shinwa_2970

New Member
Trong số các nhà thơ thế hệ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm là người rất thành công với giọng thơ trữ tình chính luận thể hiện rõ những tâm tư của thế hệ trẻ đô thị miền Nam. Trường ca “Mặt đường khát vọng” (1971) là tiếng vọng tâm tình của một hồn thơ hòa cùng mạch cảm xúc của dân tộc đứng trước dòng thác lũ thời đại, trong đó chương V “Đất nước” đã gói ghém trọn vẹn tâm tình của thế hệ chống Mỹ:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”

Giọng thơ thủ thỉ đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân - Đất Nước, tiếp nối mạch suy tưởng của thi ca giai đoạn trước.

Đất Nước là một chủ đề xuyên suốt bao trùm lên các tác phẩm trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các nhà thơ nhà văn bằng tình cảm công dân đã có nhiều phát hiện mới mẻ độc đáo về Tổ quốc, nhân dân. Tổ quốc thường được soi chiếu từ bình diện lịch sử chống ngoại xâm, được khái quát bằng những hình tượng kỳ vĩ, khai thác triệt để chất sử thi hoành tráng. Trong dòng chủ lưu ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lựa cách thể hiện riêng của mình, bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận - trữ tình.

Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở đầu chương Đất Nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:

Tóc mẹ thì búi sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng

Đất Nước có từ ngày đó…

Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hoá truyền thống, mang theo hơi thở tâm tình của ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” thấm thía tình nghĩa thủy chung. Mạch nguồn ấy tiếp tục với quá trình trưởng thành của từng cá nhân, từ thuở cắp sách đến trường đến khoảnh khắc rung động đầu đời. Tất cả đều xuất phát một cách rất tự nhiên, nôn nao ngọt ngào kỷ niệm:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm...

Đan xen với khoảnh khắc thời gian không gian hiện tại là sự thức tỉnh của ký ức cộng đồng, với sự tổng hoà những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt. Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về Cha Rồng Mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt :

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng...

Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng bền chặt, là nguồn sức mạnh và cũng là phẩm chất tâm hồn dân tộc đã được nhà thơ lý giải qua những hình tượng thơ giàu tính thẩm mỹ và hàm chứa mối quan hệ Đất Nước – con người Nhân Dân không thể tách rời. Thời gian lịch sử, không gian văn hoá hoà quyện trong mạch thơ đầy ân tình đã phác hoạ rõ nét dần tượng đài Đất Nước. Không chỉ tiếp cận hình tượng trong huyền sử, trong hiện thực đời sống, trong mối quan hệ cá nhân - cộng đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chống Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm :

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Ý thơ thật giản dị, không hề gượng ép tình cảm, khi từ mối quan hệ riêng tư để hướng về với quan hệ cộng đồng, dân tộc. Tứ thơ độc đáo chính là từ sự mở rộng từ thế giới của “anh và em hôm nay” đến với “mọi người”. Vẻ đẹp Đất Nước được phát hiện thêm với những vẻ đẹp “hài hoà nồng thắm” và “vẹn tròn to lớn”. Đó cũng là sự kết hợp hài hoà của lý trí và tình cảm con người thời đại chống Mỹ. Hơn thế nữa, những câu thơ này còn cắt nghĩa cho vẻ đẹp tình yêu của thế hệ trẻ chống Mỹ không hề mất đi vẻ lãng mạn, khi khoảnh khắc cầm tay hiện tại đã nghĩ về thế hệ tương lai, về một ngày thanh bình và sự phát triển của Đất Nước với “tháng ngày mơ mộng”. Không dừng lại ở đó, nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ Đất Nước với tâm hồn của từng con người. giọng thơ tâm tình thấm thía:

Em ơi em

Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời.

Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một người lăn lộn trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất Nước. Đất Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người sẵn sàng dâng bầu máu của tuổi thanh xuân, biết sống có trách nhiệm với thời đại và đầy khát vọng về tương lai trường tồn của Đất Nước.

Phần mở đầu của chương Đất Nước được cấu tứ trên cơ sở gắn bó giữa các vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo và giàu sức biểu cảm để làm nên vẻ đẹp chung tổng hoà thành hình tượng Đất Nước kỳ vĩ và giàu sức thuyết phục với bạn đọc. Nhà thơ đã trữ tình hoá vấn đề mang tính chính luận, nhằm trả lời những câu hỏi lớn mà dân tộc đang phải tìm lời đáp trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng độc lập tự do, cuộc chiến đấu của lương tri chống lại thế lực bạo tàn.

Những vần thơ rất đẹp trong Đất Nước đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục toả sáng, giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua góp phần khơi dậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con người trong khát vọng đưa Đất Nước đi xa đến những tháng ngày mơ mộng.
 

Stanley

New Member
ta phải khẳng định rằng bài tho đât nước là một bài thơ rất hay
 

rongxanh_arico

New Member
Dàn ý ĐẤT NƯỚC (NGUYỄN KHOA ĐIỀM)


A. KIẾN THỨC CƠ BẢN:

1/ Tìm hiểu về bài thơ:

- Tác giả tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trẻ của những năm chống Mỹ. Trong thơ
của họ nổi bật ý thức tuổi trẻ, vai trò và trách nhiệm của mình trong thời đại và đặc biệt là sự nhận thức của họ đối với đất nước với nhân dân và với cuộc kháng chiến của dân tộc.

- Chủ đề “ Đất nước”bao trùm trong thơ Việt Nam 1945-1975. Tuy nhiên, bài thơ này được viết trong thời kỳ chống Mỹ nên nó mang dấu ấn của một thời với cách nhận cảm của thế hệ trẻ qua chính những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cốt lõi của những bài thơ này là tư tưởng nhân dân đã chi phối toàn bộ những cảm hứng chủ đạo cũng như câu tứ và hình tượng thơ.

- Vào những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ hàng loạt các trường ca ra đời. Điểm khác biệt là các tác phẩm này không dựa vào cốt truyện tự sự mà nó viết theo sự vận động ý thức của tác giả. “Mặt đường khát vọng” là sự thức tỉnh của thanh niên trí thức thành thị Miền Nam trước hiện tình của đất nước. Họ nhận rõ kẻ thù, ý thức về đất nước về nhân dân đồng thời đề ra trách nhiệm cho thế hệ là phải đứng dậy tranh đấu.

Bài thơ này là sự cảm nhận, phát hiện về đất nước trong cái nhìn tổng hợp và toàn vẹn, nó mang đậm tư tưởng nhân dân. Bài thơ đã sử dụng các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo và rất thích hợp với tư tưởng nhân dân của tác phẩm.

2/ Phần thứ nhất:

+ Bốn câu thơ đầu viết dài ra những câu văn xuôi êm ả, như lời kể chuyện cổ tích, trầm lắng, tha thiết, ngọt ngào.Mỗi câu thơ đều có từ “Đất nước” và do đó, cả bốn câu bị chi phối, bị cuốn hút, bị bện chặt bởi cái chủ đề đất nước. Những câu thơ dài, mênh mông, không có sự hiệp vần. Nó là một câu chuyện kể.

+ Đoạn thơ mở đầu bình dị tạo nên một sự gần gũi thân thiết chứ không trang trọng dõng dạc như Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô Đại Cáo”. Đất nước trong trừu tượng, nó ở ngay trong cuộc sống của chúng ta. Từ lời kể của Mẹ, miếng trầu của bà cho đến phong tục tập quán rất riêng ( “tóc bới sau đầu”). Đất nước là tình nghĩa thủy chung của cha mẹ, là hạt gạo ta ăn hàng ngày, là cái kèo, cái cột trong nhà v.v …

+ Hai câu thơ đóng và khép của đoạn đầu tạo dựng được không khí. “Khi ta lớn lên” là thời điểm hiện tại “Đất nước đã có rồi” là thời gian quá khứ.

“Đất nước có từ ngày đó” là đẩy đối tượng vào dòng thời gian hun hút xa xăm. Điều khẳng định về đất nước là “ Có rồi” “Có từ ngày đó” “Có trong những cái ngày xửa ngày xưa”… Đất nước vừa cụ thể vừa huyền ảo.

+ Tiếp đó là sự nhận cảm Đất nước từ các phương diện địa lý – lịch sử. Tác giả định nghĩa Đất nước không giống các nhà chuyên môn về lịch sử – địa lý đã đành mà cũng không định nghĩa theo hướng khái quát trong “ Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi. Tác giả chia cắt thành tố “ Đất”và “Nước”trong bản thân từ “ Đất nước”.Cách chiết từ này có thể dẫn tới sự giải thích sai lầm hay giản đơn hoá khái niệm. Nhưng tư duy nghệ thuật lại làm cho định nghĩa đất nước trở nên vô cùng sinh động và độc đáo ( đất nước đã được cụ thể hoá cao độ và đem đến một thông báo rất mới mẻ có tác động đến tình cảm thẩm mỹ cao).

- Đất nước được cảm nhận trên phương diện không gian và thời gian, địa lý và lịch sử:
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Từ huyền thoại:
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Cho đến truyền thuyết vua Hùng và ngày giỗ Tổ ( 10 -3 âm lịch).
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
( Truyền thuyết vua Hùng đã được nhắc lại ở phần hai của bài thơ: Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương).

Kết hợp với sự khẳng định “Đã có rồi” ở trên kia, tác giả muốn nói lên bề dày, chiều sâu lịch sử của nước Việt nam chúng ta. Về mặt không gian địa lý đất nước không chỉ là núi rừng:

“Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” không chỉ là biển cả: “Con cá ngư ông móng nước biển khơi” mà còn là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống mỗi người.

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đó là nơi nảy nở tình yêu lứa đôi.

Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm (một không gian rất nhỏ, chỉ có hai người biết, hai người hay). Đó cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao nhiêu thời gian, bao nhiêu thế hệ:

Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Tác giả đã sử dụng những câu ca dao, những nội dung của truyền thuyết dân gian với một ngôn ngữ rất tự nhiên nhuần nhị. Chính vì thế mà những câu thơ vừa có cá tính sáng tạo mới mẻ vừa mang nét gần gũi thân thương.

- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
- Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

(Bài ca dao: “ Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất”…)

+ Tìm giá trị của đất nước trên cái khoảng rộng của không gian và cái chiều dài chiều sâu của thời gian (một không gian có tính chất địa lý và một thời gian có tính chất lịch sử). Đất nước là sự thống nhất các phương diện văn hoá truyền thống, phong tục các đời thường hàng ngày và cái vĩnh hằng mãi mãi, giữa sự sống của cá thể và sự sống của cộng đồng…
Ý thơ tập trung vào tụ điểm cuối cùng của tư tưởng trong Phần một của bài thơ.

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần của đất nước

Thì ra đất nước có trong mỗi cá nhân, đất nước kết tinh trong mỗi con người. Bởi vì mỗi cá nhân không chỉ là riêng mình mà còn là của đất nước. Mỗi cuộc đời đều thừa hưởng được những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc. Cho nên tác giả nhắn nhủ chúng ta phải có trách nhiệm với đất nước. Lời nhắn nhủ ấy là với “em”nên nó có tính chất tâm sự riêng tư không lên gân giả tạo theo kiểu “giáo huấn”.

Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời

3/ Phần thứ hai của bài thơ:

Tư tưởng cơ bản của phần này là tư tưởng đất nước của nhân dân.

+ Cách nhìn những thắng cảnh của địa lý có chiều sâu của sự phát hiện mới mẻ (Những người vợ … núi sông ta).

- Cảnh thiên nhiên kỳ thú đã gắn bó máu thịt với đời sống dân tộc. Nó được những thế hệ, những lớp ngưới đi trước tiếp nhận và cảm thụ qua tâm hồn, qua cảnh ngộ của những hoàn cảnh, của những cuộc đời, của lịch sử dân tộc. Nếu không có người vợ chờ chồng trong những cuộc chiến tranh li tán thì không có Đá Vọng Phu. Nếu không có truyền thuyết vua Hùng dựng nước thì không cảm nhận được sự linh thiêng và hùng vĩ của cảnh quan núi đồi trùng điệp….

Đoạn thơ đã khái quát:

“Và ở đâu trên khắp ruộng gò bãi… núi sông ta”

+ Tác giả “nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước” không điểm lại các thời đại hào hùng như Nguyễn Trãi (trải từ Triệu, Đinh… ) như Chế Lan Viên (nước Việt Nam nghìn năm Đinh, Lý, Trần, Lê, thành nước Việt nhân dân trong mát suối) mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh.

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình dân
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất nước

+ Tư tưởng cốt lõi và tụ điểm là ở phần cuối: “Đất nước này là Đất nước nhân dân”

- Vì là của nhân dân nên nó là “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Đây là một định nghĩa giản dị mà khá độc đáo.

- Tác giả chọn ba dẫn chứng trong ca dao thần thoại để nói về truyền thống của nhân dân, của dân tộc.

+ “Yêu em từ thuở trong nôi” tức là tình yêu rất đắm say.
“Biết quí công cầm vàng…” là biết quí trọng tình nghĩa.
“Biết trông trẻ”… nhắc tới tích Thánh Gióng để nói đến sự quyết liệt trong căm thù và trong chiến đấu. (Huy Cận đã từng phát hiện đức tính có vẻ như đối lập này của dân tộc Việt Nam:

“Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”

Mặc dầu bốn ngàn năm chưa hề ngơi tắt ngọn lửa chiến tranh, nhiệm vụ chiến đấu luôn luôn sẵn sàng trong mọi thế hệ người Việt. Cái gì đã tạo cho nước Việt Nam tồn tại mà không xóa nhòa bản sắc của mình? Cái gì đã tạo cho con người Việt Nam có một truyền thống văn hiến rực rỡ? Chính là Nhân dân Việt Nam đã sống rất đôn hậu, đời thường, sống giàu tình nghĩa ngay cả những khi hoàn cảnh lịch sử phá vỡ đời sống bình thường đó. Dân Việt Nam phản ứng quyết liệt khi có kẻ thù nhưng họ không phải là kẻ hiếu chiến: “Trồng tre” là để tự vệ chứ không phải ưa đổ máu!

+ Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã có từ rất lâu. Đến những vần thơ của Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm… đã hình thành rất rõ. Nhưng đến thời kỳ chống Mĩ tư tưởng này được Nguyễn Khoa Điềm nhận thức sâu sắc hơn, thắm thía hơn bởi vai trò cũng như sự đóng góp hi sinh vô bờ bến của nhân dân trong cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt này.

4/ Đất nước là bài thơ trữ tình – chính luận:

Nó có sự kết hợp hai yếu tố hữu cơ cho nên làm tập trung và nổi rõ tư tưởng của tác giả.

+ Tác giả thành công trong việc tạo ra không khí giọng điệu, không gian và thời gian thích hợp để đưa vào thế giới gần gũi, bay bỗng của ca dao dân ca, của truyền thuyết và đời sống văn hóa của dân tộc. Đồng thời cũng cảm nhận một tư duy mới mẻ và hiện đại trong những câu thơ phóng khoáng, tự do (điều đặc biệt là bài thơ rất ít vần, nó có “chất thơ” nhờ vào việc xây dựng hình ảnh, vào giọng điệu trầm bổng và chuyển đổi…).

+ Tuy nhiên nhiều chỗ chất trữ tình và chính luận không kéo dính với nhau khiến cho khi bài thơ khá nặng nề, khi thì cảm xúc tràn lan dường như không kiểm soát được. Nhiều chỗ còn trùng lặp, dàn trải, nhiều hình ảnh và cách lí giải chưa thật sự mới mẻ và sâu sắc
 

bnoo_chan

New Member
k hay khi phân tích như vậy chưa đi sâu vào nội dung bài thơ có những ý nghĩa gi chỉ mới phân tích bề mặt câu chữ
 

Honon

New Member
I. Tìm hiểu chung
1.Tác giả Nguyễn Khoa Điềm


- Sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điểm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

- Quê gốc An Cựu, Thuỷ An, thành phố Huế

- Gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng. Cha ông là Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều), nhà phê bình văn học theo quan điểm Mac xit nổi tiếng giai đoạn 1930 – 1945. Năm 1955 ông được đưa ra Bắc học ở trường học sinh miền Nam. Tốt nghiệp đại học Sư phạm Hà Nội 1964, Nguyễn Khoa Điềm trở về miền Nam tham gia chiến đấu, hoạt động bí mật trong thành phố Huế, từng bị địch bắt giam. Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968, ông được giải thoát, tiếp tục lên hoạt động ở chiến khu Trị Thiên.

- Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu làm thơ từ thời kì này và là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư người trí thức, tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.

- Sau năm 1975, tiếp tục hoạt động ở thành phố Huể, là Tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam khoá V, Bộ trưởng Bộ văn hoá – thông tin, Trưởng ban tư tưởng – Văn hoá Trung ương, Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương Đảng.

* Tác phẩm chính: các tập thơ Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (Trường ca - 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Cõi lặng (2007).

Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2000.

2. Đoạn trích Đất nước

* Đoạn trích Đất nước từ trường ca Mặt đường khát vọng. Bản trường ca nhằm thức tỉnh tuổi trẻ các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, xuống đường đấu tranh, nhập vào cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Trường ca này hoàn thành năm 1971 và in lần đầu ở miền Bắc (1974). Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của trường ca về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

* Bố cục: Đoạn trích chia làm 2 phần:

- Phần 1 từ đầu đến: “làm nên Đất nước muôn đời”, ý của phần này: Đất nước của nhân dân được cảm nhận bằng văn hoá, ca dao thần thoại và tình yêu con người. Xen vào phần một còn thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa cá thể và cộng đồng, thành viên với đất nước của mình

- Phần hai còn lại: Đất Nước của Nhân dân đã qui tụ cách nhìn và sự phát hiện về địa lí, lịch sử, văn hoá. Xen vào đó là đoạn chính luận làm nổi bật vai trò của nhân dân quyểt định vận mệnh Tổ quốc.

* Đoạn trích thể hiện tư tưởng lớn: Đất nước này là Đất nước của Nhân dân. Từ đó thức tỉnh tuổi trẻ miền Nam hoà hợp vào cuộc đấu tranh hướng về nhân dân đất nước

II. Đọc hiểu văn bản

1. Đất nước của nhân dân được cảm nhận ở những góc độ. Từ đó nhà thơ thức tỉnh tuổi trẻ hướng về nhân dân đất nước.

- Tác giả nhìn nhận đất nước trên phương diện của ca dao thần thoại. Qua đoạn thơ:

Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
….
Đất Nước có từ ngày đó

Đất Nước có từ rất xa. Đất Nước có từ trong những chuyện đời xưa, từ phong tục ăn trầu đến truyền thống “biết trồng tre mà đánh giặc”. Những hình ảnh này gợi cho ta liên tưởng tới Sự tích trầu cau, Truyện Thánh Gióng gần gũi hơn cả là cuộc sống đời thường của mỗi con người. Thành ngữ dân gian “gừng cay muối mặn” có từ buổi cha mẹ thương nhau, đến chuyện đặt tên cho cái kèo, cái cột, “Hạt gạo phải một nắng hai sương” và cuộc sống bề bộn hằng ngày… Đất Nước hiện lên thật thiêng liêng và gần gũi, dễ cảm hoá và đi vào lòng mỗi người.

Đất Nước còn có nguồn gốc vừa thiêng liêng, vừa tôn kính:

Đất là nơi chim về
Nước là nơi Rồng về
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Ta nhận ra nguồn gốc. Ở đâu trên Đất Nước này ta phải nhớ mình đều chung một nguồn gốc và tự hào về truyền thống con Rồng, cháu Tiên.

- Đất Nước không chỉ bắt nguồn từ đời sống lam lũ, lo toan hằng ngày mà còn bắt nguồn từ đời sống tình cảm:

“Cha mẹ thương nhau”
Và “Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Tình yêu lứa đôi cũng làm nên gương mặt tinh thần cảu Đất Nước. Hình ảnh chiếc khăn làm ta nhớ tới câu ca dao còn đẫm nước mắt của những người yêu nhau từ thuở xa xưa.

- Tác giả cảm nhận Đất Nước trên nhiều bình diện, phát hiện nhiều điều mới mẻ. Đất Nước là sự thống nhất, hoà hợp của nhiều phương diện văn hoá, phong tục, truyền thống, cả ca dao, thần thoại, có những chuyện thuộc về đời thường hàng ngày, cũng có những cái thuộc về sự vĩnh hằng. Trong đời sống mỗi con người có cả cộng đồng. Vì thế giọng thơ chuyển từ trữ tình sang chính luận.

- Tìm đến ca dao, thần thoại là tìm đến đời sống giân dan từ xa xưa. Đời sống tinh thần cảu dân tộc xưa vừa thơ mộng, vừa trữ tình. Nó mộc mạc tự nhiên, thuần phác, dễ đi vào lòng người hôm nay để tuổi trẻ dễ nhận ra cái hồn, cái cốt, tư tưởng Đất Nước này là đất nước của Nhân dân.

- Giang Nam với bài Quê hương, Tố Hữu với Việt Bắc; Vũ Cao với Núi đôi; Dương Hương Lí với Đất quê ta mênh mông, Hoàng Cầm với Bên kia sông Đuống; Lê Anh Xuân với Dáng đứng Việt Nam…. Và rất nhiều những nhà thơ khác đều viết về Đất Nước. Mỗi người một vẻ không ai giống ai. Giang Nam, Vũ Cao cảm nhận về đất nước gắn liền với hi sinh, mất mát. Tố Hữu viết về đất nước với khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến và nghĩa tình son sắt, đạo lí cách mạng. Dương Hương Lí viết về đất nước gắn liền với chiến công của các bà mẹ đào hầm trong tầm đại bác. Lê Anh Xuân viết về đất nước gắn với hi sinh của chiến sĩ vô danh đã ngã xuống trên đường băng của sân bay Tân Sơn Nhất. Hoàng Cầm xót xa trước cảnh quê hương bị giày xéo để rồi có khát vọng vùng lên. Đất Nước của Nguyễn Đình Thi và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm có thể đặt trong cùng bình diện. Cả hai đều là những xúc cảm về đất nước trong tiến trình lịch sử. Đất Nước của Nguyễn Đình Thi gắn liền với đất nước trong đau thương và quật khởi vùng lên “Sức sống kì diệu đã biến một nước Việt Nam hiền hoà thành một nước Việt Nam bất khuất”. Mạch cảm xúc ấy thật giá trị. Nhưng vẫn không có gì mới mẻ. Phản ánh về đất nước, các nhà thơ đều chung một mạch cảm xúc. Đó là xót xa, uất ức, nghẹn ngào và anh dũng đứng lên. Đến Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự tìm được hướng khác trong cảm nhận. Nhà thơ khai thác đề tài dân gian, địa lí và lịch sử để làm cho mọi người thấy đấy, rõ ràng mà cũng thật bất ngờ. Cái mới, nét đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ đó.

- Hai dòng thơ:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước

Hai câu thơ làm nên chất chính luận. Nó mang tính triết lí thật sâu sắc. Đó là mối quan hệ giữa cá thể với cộng đồng giữa mỗi người với Đất Nước của mình. Điều ấy có nghĩa em, thế hệ trẻ không thể tách rời khỏi Đất Nước.

Những câu thơ thực sự rung động:
Em ơi en Đất Nước là máu xương của mình

Làm nên Đất Nước muôn đời

Tiếng gọi thiểt tha “Em ơi em!”, kết hợp với sự khẳng định “Đất Nước là máu xương của mình” và hàng loạt những từ phải biết, gắn bó, san sẻ, hoá thân, làm nên… Tất cả như lời giục giã, cởi mở chân thành. Tư tưởng Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân còn được thể hiện ở phần 2 của bài thơ.

2. Đất Nước của Nhân dân đã qui tụ cái nhìn, đưa đến những phát hiện mới mẻ, sâu sắc về địa lí, lịch sử.

- Tư tưởng “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân” đã qui tụ mọi cách nhìn nhận mới mẻ. Tác giả đã nhìn nhận về Đất Nước trên các bình diện về địa lí, lịch sử, văn hoá.

- Nhìn nhận về địa lí, lịch sử văn hoá không phải là cái nhìn mang tính đặc trưng của từng ngành khoa học này. Nói về địa lí không phải bằng chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, cũng không bằng sự kiện lịch sử mà bằng cách nói cảm xúc:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…

Những địa danh dòng sông (Cửu Long – chín rồng) đến tên núi “Vọng Phu”, những tên đất gắn liền với tên người (ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm) đến gò, đầm, đồi, bãi, những danh lam thắng cảnh (Hạ Long) đã gắn liền với dân tộc, gắn liền với cuộc sống con người. Từ đó lời thơ như thăng hoa, đúc kết thành triểt lí sâu sắc:

Ôi! Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…

Thơ Nguyễn Khoa Điềm trữ tình mà chính luận là ở đó.

Cái bình diện địa lí, lịch sử được nhìn nhận bằng tâm hồn dạt dào cảm xúc, góp phần làm nổi bật cảm xúc chủ đạo của bài thơ, làm nên nét riêng độc đáo của thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về Đất Nước.

- Tác giả cất tiếng gọi:

“Em ơi em”
Sau tiếng gọi là sự giãi bày:
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Vai trò của nhân dân toả sáng trong 6 câu thơ đấy triết lí. Nhân dân ta đã chiếm lính vũ đài lịch sử. Bất giác ta nhớ tới hình ảnh ở thời đại ta. Đó là đội trưởng cẳm cờ trên nóc hầm Đờ Cát là một chàng trai tình lúa Thái Bình. Những chiến sĩ ngồi trên xác pháo xe tăng cũng đều là người nông dân mặc áo lính. Thơ là tấm lòng nhưng trước hểt thơ phải là cuộc sống. Những người chiến sĩ ấy không thể đắn đo giữa sống và chết. Họ thật giản dị, bình tâm. Tên tuổi họ đã làm nên Đất Nước.

- Nguyễn Khoa Điềm không dùng những từ, những luận điểm, luận cứ có tính chính luận mà bằng ngôn ngữ của đời thường. Tác giả cũng không hô to gọi giật của lời thơ tuyên truyền cổ động mà thơ vẫn đi vào lòng người đọc.

- Nhà thơ nhằm mục đích thức tỉnh, lay động về nhận thức của tuổi trẻ miền Nam, cả nước nói chung, của tuổi trẻ các thành phố, đô thị trong vùng tạm chiếm nói riêng.

Bốn câu thơ kết đoạn:

Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát thi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.

Đất Nước gắn liền với dòng sông. Đất Nước gắn với những con người theo dòng chèo đò, kéo thuyền vượt thác. Họ phải trải qua những gian nan vất vả. Họ phải chèo, kéo và vượt qua tất cả thác ghềnh để gieo trồng và giữ gìn sự sống. Lạ thay, họ cất lên tiểng hát. Tiếng hát để động viên nhau. Tiếng hát thể hiện lòng yêu đời, thiết tha với đời. Tiếng hát là tinh thần lạc quan. Người dân của Đất Nước mình đấy, dân tộc ta đấy. Tuổi trẻ ơi! Hãy nối bước cha ông.

- Nguyễn Đình Thi dựng gương mặt đất nước theo quá trình “Từ những năm đau thương chiến đấu” để làm nên “Nét mặt quê hương”. Nhà thơ nhấn mạnh “Từ gốc lúa bờ tre hiền hậu/ Đã bật lên những tiếng căm hờn. Những câu thơ tưởng như như hồn khí lực để bật lên thành sự công phá”. “Một đất nước nung nấu đau thương, tích tụ căm hờn để cuối cùng quật khởi vùng lên”. Nhà thơ đã phản ánh hình tượng đất nước theo một quá trình chuyển hoá. Đất nước hiện qua mùa thu hiền hoà với hương thu gợi nhớ để rồi sừng sững với bức dáng dữ dội hoành tráng:

“Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà”.

Hai hình tượng để cảm xúc thơ Nguyễn Đình Thi vận động xung quanh Đất và Trời. Hai hình tượng ấy thể hiện ở hai giai đoạn. Nó gắn vào nhau.

+ Đây là đất nước trong đau thương:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều

+ Đất nước trong sự thay đổi, giành lại cuộc đời:

Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới

+ Đất nước trong thế vùng lên:

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ

- Trong khi đó Nguyễn Khoa Điềm viết về đất nước không nói về đau thương, đổi đời, chuyển hoá vùng lên mà nhấn mạnh “Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân”. Cách khai thác cũng mới mẻ. Nhà thơ tìm đến cội nguồn Đất Nước bằng những chi tiết chân thực, giản dị ai cũng biết, cũng nhận ra. Sự hình thành đất nước qua ca dao, tục ngữ, những huyền thoại đẫm màu sắc dân gian. Sản phẩm tinh thần do nhân dân là người sáng tạo. Họ làm ra Đất Nước cùng với nền văn hoà phi vật thể. Hai tiếng dân gian nghĩa là trong dân, do dân, ở dân. Người dân đã làm ra Đất Nước. Những bình diện về địa lí, lịch sử đưa vào thơ không phải bằng những đặc trưng của các ngành khoa học ấy mà bằng cái nhìn dạt dào cảm xúc, đẫm chất trữ tình. Dòng sông Đất Nước được nhìn dưới góc độ tưởng tượng: “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Ở đâu có trái núi mang hình một thiểu phụ bồng con, người ta gọi đó là núi vọng phu ở Lạng Sơn, Bình Định… Tất cả được giải bày bằng cảm xúc:

“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu”.

Hai hình tượng để cho cảm xúc thơ của Nguyễn Khoa Điềm vận động xung quanh là Đất và Nước. Hai yếu tố tự nhiên nuôi sống con người và con người cũng vật lộn với nó để xây lên Đất Nước.

- So sánh giữa hai bài thơ để thấy những nét riêng biệt khi viết cùng một đề tài, càng thấy sự phong phú của thơ ca hiện đại.

- Tác giả sử dụng nhiều chất liệu văn học dân gian, văn hoá dân gian một cách nhuần nhị trong câu thơ hiện đại có tác dụng vừa tác động vào trí tuệ, tình cảm tạo ra ý thức thẩm mĩ cho người đọc (Những câu thơ có liên quan đến tục ngữ, ca dao, truyện cổ dân gian…)

- Tác giả kết hợp giữa cảm xúc và triểt lí, trữ tình và chính luận trong thơ để tạo ra cách cảm nhận vừa mới mẻ, vừa sâu sắc.

- Câu thơ giàu hình ảnh. Hình ảnh nào cũng gắn với cuộc sống của nhân dân, nhất là văn hoá, văn học dân gian.
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Nghiên cứu phân tích nguyên lý hoạt động hệ thống điều chế đa tần trực giao(OFDM) ứng dụng trong truyền hình số mặt đất Công nghệ thông tin 0
C Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (gis) và viễn thám để phân tích, đánh giá hiện trạng sử dụng đất đô thị quận 2, tp Hồ Chí Minh Khoa học Tự nhiên 0
O Ứng dụng phương pháp phân tích đa chỉ tiêu và GIS trong đánh giá tính hợp lý về vị trí không gian của các đối tượng quy hoạch sử dụng đất cấp huyện Khoa học Tự nhiên 0
A Phân tích hiện trạng và đánh giá biến động sử dụng đất giai đoạn 2005 - 2010 phục vụ phát triển bền vững huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng Khoa học Tự nhiên 2
N Phân tích, đánh giá hiện trạng và đề xuất phương hướng quy hoạch sử dụng đất xã Võng Xuyên, huyện Phúc Thọ, TP Hà Nội đến năm 2020 Khoa học Tự nhiên 0
L Phân tích thực trạng sử dụng đất phục vụ định hướng tăng trưởng xanh tại các xã ven biển huyện Kỳ Anh - tỉnh Hà Tĩnh Khoa học Tự nhiên 0
H Phân tích hiện trạng và đánh giá biến động sử dụng đất giai đoạn 2005-2014 phục vụ định hướng khai thác sử dụng hợp lý đất đai huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai đến năm 2020 Khoa học Tự nhiên 0
L Phân tích hiện trạng và đánh giá biến động sử dụng đất phục vụ định hướng quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng Khoa học Tự nhiên 0
L Phân tích hiện trạng sử dụng đất và tiềm năng đất đai cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững tại tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020 Khoa học Tự nhiên 0
D Phân tích đánh giá thực trạng sử dụng đất trong mối quan hệ với quy hoạch nông thôn mới phục vụ quản lý đất đai huyện Đức Hòa, tỉnh Long An Khoa học Tự nhiên 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top