm Sao đã bị cải tạo thành đường Chòm Sao và mương thoát nước bê tông chỉ dùng để thoát nước cho khu công nghiệp Việt Hương và các xí nghiệp lân cận. Do đó, hiện nay chỉ còn Rạch Búng, Rạch Nhánh và các rạch, suối nhỏ là đóng vai trò tưới tiêu nước cho toàn xã.
Thống kê chi tiết các kênh rạch tại khu vực nghiên cứu được trình bày trong Phụ lục 2.
2. Tình hình tiêu thoát nước ở các kênh rạch
Hiện nay, tốc độ tiêu thoát nước của tất cả các kênh rạch trong khu vực đều rất kém, gây ngập úng trên diện rộng. Các nguyên nhân chính gây ra tình trạng này bao gồm :
Đáy kênh, rạch bị nâng cao do quá trình bồi lắng và sạt lỡ nhưng không được nạo vét trong thời gian dài. Ở nhiều vùng, đáy rạch cao hơn đáy mương thoát nước trong vườn cây cây nên vườn thường xuyên bị úng nước.
Lòng kênh, rạch bị thu hẹp do cây bụi hai bên bờ lâu ngày không được phát quang và do các hộ dân lấn chiếm.
Dòng chảy bị tắc nghẽn do rác rưởi và lục bình trong rạch quá nhiều.
Trong khi thi công công trình đê bao An Sơn – Lái Thiêu, nhiều đoạn kênh rạch có dòng chảy cắt ngang đê đã bị lấp và được thay thế bằng cống thoát nước. Các cống này có tiết diện nhỏ hơn nhiều so với tiết diện kênh, lại được đặt khá cao nên nước thoát không kịp. Đây là nguyên nhân gây ngập úng và chết cây hàng loạt ở các vườn cây ở gần đê bao.
3. Chất lượng nước ở các kênh rạch
Chất lượng nguồn nước tưới cho các vườn cây hiện nay đã bị suy giảm mạnh. Các nguyên nhân gây ra tình trạng này bao gồm:
Nứơc thải từ các khu, cụm công nghiệp Nam Bình Dương trực tiếp đổ vào hệ thống kênh rạch trong địa bàn nghiên cứu. Cụ thể, Rạch Bà Lụa trước đây là nơi tiếp nhận nước thải từ nhà máy Đường Bình Dương; nước thải từ khu công nghiệp Việt Hương, doanh nghiệp Phước Lộc Thọ và các lò gốm xả xuống suối Chòm Sao; Suối Cát tiếp nhận nước thải của cụm công nghiệp Bình Chuẩn; Suối Đờn bị nước thải của công ty Daso – Dacco làm ô nhiễm.
Khối lượng ngày càng gia tăng của chất thải chăn nuôi được xả trực tiếp xuống các kênh rạch gây ô nhiễm cục bộ tại một số khu vực vườn cây. Có thể nhận định hiện nay mức độ ô nhiễm nước kênh rạch do chất thải chăn nuôi gây ra không lớn và phạm vi ảnh hưởng nhỏ, do phần lớn các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ và phân bố rải rác. Tuy nhiên với tốc độ phát triển nhanh chóng về số lượng các hộ tham gia chăn nuôi và quy mô chăn nuôi, chỉ trong vòng vài năm tới, chất thải chăn nuôi sẽ trở thành một trong những vấn đề môi trường nổi cộm trong khu vực.
Kết quả điều tra 50 hộ dân về màu, mùi của nước trong mương của các vườn cây ăn trái cho thấy : tỷ lệ số hộ nhận định nước có màu, mùi bất thường khá cao (78%). Trong số này, các hộ ở gần rạch Bà Lụa cho rằng nước có màu đen, mùi hôi trong thời gian Nhà máy Đường Bình Dương còn hoạt động. Những hộ có vườn cây tiếp nhận nước từ suối Cát nhận xét nước có nhiều màu, thay đổi phụ thuộc vào thời gian xả thải của cụm công nghiệp Bình Chuẩn. Người dân ở gần suối Đờn cho biết nước trong mương thường có bọt. Nước ở các vườn ở gần suối Chòm Sao có màu cà phê sữa do pha trộn nước thải KCN Việt Hương và nước thải sản xuất gốm.
Hình 4.1. Kết quả điều tra về màu, mùi của nước trong các mương vườn
4.2.2 Tình trạng ngập úng
Các xã An Sơn, Bình Nhâm, Hưng Định và thị trấn An Thạnh thuộc khu vực có địa hình thấp, chịu ảnh hưởng của thủy triều từ sông Sài Gòn nên thường bị ngập vào mùa mưa. Tuy nhiên, trước đây nước ngập chỉ tràn vào các vườn cây rồi rút ra trong ngày. Vài năm gần đây, do tốc độ tiêu thoát nước của hệ thống kênh rạch rất kém nên gây ra tình trạng ngập úng kéo dài, ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng vườn cây trái.
1. Phân bố vùng ngập úng
Trong vòng năm - sáu năm nay, tình trạng ngập úng xảy ra trên diện rộng tại bốn xã thuộc địa bàn nghiên cứu. Đặc biệt, ngập úng nặng tập trung ở những nơi có địa hình thấp, gần sông và gần bờ bao An Sơn – Lái thiêu. Các Ấp An Mỹ, An Phú, An Quới thuộc xã An Sơn và Bình Đức, Bình Hòa thuộc Bình Nhâm chịu ngập úng nặng nhất. Ấp Hưng Lộc xã Hưng Định nằm ở địa hình cao nên không bị ngập.
2. Nguyên nhân gây ngập úng
Các nguyên nhân gây ngập úng bao gồm :
Mưa
Triều cường : nước vào vườn nhanh, không ra hay ra chậm.
Hồ Dầu Tiếng xả lũ
Các nguyên nhân khác : nước thải công nghiệp, lấp rạch để làm đê bao, các đường lộ mới làm xong không có cống thoát nước nên nước mưa tràn từ đường xuống vườn cây hai bên gây ngập, do nước mưa và triều tràn vào vườn cây qua các vườn bị bỏ hoang không đắp bờ bao
Các nguyên nhân do con người gây ra như hồ Dầu Tiếng xả lũ, lấp các con rạch để làm đê bao, công trình bao bờ, nâng cấp các con đường cũng chính là một trong những tác nhân gây nên hiện tượng ngập úng.
Hình 4.2. Kết quả điều tra về nguyên nhân gây ngập nước
3. Mức độ và thời gian ngập úng
Theo kết quả điều tra trên 50 hộ dân, số vườn bị ngập chiếm tới 64%. Mức ngập từ 10 – 50 cm chiếm đa số trong tất cả các vườn, cá biệt có 3 vườn ngập trên 50 cm. Số lần ngập trung bình trong năm từ 3 – 4 lần. Thời gian ngập trung bình từ 3 đến 7 ngày/lần. Số vườn có thời gian ngập trên 15 ngày/lần chiếm 16%, đây là những vườn có tỷ lệ chết cao nhất.
Thời gian ngập cao điểm là vào khoảng từ tháng 9 đến tháng 11 âm lịch. Đây cũng là thời gian triều cường của sông Sài Gòn và hồ Dầu Tiếng xả lũ.
4. Xu hướng ngập úng trong những năm gần đây
Trong số 50 hộ dân được điều tra, phần lớn nhận xét xu hướng ngập gia tăng (chiếm 66%), 14% đánh giá là bình thường ( không tăng, không giảm).
Hình 4.3. Kết quả điều tra về xu hướng ngập trong những năm gần đây
Như vậy, xu hướng ngập trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng. Theo kết quả điều tra thì xu hướng ngập gia tăng nhiều nhất là tập trung từ năm 2000 trở đi. Thời gian này lại trùng với thời gian mà các nhà máy, xí nghiệp gia tăng nhiều, các con đường được nâng cấp, công trình đê bao An Sơn – Lái Thiêu
bắt đầu được thực hiện Do vậy, có thể thấy được hiện tượng ngập úng gia tăng chịu ảnh hưởng từ việc thi công các công trình thủy lợi, công trình xây dựng cơ bản
5. Các biện pháp khắc phục ngập úng đã được thực hiện
a. Các biện pháp tự phát của nông dân
Trước tình hình ngập úng như vậy, phần lớn người dân đã tìm cách khắc phục bằng các biện pháp thủ công như đắp cao bờ xung quanh vườn, sử bọng, canh con nước để xẻ bờ cho nước thoát Bên cạnh đó, một số hộ dân do năng suất vườn cây quá thấp, hay do nhận thấy các biện pháp khắc phục ngập úng không có hiệu quả nên không thực hiện chống ngập (chiếm 12%).
Theo nhận định của các hộ dân được điều tra, các biện pháp khắc phục ngập úng thủ công nêu trên không có hiệu quả. Sau khi khắc phục, vườn cây vẫn bị ngập úng.
b. Biện pháp của nhà nước và địa phương
Nhằm khắc phục ngập úng, trung ương tỉnh và địa phương đã tiến hành chương trình nạo vét, khai thông hệ thống mương rạch. ( Bảng thống kê chi tiết các kênh rạch được nạo vét khai thông trình bày ở Phụ lục 2). Tuy nhiên, chỉ có 48% số hộ dân được hỏi nhận xét là chương trình có hiệu quả chống ngập. Trong khi đó 22% đánh giá là không có hiệu quả, thậm chí 14% hộ dân cho rằng chương trình này gây phản tác dụng – xu hướng ngập tăng lên nhiều.
Hình 4.4. Kết quả điều tra về hiệu quả chống ngập úng
Như vậy, có thể nhận định hiệu quả chống ngập úng của chương trình nạo vét kênh mương do nhà nước và địa phương thực hiện đạt hiệu quả chưa cao. Tình trạng này do những nguyên nhân sau gây ra :
Trình tự nạo vét ở một số nơi chưa hợp lý : nạo vét rạch nhỏ trước, rạch lớn sau nên nước từ các rạch nhỏ không thoát được gây úng.
Tiến trình nạo vét kênh mương còn chậm. Thời điểm tiến hành điều tra là đầu mùa mưa nhưng tiến độ đạt được chưa đến 50%. Các bọng thoát nước của người dân bị bít hay làm hỏng trong quá trình nạo vét gây ngập úng cục bộ
4.2.3. Kết quả phân tích mẫu nước
Nhằm tìm hiểu về cơ chế của ảnh hưởng của ngập úng tới cây ăn trái, với mục đích đi đến kết luận chính xác : ngập úng có phải nguyên nhân gây ra chết cây hay không, đề tài đã tiến hành lấy và phân tích mẫu nước tại 5 vườn ngập nhiều (tương ứng là vườn nhiều cây chết) và 5 vườn ít ngập (tương ứng là vườn ít cây chết). Từ kết quả thu được, đề tài so sánh giá trị trung bình của các chỉ tiêu phân ...