Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết nối
Nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2007 đến nay
I. Tình hình kinh tế
1) Tình hình kinh tế thế giới
Năm 2007, nền kinh tế thế giới bắt đầu có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại. Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng phát bắt nguồn từ cú vỡ bong bóng nhà đất tại Mỹ và lan ra các nền kinh tế lớn, nhỏ trên toàn cầu. Cuộc khủng hoảng đã làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tiền tệ của các ngân hàng hàng đầu thế giới và dẫn đến sự phá sản của hàng loạt định chế tài chính khổng lồ. Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 cũng chứng kiến các cơn sốt dầu, lương thực và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát tại các quốc gia tăng cao. Những tháng đầu năm 2009 là thời kỳ suy thoái sâu nhất kể từ Đại suy thoái 1929-1933. Nhờ có các biện pháp cứu trợ kinh tế được thực hiện từ cuối năm 2008, từ quý II/2009 kinh tế thế giới đã dần phục hồi, đến năm 2010 đạt mức tăng trưởng khoảng 5% cao hơn kỳ vọng tuy nhiên vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Năm 2011, châu Âu bất đắc dĩ trở thành tâm điểm của cả thế giới khi cuộc khủng hoảng nợ công tại Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) biến thành cơn “bạo bệnh” đe dọa xóa sổ mọi thành quả khối này đạt được trong 1 thập kỷ qua. Bên cạnh đó, nền kinh tế Mỹ cũng hết sức èo uột khi tốc độ tăng trưởng thấp, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, xếp hạng tín dụng lần đầu tiên bị hạ bậc sau 70 năm. Năm 2011 kết thúc trong bối cảnh kinh tế châu Âu đứng bên bờ vực thẳm, kinh tế Mỹ le lói phục hồi và một số nước trong khối Các nền kinh tế mới nổi (BRICS) như Braxin, Nga cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái thì tốc độ tăng trưởng của khu vực châu Á, nhất là khu vực Đông Á, được xem là những điểm sáng hiếm hoi trong bức tranh nền kinh tế đầy u ám của thế giới. Năm 2012, châu Âu tiếp tục đối mặt với những thách thức lớn khi các khoản nợ lớn của các nước như Bồ Đào Nha, Italia, Ailen , Hy lạp và Tây Ban Nha đến kỳ đáo hạn. Kinh tế châu Á tăng trưởng chậm lại, châu Âu, châu Mỹ vẫn xấu đi từng ngày.
Tình hình kinh tế thế giới giai đoạn 2007-2012 đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và hậu quả nặng nề của nó khiến kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Giá cả hàng hóa dịch vụ leo thang, sản xuất đình trệ kéo theo sự gia tăng về tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát tăng cao, châu Âu rơi vào khủng hoảng nợ công tồi tệ trong khi các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật cũng phải đối mặt với không ít khó khăn.
2) Tình hình kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế nước ta những năm gần đây diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp nên cũng khó mà tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực. Những yếu tố trong nước cũng không mấy khả quan khi mà thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư. Điểm qua một số sự kiện nổi bật qua các năm từ 2007-2012:
Năm 2007: Là một năm quan trọng đánh dấu sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, đây là một cơ hội lớn và cũng là thách thức không nhỏ đối với nước ta trên con đường hội nhập kinh tế thế giới.
Năm 2008: Không nằm ngoài ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, giá xăng dầu, các nguyên liệu đầu vào và hàng hóa tiêu dùng nhập khẩu tăng vọt vào đầu năm, đến giữa năm thì có xu hướng giảm. Thị trường chứng khoán liên tục tuột dốc, nhiều công ty chứng khoán tuyên bố phá sản, thâm hụt cán cân thương mại đạt mức cao.
Năm 2009: Các hoạt động sản suất, thương mại, dịch vụ, xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, sản xuất đình trệ, thị trường ngoại tệ căng thẳng, giá vàng tăng chóng mặt. Tuy nhiên Việt Nam vẫn là một trong số ít quốc gia đạt được mức tăng trưởng kinh tế dương.
Năm 2010: Tăng trưởng kinh tế khả quan, sản xuất công nghiệp hồi phục ấn tượng. Tuy nhiên, áp lực lạm phát gia tăng gây bất ổn cho nền kinh tế.
Năm 2011: Tăng trưởng GDP ở mức thấp, lạm phát vẫn còn ở mức cao, sản xuất trì trệ.
Năm 2012: Nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến tốt, tăng trưởng có phần ổn định trở lại, lạm phát bắt đầu được kiềm chế.
9 tháng đầu năm 2013: Tăng trưởng khả quan dù vẫn chưa ở mức kì vọng, sản xuất phục hồi đáng kể nhưng vẫn còn chậm, lạm phát đã được kiểm soát ở mức thấp.
II. Nghiệp vụ thị trường mở từ năm 2007 đến nay
1) Giai đoạn năm 2007
Năm 2007 là năm thứ 2 cả nước phấn khởi triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10, cũng là năm nước ta chính thức trở thành thành viên của WTO, mở ra nhiều cơ hội mới. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất của NHNN năm 2007 đó là nhập siêu ở mức cao làm tăng thâm hụt cán cân vãng lai; lạm phát có xu hướng tăng mạnh trong bối cảnh kinh tế và thị trường tài chính quốc tế có nhiều biến động khó lường gây sức ép đối với điều hành tỷ giá và việc kiểm soát tổng phương tiện thanh toán và tín dụng.
Trong bối cảnh đó, nghiệp vụ thị trường mở trở thành một trong những công cụ chủ yếu để điều tiết cung tiền nhằm đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2007, nghiệp vụ thị trường mở đã có những đổi mới như cố định phiên mua nhằm khắc phục hạn chế của thị trường tiền tệ, thay đổi cách đấu thầu nhằm bám sát mục tiêu điều hành CSTT và diễn biến vốn bằng VND của các TCTD. Cũng trong năm này, đã có 20 thành viên tham gia OMO, gồm các NHTM nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tăng 20% so với năm trước, góp phần tăng khả năng điều tiết của nghiệp vụ này.
Nhằm kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường, thực hiện mục tiêu thu hút tiền về qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã thực hiện một số biện pháp cần thiết:
- Tăng số phiên giao dịch tử 3 phiên/1 tuần lên thực hiện giao dịch nghiệp vụ thị trường mở hàng ngày.
- Tăng khối lượng tín phiếu NHNN bán ra, đa dạng hóa các kỳ hạn tín phiếu NHNN bán ra từ 14 ngày đến 364 ngày.
- Xác định mức lãi suất hợp lý để rút tiền từ lưu thông về qua kênh giao dịch này. Lãi suất trúng thầu bình quân trong các phiên chào bán là 4,35%/năm.
- Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện định kỳ hàng tuần 1 phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 14 ngày, nhằm phát tín hiệu sẵn sàng hỗ trợ vốn cho các NHTM thực sự thiếu hụt vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán. Lãi suất chào mua bình quân khoảng 8,2%/năm.
3) Giai đoạn năm 2008
Năm 2008, nền kinh tế thế giới trải qua nhiều sự kiện phức tạp, khó lường xuất phát từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, trong nước kinh tế tăng trưởng chậm lại. Trước tình hình đó, NHNN điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt. Nghiệp vụ thị trường mở trở thành công cụ cần thiết trong giải pháp thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong năm này, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các công cụ chính sách tiền tệ khác để điều tiết vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng ở mức hợp lý, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện hàng ngày, chủ yếu được thực hiện theo cách đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất nhằm ổn định thị trường.
Trong 7 tháng đầu năm 2008, cùng với việc thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản nhằm góp phần kiềm chế lạm phát, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN kỳ hạn 182 và 364 ngày; lãi suất phổ biến đối với kỳ hạn 182 là 7,5%/năm, kỳ hạn 364 là 7,75%/năm. Đồng thời, để hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng và khắc phục tình trạng thị trường tiền tệ chưa thực sự thông suốt, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14, 21, 28 ngày), khối lượng chào mua hàng ngày được xác định trên cơ sở nhu cầu vốn thanh toán và diễn biến thị trường tiền tệ. Việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở nêu trên đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, nhất là các thời điểm thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các mức lãi suất NHNN công bố.
Từ tháng 8/2008, trước tín hiệu khả quan về kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính và ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế. Tuy vậy, không giống như các công cụ khác, OMO vẫn được sử dụng khá triệt để. Để ổn định tâm lý thị trường và hỗ trợ các NHTM thật sự khó khăn về vốn, NHNN tiếp tục thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá kỳ hạn 7-14 ngày với khối lượng và lãi suất hợp lý, phù hợp với việc điều chỉnh lãi suất cơ bản và các loại lãi suất do NHNN công bố. Trong dịp giáp Tết, nghiệp vụ thị trường mở trở thành kênh hỗ trợ vốn chủ yếu cho các tổ chức tín dụng, góp phần duy trì ổn định tiền tệ.
4) Giai đoạn năm 2009
Năm 2009, NHNN điều hành CSTT theo hướng nới lỏng thận trọng, hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng tín dụng hiệu quả góp phần thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ đã nhấn mạnh về việc ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kích cầu đầu tư, tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu, chủ động phòng ngừa lạm phát và đảm bảo an toàn hệ thống.
Cùng với định hướng chung, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, bám sát diễn biến cung – cầu vốn của các TCTD. Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện hàng ngày, chủ yếu là các giao dịch mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14 ngày); cách đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất và khối lượng nhằm ổn định thị trường; lãi suất được điều chỉnh theo mục tiêu điều hành và phát tín hiệu điều hành của NHNN; khối lượng chào mua phù hợp với mục tiêu điều tiết linh hoạt vốn khả dụng, hỗ trợ thanh khoản, đảm bảo khả năng thanh toán.
Nửa đầu năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạn 14 ngày, lãi suất giảm dần từ 9%/năm xuống 7%/năm để cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu, nhu cầu vốn của nền kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn có dư thừa nên nhu cầu tham gia các phiên chào mua nghiệp vụ thị trường mở không cao với doanh số trúng thầu chỉ đạt 74% so với lượng tiền chào mua của NHNN. Khối lượng trúng thầu bình quân mỗi phiên đạt khoảng 1.000 tỷ đồng/phiên.
Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD có xu hướng tăng cao theo các chương trình kích cầu của Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng trúng thầu bình quân các phiên chào mua tăng mạnh, đạt 95% khối lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6.000 tỷ đồng/phiên, gấp 6 lần so với mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong nửa đầu tháng 12, NHNN đã chào mua qua kênh nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng bình quân xấp xỉ 15.000 tỷ đồng/phiên để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD do nhu cầu thanh toán tăng cao trong dịp Tết dương lịch. Kỳ hạn chào mua được thực hiện linh hoạt 7 ngày và 14 ngày với lãi suất chào mua tương ứng là 7%/năm và 7-8%/năm. Đồng thời, để chủ động kiểm soát lạm phát và điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD trong hệ thống, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN với định kỳ 3 phiên/tuần, kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng; cách đấu thầu lãi suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68 phiên đấu thầu bán tín phiếu NHNN chỉ có 2 phiên bán trúng thầu với doanh số đạt 102 tỷ đồng.
Cùng với việc điều hành linh hoạt và thận trọng các công cụ CSTT khác, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn thanh toán cho hệ thống các TCTD; đồng thời, lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng có xu hướng xoay quanh lãi suất chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở.
5) Giai đoạn năm 2010
Năm 2010, NHNN điều hành chính sách tiền tệ chủ động, thận trọng và linh hoạt theo nguyên tắc thị trường nhằm ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo khả năng thanh toán của từng tổ chức tín dụng và cả hệ thống ngân hàng.
Trong năm này, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, bám sát diễn biến cung cầu vốn trên thị trường, góp phần ổn định lãi suất thị trường: Hằng ngày, NHNN thực hiện giao dịch chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14, 28 ngày) chủ yếu để hỗ trợ vốn thanh toán VND cho các tổ chức tín dụng, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đồng thời hỗ trợ các tổ chức tín dụng giảm mặt bằng lãi suất huy động vốn theo chỉ đạo của Chính phủ và kiểm soát tiền tệ chặt chẽ trong những tháng cuối năm 2010 trước áp lực lạm phát tăng cao trở lại.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2007 đến nay
I. Tình hình kinh tế
1) Tình hình kinh tế thế giới
Năm 2007, nền kinh tế thế giới bắt đầu có dấu hiệu tăng trưởng chậm lại. Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng phát bắt nguồn từ cú vỡ bong bóng nhà đất tại Mỹ và lan ra các nền kinh tế lớn, nhỏ trên toàn cầu. Cuộc khủng hoảng đã làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tiền tệ của các ngân hàng hàng đầu thế giới và dẫn đến sự phá sản của hàng loạt định chế tài chính khổng lồ. Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 cũng chứng kiến các cơn sốt dầu, lương thực và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát tại các quốc gia tăng cao. Những tháng đầu năm 2009 là thời kỳ suy thoái sâu nhất kể từ Đại suy thoái 1929-1933. Nhờ có các biện pháp cứu trợ kinh tế được thực hiện từ cuối năm 2008, từ quý II/2009 kinh tế thế giới đã dần phục hồi, đến năm 2010 đạt mức tăng trưởng khoảng 5% cao hơn kỳ vọng tuy nhiên vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Năm 2011, châu Âu bất đắc dĩ trở thành tâm điểm của cả thế giới khi cuộc khủng hoảng nợ công tại Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) biến thành cơn “bạo bệnh” đe dọa xóa sổ mọi thành quả khối này đạt được trong 1 thập kỷ qua. Bên cạnh đó, nền kinh tế Mỹ cũng hết sức èo uột khi tốc độ tăng trưởng thấp, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, xếp hạng tín dụng lần đầu tiên bị hạ bậc sau 70 năm. Năm 2011 kết thúc trong bối cảnh kinh tế châu Âu đứng bên bờ vực thẳm, kinh tế Mỹ le lói phục hồi và một số nước trong khối Các nền kinh tế mới nổi (BRICS) như Braxin, Nga cũng phải đối mặt với nguy cơ suy thoái thì tốc độ tăng trưởng của khu vực châu Á, nhất là khu vực Đông Á, được xem là những điểm sáng hiếm hoi trong bức tranh nền kinh tế đầy u ám của thế giới. Năm 2012, châu Âu tiếp tục đối mặt với những thách thức lớn khi các khoản nợ lớn của các nước như Bồ Đào Nha, Italia, Ailen , Hy lạp và Tây Ban Nha đến kỳ đáo hạn. Kinh tế châu Á tăng trưởng chậm lại, châu Âu, châu Mỹ vẫn xấu đi từng ngày.
Tình hình kinh tế thế giới giai đoạn 2007-2012 đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới và hậu quả nặng nề của nó khiến kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái. Giá cả hàng hóa dịch vụ leo thang, sản xuất đình trệ kéo theo sự gia tăng về tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát tăng cao, châu Âu rơi vào khủng hoảng nợ công tồi tệ trong khi các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật cũng phải đối mặt với không ít khó khăn.
2) Tình hình kinh tế Việt Nam
Nền kinh tế nước ta những năm gần đây diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp nên cũng khó mà tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực. Những yếu tố trong nước cũng không mấy khả quan khi mà thiên tai dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư. Điểm qua một số sự kiện nổi bật qua các năm từ 2007-2012:
Năm 2007: Là một năm quan trọng đánh dấu sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, đây là một cơ hội lớn và cũng là thách thức không nhỏ đối với nước ta trên con đường hội nhập kinh tế thế giới.
Năm 2008: Không nằm ngoài ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, giá xăng dầu, các nguyên liệu đầu vào và hàng hóa tiêu dùng nhập khẩu tăng vọt vào đầu năm, đến giữa năm thì có xu hướng giảm. Thị trường chứng khoán liên tục tuột dốc, nhiều công ty chứng khoán tuyên bố phá sản, thâm hụt cán cân thương mại đạt mức cao.
Năm 2009: Các hoạt động sản suất, thương mại, dịch vụ, xuất khẩu gặp nhiều khó khăn, sản xuất đình trệ, thị trường ngoại tệ căng thẳng, giá vàng tăng chóng mặt. Tuy nhiên Việt Nam vẫn là một trong số ít quốc gia đạt được mức tăng trưởng kinh tế dương.
Năm 2010: Tăng trưởng kinh tế khả quan, sản xuất công nghiệp hồi phục ấn tượng. Tuy nhiên, áp lực lạm phát gia tăng gây bất ổn cho nền kinh tế.
Năm 2011: Tăng trưởng GDP ở mức thấp, lạm phát vẫn còn ở mức cao, sản xuất trì trệ.
Năm 2012: Nền kinh tế Việt Nam có nhiều chuyển biến tốt, tăng trưởng có phần ổn định trở lại, lạm phát bắt đầu được kiềm chế.
9 tháng đầu năm 2013: Tăng trưởng khả quan dù vẫn chưa ở mức kì vọng, sản xuất phục hồi đáng kể nhưng vẫn còn chậm, lạm phát đã được kiểm soát ở mức thấp.
II. Nghiệp vụ thị trường mở từ năm 2007 đến nay
1) Giai đoạn năm 2007
Năm 2007 là năm thứ 2 cả nước phấn khởi triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10, cũng là năm nước ta chính thức trở thành thành viên của WTO, mở ra nhiều cơ hội mới. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất của NHNN năm 2007 đó là nhập siêu ở mức cao làm tăng thâm hụt cán cân vãng lai; lạm phát có xu hướng tăng mạnh trong bối cảnh kinh tế và thị trường tài chính quốc tế có nhiều biến động khó lường gây sức ép đối với điều hành tỷ giá và việc kiểm soát tổng phương tiện thanh toán và tín dụng.
Trong bối cảnh đó, nghiệp vụ thị trường mở trở thành một trong những công cụ chủ yếu để điều tiết cung tiền nhằm đảm bảo ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong năm 2007, nghiệp vụ thị trường mở đã có những đổi mới như cố định phiên mua nhằm khắc phục hạn chế của thị trường tiền tệ, thay đổi cách đấu thầu nhằm bám sát mục tiêu điều hành CSTT và diễn biến vốn bằng VND của các TCTD. Cũng trong năm này, đã có 20 thành viên tham gia OMO, gồm các NHTM nhà nước, các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tăng 20% so với năm trước, góp phần tăng khả năng điều tiết của nghiệp vụ này.
Nhằm kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường, thực hiện mục tiêu thu hút tiền về qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã thực hiện một số biện pháp cần thiết:
- Tăng số phiên giao dịch tử 3 phiên/1 tuần lên thực hiện giao dịch nghiệp vụ thị trường mở hàng ngày.
- Tăng khối lượng tín phiếu NHNN bán ra, đa dạng hóa các kỳ hạn tín phiếu NHNN bán ra từ 14 ngày đến 364 ngày.
- Xác định mức lãi suất hợp lý để rút tiền từ lưu thông về qua kênh giao dịch này. Lãi suất trúng thầu bình quân trong các phiên chào bán là 4,35%/năm.
- Bên cạnh đó, NHNN đã thực hiện định kỳ hàng tuần 1 phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 14 ngày, nhằm phát tín hiệu sẵn sàng hỗ trợ vốn cho các NHTM thực sự thiếu hụt vốn nhằm đảm bảo khả năng thanh toán. Lãi suất chào mua bình quân khoảng 8,2%/năm.
3) Giai đoạn năm 2008
Năm 2008, nền kinh tế thế giới trải qua nhiều sự kiện phức tạp, khó lường xuất phát từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, trong nước kinh tế tăng trưởng chậm lại. Trước tình hình đó, NHNN điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt. Nghiệp vụ thị trường mở trở thành công cụ cần thiết trong giải pháp thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong năm này, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các công cụ chính sách tiền tệ khác để điều tiết vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng ở mức hợp lý, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện hàng ngày, chủ yếu được thực hiện theo cách đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất nhằm ổn định thị trường.
Trong 7 tháng đầu năm 2008, cùng với việc thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản nhằm góp phần kiềm chế lạm phát, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN kỳ hạn 182 và 364 ngày; lãi suất phổ biến đối với kỳ hạn 182 là 7,5%/năm, kỳ hạn 364 là 7,75%/năm. Đồng thời, để hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng và khắc phục tình trạng thị trường tiền tệ chưa thực sự thông suốt, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14, 21, 28 ngày), khối lượng chào mua hàng ngày được xác định trên cơ sở nhu cầu vốn thanh toán và diễn biến thị trường tiền tệ. Việc điều hành nghiệp vụ thị trường mở nêu trên đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, nhất là các thời điểm thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, các mức lãi suất NHNN công bố.
Từ tháng 8/2008, trước tín hiệu khả quan về kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hạn chế tác động của khủng hoảng tài chính và ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế. Tuy vậy, không giống như các công cụ khác, OMO vẫn được sử dụng khá triệt để. Để ổn định tâm lý thị trường và hỗ trợ các NHTM thật sự khó khăn về vốn, NHNN tiếp tục thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá kỳ hạn 7-14 ngày với khối lượng và lãi suất hợp lý, phù hợp với việc điều chỉnh lãi suất cơ bản và các loại lãi suất do NHNN công bố. Trong dịp giáp Tết, nghiệp vụ thị trường mở trở thành kênh hỗ trợ vốn chủ yếu cho các tổ chức tín dụng, góp phần duy trì ổn định tiền tệ.
4) Giai đoạn năm 2009
Năm 2009, NHNN điều hành CSTT theo hướng nới lỏng thận trọng, hỗ trợ thanh khoản, tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng tín dụng hiệu quả góp phần thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ đã nhấn mạnh về việc ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, kích cầu đầu tư, tiêu dùng, đẩy mạnh xuất khẩu, chủ động phòng ngừa lạm phát và đảm bảo an toàn hệ thống.
Cùng với định hướng chung, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, bám sát diễn biến cung – cầu vốn của các TCTD. Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện hàng ngày, chủ yếu là các giao dịch mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14 ngày); cách đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất và khối lượng nhằm ổn định thị trường; lãi suất được điều chỉnh theo mục tiêu điều hành và phát tín hiệu điều hành của NHNN; khối lượng chào mua phù hợp với mục tiêu điều tiết linh hoạt vốn khả dụng, hỗ trợ thanh khoản, đảm bảo khả năng thanh toán.
Nửa đầu năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạn 14 ngày, lãi suất giảm dần từ 9%/năm xuống 7%/năm để cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu, nhu cầu vốn của nền kinh tế chưa cao, nguồn vốn của các TCTD vẫn có dư thừa nên nhu cầu tham gia các phiên chào mua nghiệp vụ thị trường mở không cao với doanh số trúng thầu chỉ đạt 74% so với lượng tiền chào mua của NHNN. Khối lượng trúng thầu bình quân mỗi phiên đạt khoảng 1.000 tỷ đồng/phiên.
Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD có xu hướng tăng cao theo các chương trình kích cầu của Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng trúng thầu bình quân các phiên chào mua tăng mạnh, đạt 95% khối lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6.000 tỷ đồng/phiên, gấp 6 lần so với mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong nửa đầu tháng 12, NHNN đã chào mua qua kênh nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng bình quân xấp xỉ 15.000 tỷ đồng/phiên để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD do nhu cầu thanh toán tăng cao trong dịp Tết dương lịch. Kỳ hạn chào mua được thực hiện linh hoạt 7 ngày và 14 ngày với lãi suất chào mua tương ứng là 7%/năm và 7-8%/năm. Đồng thời, để chủ động kiểm soát lạm phát và điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD trong hệ thống, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN với định kỳ 3 phiên/tuần, kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng; cách đấu thầu lãi suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68 phiên đấu thầu bán tín phiếu NHNN chỉ có 2 phiên bán trúng thầu với doanh số đạt 102 tỷ đồng.
Cùng với việc điều hành linh hoạt và thận trọng các công cụ CSTT khác, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn thanh toán cho hệ thống các TCTD; đồng thời, lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng có xu hướng xoay quanh lãi suất chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở.
5) Giai đoạn năm 2010
Năm 2010, NHNN điều hành chính sách tiền tệ chủ động, thận trọng và linh hoạt theo nguyên tắc thị trường nhằm ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo khả năng thanh toán của từng tổ chức tín dụng và cả hệ thống ngân hàng.
Trong năm này, nghiệp vụ thị trường mở được điều hành linh hoạt, bám sát diễn biến cung cầu vốn trên thị trường, góp phần ổn định lãi suất thị trường: Hằng ngày, NHNN thực hiện giao dịch chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14, 28 ngày) chủ yếu để hỗ trợ vốn thanh toán VND cho các tổ chức tín dụng, góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đồng thời hỗ trợ các tổ chức tín dụng giảm mặt bằng lãi suất huy động vốn theo chỉ đạo của Chính phủ và kiểm soát tiền tệ chặt chẽ trong những tháng cuối năm 2010 trước áp lực lạm phát tăng cao trở lại.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links