lanhgia007

New Member
Trong văn hóa Việt cổ, tục thờ Mẫu vốn mang gốc từ tín ngưỡng phồn thực, là sự cầu mong sinh sôi nảy nở của tự nhiên và con người. Hạt nhân thờ Mẫu là tục thờ đa thần, do lối sống của cư dân trồng lúa, phụ thuộc môi trường tự nhiên, dẫn đến tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, "thần hóa" các hiện tượng: đất, nước, lửa, cây, mây, mưa, sấm, chớp... thành những vị thần, mà nữ thần chiếm địa vị áp đảo (theo sách "Các nữ thần Việt Nam", có tới 75 nữ thần Việt). Và nữ thần phải là các bà mẹ, các mẫu, không phải gái đồng trinh. Sau đó, từ tên cổ: bà Trời, bà Đất, bà Lửa do ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, mà có tên: bà Thiên, bàn Địa, bà Thủy, bà Hỏa. Bộ ba bà quản ba vùng Trời-Đất-Nước thành: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải (đọc chệch từ chữ Thủy)...



Sống để lưu phúc cho con cháu



Tục thờ Mẫu mang căn cơ văn hóa thờ phụng Việt cổ và di truyền theo chiều ngang không gian, của nhà - làng - nước và theo chiều dọc huyết thống gia tộc, từ ngàn đời trong cấu trúc xã hội nông nghề Việt. Theo Đào Duy Anh, sách "Việt Nam văn hóa sử cương" xuất bản từ năm 1938, trong thiên Tổng luận, khi truy tìm được 5 đặc tính hay là đặc sắc của văn hóa Việt, ông phân tích rõ: một trong đó là quan niệm sống của người Việt, "chỉ trông cậy vào con cháu để lưu truyền nòi tương tự và tiếp nối sự nghề của tổ tiên", nên vừa cho cái sống là "chỉ cốt lưu chút phúc ấm cho con cháu về sau".

Điển hình là người mẹ Việt, người vừa làm "phổ thông" quan niệm ấy trong lối sống của xã hội nông nghiệp. Và đó cũng là kết quả làm nên đặc tính thứ nhất của văn hóa nông nghề Việt, ấy là xã hội vừa lấy "gia tộc làm cơ sở", cho nên "gia tộc chủ nghĩa vẫn là nguyên tố trọng yếu của xã hội". Đây cũng là đặc tính khởi nguyên của văn hóa Việt, theo Đào Duy Anh.

Sự liên quan hữu lý này khiến ông Đào Duy Anh nêu ví dụ: "ở trong lịch sử, cũng như trong truyện ký, tiểu thuyết hay hí khúc, thường thấy trong một gia đình, người gia trưởng hay cả nhà bị hại chỉ còn sót lại được một chú con trai duy phúc là cục máu sót của gia tộc, người mẹ hay bạn hữu phải nương náu ở tha phương mà chịu trăm cay ngàn đắng, nuôi nấng cho thành người để mong vãn hồi gia tộc.

Ở những cảnh huống nước mất nhà tan, chính nhờ những quan niệm ấy mà hy vọng của người ta còn hăng hái mà khôi phục được cơ nghiệp. Ta có thể nói rằng trải qua những bước gian truân thảm họa, mà chủng tộc vẫn sống còn là nhờ cái nhân sinh quân ấy một phần lớn vậy". Vậy người mẹ Việt để phúc đức lại cho con bằng cách nào?





Bằng cách trong đời làm chi chít chuyện thiện cứu người, không tính toán vụ lợi, thương người như thể thương thân. Như cách xử thế của nhân vật mẹ Tứ trong "Vợ nhặt" - truyện ngắn kinh điển của nhà văn Kim Lân. Nhân vật con trai bà trong nạn đói năm 1945, vừa chỉ mới vài tấm bánh đúc cứu đói mà được một cô vợ theo không về nhà. Ấy vậy mà mẹ anh chỉ có một bề thương cảm, cùng con trai lo cuộc mừng con dâu món chè cám, hiu hắt cùng kiệt đói, và "cấy trồng" được giấc mơ phá kho thóc Nhật vào cuối truyện.



Mẹ Việt không chỉ thương con, mà thương cả dâu. Chẳng thế mà nữ sĩ Xuân Quỳnh viết bài thơ "Mẹ của anh" hàm ơn mẹ chồng vừa có công "sinh anh để bây giờ cho em". "Mẹ tuy không đẻ không nuôi, mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong". Biết ơn mẹ chồng, không để đâu cho hết trong thơ của Xuân Quỳnh, về một phương diện, đó là chuyện con dâu trả chữ hiếu cho mẹ chồng vừa cưu mang mình như mẹ ruột đẻ ra...



Bậc sinh thành nhận lại chữ hiếu?



Vẫn theo nghiên cứu của Đào Duy Anh, gia tộc Việt vừa được khẳng định là "bản vị" của xã hội Việt truyền thống. Trong gia tộc gia trưởng đứng đầu, có vị thế như nóc ngôi nhà, nên dân gian cho cái chuyện "con không cha như nhà không nóc". Vì thế học giả họ Đào: "trong một nhà, con em phải phục tùng gia trưởng và trọng giai cấp trưởng ấu, đạo hiếu làm mối đầu đạo đức. Mỗi nước cũng có một gia tộc lớn, cho nên điển lễ giao miếu là đại kinh của quốc gia, mà nhân dân phải phục từng quân chủ và trọng gia cấp tôn ti. Đạo đức dạy người ta phải trọng trung hiếu". Có lẽ bằng vào nghiên cứu này, ta thấy chữ hiếu của người Việt vừa thành quan niệm phổ thông trong xã hội, và kết dính keo sơn với hai chữ phúc-đức mà ông bà cha mẹ luôn muốn trao truyền cho con cháu.



Tuy nhiên, đặc tính thứ 5 theo Đào Duy Anh, là tính thương tồn (permanence), xét về phương diện văn hóa, lại là một thứ "tinh thần tồn cổ", coi "văn hóa đời xưa như thế nào thì đời này vẫn thế", vừa "vốn làm cho xã hội ta không tiến bộ được mau chóng như xã hội phương Tây". Tiên liệu của Đào Duy Anh cách nay hơn nửa thế kỷ về lối sống đương đại Việt vẫn còn nguyên giá trị nhận thức: xã hội Việt đã, đang và sẽ khẳng định "khuynh hướng từ gia đình bản vị, bước dần sang cá nhân bản vị". Chính điều này vừa khiến "cái nhân sinh quan "lưu ấm" là một đặc tính rất cảm động của văn hóa ta, ngày nay vừa suy theo gia tộc chủ nghĩa. Quan niệm của người đời nay thiết thực hơn, đối với con cái người ta (chỉ những phần tử giác ngộ) chăm lo nuôi nấng và dạy bảo để cho nó trở thành người chứ không tưởng gì đến điều "để phúc" cho con cháu". Ngày nay, sự mãn nguyện không nằm trong "lưu ấm", mà ở những cái "nhãn tiền" và "chỉ trông mong ở con cái bằng vào tư cách và tài năng của nó thôi". Và kéo theo là các cử chỉ bày tỏ chữ hiếu đối với bậc sinh thành cũng nhiều phần phai bạc trong ứng xử của thế hệ hậu sinh.



Chính những điều trông thấy ấy, khiến người Việt hôm nay, tìm về ứng xử truyền thống, với sự tri ân triết lý Việt "phúc đức tại Mẫu", khởi từ người mẹ Việt xa xưa vừa mang một giá trị thật nhân văn, thuần hậu, thuần phát: sống cốt là để lưu phúc cho con cháu.



Từ tục thờ Mẫu, thờ Mẹ, và từ ứng xử văn hóa căn cơ này, mà sinh thời, GS Trần Quốc Vượng vừa quy chiếu thành "nguyên lý Mẹ của nền văn hóa Việt Nam". Và trêm đường về ấy, nhất định cả hai thế hệ cha mẹ - con cái của xã hội Việt đương đại sẽ tìm thấy lại một phép ứng xử văn hóa KẾT hợp với sự phát triển của thế kỷ mới và phú cho nội dung của chữ Phúc, chữ Đức, chữ Hiếu những giá trị hiện đại, tân kỳ, đáng được đời này lưu giữ và phát huy...

___Sưu Tầm___

 

Các chủ đề có liên quan khác

Top