utcung_thanhhoa
New Member
Download miễn phí Đề tài nghiên cứu khoa học vốn con người và mô hình xác định số năm đi học hiệu quả
PHẦN MỞ ĐẦU . 1
1. ĐẶT VẤN ĐỀ . 1
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU . 2
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 3
4. TỔNG QUAN CÁC ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN. 3
5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI . 4
5.1 Đối tượng nghiên cứu. 4
5.2 Phạm vi nghiên cứu. 5
6.Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI . 5
7. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI. 5
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ VỐN CON NG ƯỜI VÀ MÔ HÌNH XÁC ĐỊNH
SỐ NĂM ĐI HỌC HIỆU QUẢ . 6
1.1 Lý thuyết về vốn con người. . 6
1.2 Giáo dục và thu nhập – Mô hình đi học. 7
1.3 Hàm thu nhập Mincer . 11
1.3.1 Sự hiệu quả của đầu tư trong mô hình đi học . 11
1.3.2 Đầu tư cho đào tạo trong thời gian làm việc (Post-School Investment) . 14
1.3.3 Hàm ước lượng logarithm thu nhập . 17
1.3.4 Những ưu điểm và hạn chế của mô hình hàm thu nhập Mincer . 23
1.4 Nhận xét, đánh giá về lý thuyết vốn con ng ười. 24
PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU. 27
2.1. Đặc điểm của thị trường giáo dục ở Việt Nam. 27
2.1.1 Dịch vụ giáo dục và thị trường giáo dục . 27
2.1.2 Một số thất bại của thị trường (Market failures) giáo dục. 28
2.2. Mức học phí của các trường đại học . 32
2.2.1 Đối với các trường công lập . 32
2.2.2 Đối với các trường ngoài công lập. 34
2.3. Chênh lệch thu nhập của người lao động được đào tạo và chưa qua đào tạo. . 43
2.3.1 Chênh lệch thu nhập trong các doanh nghiệp. . 43
2.3.2 Nguyên nhân của sự chênh lệch thu nhập. . 47
2.4. Ước lượng suất sinh lợi của giáo dục. . 49
2.5. Kết luận. . 57
PHẦN 3: GỢI Ý CHÍNH SÁCH . 61
3.1. Vai trò của nhà nước trong thị trường giáo dục. 61
3.2. Vai trò của nhà trường trong việc đáp ứng nhu cầu thị tr ường giáo dục. 62
3.2. Vai trò của phụ huynh – học sinh trong việc đáp ứng nhu cầu thị tr ường giáo
dục. 64
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ . 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 68
PHỤ LỤC. a
Phụ lục 1 . a
Phụ lục 2 . c
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/web-viewer.html?file=jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-demo-2017-07-19-de_tai_nghien_cuu_khoa_hoc_von_con_nguoi_va_mo_hinh_xac_dinh_4lW3oOe04g.png /tai-lieu/de-tai-nghien-cuu-khoa-hoc-von-con-nguoi-va-mo-hinh-xac-dinh-so-nam-di-hoc-hieu-qua-92884/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
và giá có quan hệ nghịch biến. Nếu giá càng cao thì lượng cầu càng giảm và
ngược lại. Khi chi phí cho việc học tăng l ên thì số người đi học sẽ giảm. Luật
cung thì ngược lại, lượng cung và giá có quan hệ đồng biến, nếu học phí thu
28
được từ sinh viên càng cao thì số lượng sinh viên mà nhà trường sẵn lòng
nhận đào tạo càng nhiều. Ngược lại, nếu học phí càng thấp thì số lượng sinh
viên nhà trường sẵn lòng nhận đào tạo sẽ giảm. Tuy nhiên, thị trường giáo dục
là thị trường có kiểm soát nên số lượng sinh tối đa mà nhà trường được phép
đào tạo hàng năm lại phụ thuộc vào chỉ tiêu mà bộ Giáo dục cho phép.
2.1.2 Một số thất bại của thị trường (Market failures) giáo dục
Thị trường giáo dục nói chung và thị trường giáo dục Việt nam nói riêng tồn
tại một số thất bại như: Thông tin không hoàn hảo, tính cạnh tranh không cao,
hàng hoá không đồng nhất, hạn chế trong lựa chọn của ng ười đi học, người
mua trả tiền trước, ngoại tác tích cực trong giáo dục, v à khó khăn trong tiếp
cận giáo dục của người nghèo.
Thông tin không hoàn hảo
Thông tin không hoàn hảo thể hiện ở thị trường giáo dục là sự bất cân xứng
thông tin. Nhà trường (người cung ứng dịch vụ) biết được chất lượng dịch vụ
của mình nhiều hơn người đi học (người mua dịch dịch vụ). Người mua dịch
vụ chỉ biết đựợc chất lượng giáo dục sau khi học xong. Nhưng sau khi học
xong không thể đổi hay trả lại nếu phát hiện chất l ượng đào tạo kém.
Tính cạnh tranh trong thị trường giáo dục không cao
Nếu xét theo cấu trúc thị trường thì thị trường giáo dục mang đặc điểm của
một thị trường độc quyền nhóm (oligopoly) v ì cùng một cấp học ở bậc phổ
thông hay cùng một ngành học ở bậc đại học chỉ có một vài trường cung ứng.
Ví dụ, học sinh bậc phổ thông phải chọn những tr ường ở gần nhà. Sinh viên ở
các tỉnh phía Bắc muốn học ngành nông học chỉ có thể học ở Trường Đại học
Nông Nghiệp, muốn học ngành Y chỉ có thể học tại Đại học Y Hà Nội, Đại
họcY Thái Bình, Đại học Y Hải Phòng... Như vậy, do thị trường cạnh tranh
29
không hoàn hảo nên dẫn đến hiệu quả xã hội không cao, các trường chủ quan,
không đầu tư nhiều trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao chất
lượng dịch vụ và cạnh tranh về học phí.
Chất lượng dịch vụ không đồng nhất
Không giống như hàng hóa và dịch vụ khác, chất lượng của trường học và
giáo viên trong mỗi trường học là không đồng nhất, nhiều trường đại học đào
tạo chung một ngành đào tạo nhưng chất lượng giữa các trường thì rất khác
nhau. Trong cùng một trường đại học, chất lựơng của các giảng viên cũng rất
khác nhau. Do đó, việc lựa chọn của sinh viên gặp nhiều khó khăn.
Người mua trả tiền trước và không bảo đảm về chất lượng
Sinh viên phải đóng tiền trước khi học và thi. Việc thi đỗ hay trượt, có việc
làm hay không có việc làm của sinh viên sau này, nhà trường không bảo đảm.
Do đó, việc kinh doanh giáo dục rủi ro thấp, nh ưng người đi học thì rủi ro cao
hơn.
Ngoại tác tích cực trong giáo dục
Lợi ích tư nhân của việc học luôn nhỏ hơn lợi ích xã hội do tồn tại lợi ích
ngoại tác của việc đi học.
Lợi ích tư nhân là lợi ích của bản thân sinh viên sau khi học, sinh viên được
trang bị kiến thức và kỹ năng làm việc, có khả năng tìm được việc làm tốt hơn
và có thu nhập cao hơn, không chỉ một hai năm mà lợi ích cho cả cuộc đời
còn lại. Do đo, cá nhân người đi học phải đầu tư.
Tuy nhiên, lợi ích xã hội của giáo dục là rất lớn, bao gồm lợi ích tư nhân và
lợi ích ngoại tác. Lợi ích ngoại tác có nghĩa l à người đi học đem lợi ích cho
người khác và xã hội. Học tập sẽ giảm bớt tệ nạn xã hội, dễ dàng hơn cho nhà
nước trong việc phổ biến và thực hiện các chính sách kinh tế văn hóa v à xã
hội. Hơn nữa, các doanh nghiệp và cơ quan tuyển dụng cũng có lợi nhuận
30
trong viêc học của các cá nhân. Khi sinh viên học xong và làm việc trong các
doanh nghiệp, doanh nghiệp phải trả lương cho sinh viên tốt nghiệp, nhưng
mức lương bao giờ cũng thấp hơn năng suất lao động mà sinh viên đem lại
cho doanh nghiệp, sự chênh lệch đó là lợi nhuận mà doanh nghiệp có được do
việc học của sinh viên. Như vậy, tồn tại lợi ích ngoại tác mà người đi học
không nhận được, nên người đi học không đầu từ đúng mức cho việc đi học v ì
họ quyết định đầu tư cho việc học phụ thuộc vào sự so sánh giữa chi phí tư
nhân và lợi ích tư nhân thay vì lợi ích xã hội, họ không quan tâm đến lợi ích
xã hội.
Người có thu nhập thấp không có khả năng tiếp cận giáo dục
Vì chi phí cho việc học khá cao và đầu tư cho việc học là đầu tư lâu dài, thời
gian học đại học trung bình là 4 năm, trong thời gian đi học chỉ có chi không
có thu, do đó những gia đình có thu nhập thấp sẽ gặp nhiều khó khăn trong
việc tiếp cận giáo dục . Nếu tất cả các trường học theo cơ chế thị trường, học
phí bù đắp đầy đủ chi phí giáo dục của trường thì việc hỗ trợ cho người nghèo
đi học là rất cần thiết.
Một thực tế phổ biến ở Việt Nam là người có trình độ cử nhân không thu
được kiến thức chuyên sâu về một lĩnh vực nhất định. Tấm bằng Cử nhân
được thiết kế nhằm mục đích cung cấp cho sinh vi ên một kiến thức trên diện
rộng. Sinh viên được cung cấp một nền tảng kiến thức rộng, những kỹ năng
chung chứ không chỉ là đào tạo chuyên sâu cho một ngành nghề duy nhất.
Sinh viên phải đáp ứng những yêu cầu của một chương trình giảng dạy diện
rộng. Họ phải học ngoại ngữ (tiếng Anh), tin học v à các môn khoa học đa
dạng khác.
Nếu sinh viên chọn đi sâu vào một chuyên ngành trong một lĩnh vực cụ thể để
gây dựng sự nghiệp của mình trong lĩnh vực này thì họ cũng thường theo đuổi
một nghề KHÔNG có liên quan gì đến chuyên ngành của mình.
31
Tuy nhiên, những người tốt nghiệp đại học gặt hái được nhiều điều quan
trọng trong quá trình học tập của mình.
Họ đã theo học nhiều môn học khác nhau, cả những môn họ không
thích lẫn những môn thu hút họ. Nói theo lối nói Kinh tế, họ đ ã thu
thập được thông tin đủ để tạo ra một sự kết hợp tối ưu (optimal match)
giữa bản thân họ và nghề nghiệp mà họ lựa chọn.
Họ đã học được phương pháp tự học. Điều này là rất quan trọng trong
xã hội hiện đại khi mà chúng ta đang chú trọng vào quá trình học tập
suốt đời.
Khoảng 50% số sinh viên có bằng đại học sẽ tiếp tục theo học chương
trình học chính thức - những chương trình đạo tạo chuyên sâu để bổ
sung cho những kỹ năng tổng quát mà họ có: chương trình sau đại học,
học chuyên về luật, thậm chí là chuyên về kỹ thuật, ngoại ngữ.
Tất cả những sinh viên ra trường đi làm cũng sẽ có cơ hội được đào tạo
tại chỗ ở các công ty mà họ đang làm việc. Trung bình trong cuộc đời
mỗi người, thời gian dành cho hình thức đào tạo này tương đương với
khoảng 3,5 năm theo học chính thức toàn thời gian.
Sở dĩ họ có thể làm được như vậy vì chương trình đào tạo đại học đã trang bị
cho họ một nền tảng kiến thức chung vững chắc và các kỹ năng làm việc:
Họ được học cách đọc tài liệu và hiểu những gì họ đọc.
Họ được học cách phân tích và đánh giá tài liệu.
Họ được học cách giải quyết những vấn đề gặp phải.
Họ được học làm cách nào để triển khai một công việc.
Họ được học cách giao tiếp: cách lắng nghe, cách viết lách v à cách
diễn thuyết.
Khoản tích lũy nhất định về vốn con người.
Một tín hiệu về khả năng của m ình.
Tích lũy thông tin về bản thân, về kỹ năng cũng nh ư sở thích của bản
thân.
32
Tuy nhiên trong 5 tiêu chí quan trọng của kiến thức nền: đọc, phân tích, triển
khai, giải quyết, và giao tiếp; phần đông sinh viên Việt Nam được đào tạo tại
Việt Nam chỉ học được có điều một là đọc (có thể đọc bài bằng tiếng Việt hay
ngoại ngữ), mà chưa biết phân tích xem tài liệu mình đọc là đúng hay sai; nếu
đúng thì mình dùng tài liệu đó vào công việc và đời sống cá nhân như thế nào
để giải quyết việc làm trước mắt. Môi trường học cũng chưa cho phép sinh
viên giao thiệp rộng và trải nghiệm cuộc sống.
2.2. Mức học phí của các trường đại học
Hệ thống giáo dục ở Việt Nam được chia thành 2 nhóm: các trường khối công
lập được nhà nước cấp một phần kinh phí để hoạt động v à các trường khối
ngoài công lập hoạt động theo nguyên tắc tự thu, tự chi. Vì vậy, nghiên cứu
này điều tra mức học phí của các trường theo 2 nhóm chính: các trường khối
công lập và các trường khối ngoài công lập.
2.2.1 Đối với các trường công lập
Theo lộ trình điều chỉnh mức học phí trong giai đoạn 2008 – 2012, mức học
phí phụ thuộc vào các ngành đào tạo khác nhau. Ở bậc đại học, mức học phí
mới được áp dụng với 7 nhóm ngành học, được tính theo từng bậc học và loại
hình đào tạo8.
Nhóm ngành Y dược có mức học phí cao nhất là 800.000 đồng/tháng/SV.
Học phí của các nhóm ngành còn lại dao động từ 230.000-650.000
đồng/tháng/sinh viên.
Riêng SV ngành sư phạm sẽ đóng mức học phí từ 200 .000-500.000 đồng.
Trong trường hợp SV sư phạm vay vốn tín dụng để đóng học phí, sau khi ra
trường, nếu đi dạy học ít nhất 5 năm (đối với Đại học, Cao đẳng) v à 3 năm
(đối với Trung cấp chuyên nghiệp) thì nhà nước sẽ xoá nợ (cả gốc lẫn lãi).
8 - Cập nhật lúc 15:08, Thứ Ba, 05/05/20 09
33
Với các ngành đào tạo không chính quy, họ...