dieuanh_93

New Member

Download miễn phí Đề tài Những giải pháp nhằm phát huy hiệu quả của công cụ nghiệp vụ thị trường mở trong thời gian tới





LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ 3

I. Những vấn đề chung về chính sách tiền tệ 3

1/ Khái niệm 3

2/ Hệ thống các mục tiêu của chính sách tiền tệ 3

3/ Các công cụ của chính sách tiền tệ 5

II. Khái quát về nghiệp vụ thị trường mở 7

1/ Khái niệm và cơ chế tác động 7

2/ Các loại nghiệp vụ thị trường mở 8

3/ cách giao dịch trên thị trường mở 9

4/ Ưu nhược điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở 11

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ

 TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 13

I. Vài nét về nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam 13

1/ Khái niệm 13

2/ Điều kiện về thị trường tài chính 13

3/ Khuôn khổ pháp lý 16

4/ Về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ 16

II. Tình hình hoạt động thời gian qua 18

1/ Những kết quả bước đầu đạt được 18

2/ Một số tồn tại và hạn chế 20

CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY HIỆU QUẢ CỦA CÔNG CỤ

 NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG THỜI GIAN TỚI 24

1/ Tăng thêm số lượng thành viên tham gia vào thị trường 24

2/ Mở rộng hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở

cả về số lượng và chất lượng 25

3/ Đa dạng hoá các cách giao dịch 25

4/ Củng cố và thúc đẩy các mảng thị trường khác phát triển

để làm cơ sở cho hoạt động thị trường mở 26

5/ Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng kết hợp với nâng cao

trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng 27

KẾT LUẬN 29

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

 





Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.

Ketnooi -


Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí

Tóm tắt nội dung tài liệu:


ắt buộc, tự nó không phản ánh được toàn bộ dự trữ thực của hệ thống ngân hàng và do đó, khó kiểm soát được lượng tiền cung ứng. Hay như với nghiệp vụ chiết khấu, NHTW có thể sử dụng lãi suất chiết khấu để điều tiết hay khuyến khích các NHTM vay vốn nhưng trên thực tế, nó không thể trực tiếp kiểm soát được khối lượng chiết khấu.
Thứ hai: khi sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có thể chủ động can thiệp về khối lượng nhiều hay ít tuỳ ý, thời gian tuỳ từng trường hợp vào thời gian mà NHTW muốn điều chỉnh lượng tiền cung ứng. NHTW có thể quyết định mua bán chủng loại giấy tờ có giá nào nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đồng thời cũng có thể điều chỉnh cơ số tiền tệ tuỳ theo mức độ mong muốn thông qua việc mua bán một khối lượng giấy tờ có giá lớn hay nhỏ.
Thứ ba: công cụ nghiệp vụ thị trường mở có tính linh hoạt cao, bất kỳ lúc nào sự can thiệp của NHTW đều tác động đến lượng tiền Trung ương sau đó ảnh hưởng đến lãi suất. Với công cụ này, khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ, NHTW có thể lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy việc cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua trên thị trường mở quá nhiều thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở và ngược lại.
Thứ tư: nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ đầy quyền lực. Một khi, NHTW quyết định mua hay bán thì nó tìm mọi cách định giá và đặt ra các điều kiện để thu hút các NHTM tham gia tích cực đáp ứng được yêu cầu của NHTW. Ngoài ra, nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính.
Với những lợi thế hơn hẳn các công cụ khác nên sau khi ra đời, nghiệp vụ thị trường mở đã được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước phát triển. Tuy nhiên, nghiệp vụ thị trường mở còn có một số hạn chế. Nhược điểm lớn nhất của nghiệp vụ này là để công cụ này phát huy hiệu quả thì quốc gia đó phải có một thị trường tài chính phát triển, hàng hoá của thị trường là các giấy tờ có giá ngắn hạn phải phong phú và đa dạng. Không những thế, NHTW còn phải có khả năng dự báo được vốn khả dụng của toàn hệ thống để can thiệp mua bán, có như vậy việc can thiệp mới có ý nghĩa lớn trong việc tác động vào lượng tiền cung ứng. Ngoài ra, khi NHTW mua bán làm tác động đến lượng tiền Trung ương, từ đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Vì vậy, để tránh ảnh hưởng này, NHTW phải có các giải pháp xử lý phù hợp. Điều này đòi hỏi NHTW phải rất nhạy cảm và linh hoạt trong việc phối hợp các công cụ điều hành chính sách tiền tệ.
Chương II:
Thực trạng sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
I-/ Vài nét về nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam
1. Khái niệm
Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operations, viết tắt là OMO) được NHTW các quốc gia sử dụng như một công cụ gián tiếp trong việc điều hành chính sách tiền tệ, thông qua việc làm thay đổi vốn khả dụng (hay nói cách khác là dự trữ) của hệ thống ngân hàng. Từ đó gián tiếp làm thay đổi lượng tiền cơ bản theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở đã ra đời từ những năm đầu của thế kỷ hai mươi ở Mỹ và một số nước Châu Âu. Ngày nay, nó được NHTW ở hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng như một công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ.
ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở mới bắt đầu được vận hành vào ngày 12-7-2000. Đây là một bước chuyển khá quan trọng trong việc đổi mới quá trình điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam. Mặc dù mới được đưa vào hoạt động nhưng thực tế ngay trong Luật NHNN Việt Nam ra đời tháng 12/1997 đã có khái niệm về nghiệp vụ thị trường mở như sau: "Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mà NHNN thực hiện việc mua bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia".
2. Điều kiện về thị trường tài chính
Thị trường tài chính của nước ta vẫn còn nhỏ bé về quy mô, đơn sơ về chủng loại hàng hoá và lạc hậu về cơ sở vật chất kỹ thuật.
a/ Thị trường tín phiếu kho bạc
Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 6/1995, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc chính thức được khai trương và đi vào hoạt động. Từ đó đến cuối tháng 9/2000, Ban đấu thầu liên bộ NHNN - Bộ Tài chính đã tổ chức 39 đợt đấu thầu tín phiếu kho bạc (thời hạn < 1 năm). Tổng khối lượng tín phiếu là 4156,1 tỷ đồng.
Số lượng thành viên tham gia vào thị trường ngày càng phát triển. Tính đến nay, tổng số thành viên đã tăng lên gần 50 thành viên: trong đó có 5 NHTM quốc doanh, 20 NHTM cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng Trung ương… Việc các loại hình tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính tham gia vào thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN ngày một đông đảo chứng tỏ các nhà đầu tư và phát hành đã dần dần tìm được điểm cân bằng về lợi ích và thị trường này ngày càng trở nên hấp dẫn hơn.
Tuy nhiên, việc phát hành tín phiếu kho bạc vẫn còn những hạn chế. Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN đã được thành lập và hoạt động tương đối ổn định nhưng nội dung của nó còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu, cải tiến. Số thành viên tham gia vào thị trường đấu thầu vẫn chỉ là các NHTM quốc doanh và các công ty bảo hiểm Nhà nước quen thuộc. Các thành viên khác đã có đăng ký nhưng rất ít tham gia. Trong từng phiên đấu thầu còn quy định một loại kỳ hạn (364 ngày) và áp dụng cơ chế lãi suất trần. Cơ chế này, một mặt chưa được phát huy đầy đủ hiệu lực của pháp luật hiện hành (Luật NHNN Việt Nam cho phép tổ chức đấu thầu các loại tín phiếu và tín phiếu kho bạc), mặt khác chưa đáp ứng được nhu cầu huy động vốn của các công trình đầu tư bằng nguồn vốn của Ngân sách Nhà nước nhưng tạm thời Ngân sách Nhà nước chưa bố trí được.
b/ Thị trường trái phiếu Chính phủ
Năm 1991, trái phiếu Chính phủ ra đời để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Chính phủ (không thông qua kênh phát hành tiền của NHTW nữa). Đến 1994, khi trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc và trái phiếu công trình được phép phát hành rộng rãi thì thị trường trái phiếu Chính phủ mới tương đối được mở rộng. Trước năm 1995, trái phiếu Chính phủ phát hành trực tiếp đến công chúng tại các chi nhánh kho bạc nên khối lượng trái phiếu nhỏ: 17 tỷ đồng (trong cả giai đoạn 1991-1995). Từ tháng 6/1995, bắt đầu phát hành qua NHNN, lượng trái phiếu đã dồi dào hơn. Theo Quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ được ban hành kèm theo NĐ 01/2000/NĐ - CP ngày 13-1-2000 của Chính phủ thì trái phiếu Chính phủ được ban hành qua các kênh như: đấu thầu qua NHNN; phát hành thông qua thị trường chứng khoán, bán lẻ qua hệ thống kho bạc Nhà nước, đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành (đối với trái phiếu kho bạc và tín phiếu đầu tư)....

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Nghiên cứu những giải pháp nhằm tối ưu hóa chi phí logistics cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics Luận văn Kinh tế 0
D Những giải pháp khắc phục bội chi ngân sách nhà nước Việt Nam hiện nay Luận văn Kinh tế 0
D Những giải pháp thúc đẩy phát triển nghành du lịch Ninh Bình Văn hóa, Xã hội 0
D Tiêu chuẩn Công chứng Viên theo pháp Luật những hạn chế bất cập và giải pháp hoàn thiện Luận văn Luật 0
D Đánh giá thực trạng chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam trong thời gian qua và những giải pháp kiến nghị Văn hóa, Xã hội 0
D Những giải pháp nâng cao chất lượng múa hát tập thể cho học sinh tiểu học Luận văn Sư phạm 0
D Nghiên cứu xu thế phát triển, những tác động của công nghệ IoT (internet of things) và đề xuất giải pháp quản lý phù hợp Công nghệ thông tin 0
B Những giải pháp nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Quốc Tế chi nhánh Thanh Xuân Luận văn Kinh tế 2
D Thực trạng và những giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của xã Phú Sơn Luận văn Kinh tế 0
M Những giải pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân FDI của Nhật Bản tại Việt Nam Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top