Hướng dẫn phân tích tác phẩm tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài miễn phí
Các đề
Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ
Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Vợ chồng A Phủ
Sức sống tiềm tàng của Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
Văn - giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Văn - Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mỵ
Đề bài: Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài
Đáp Án - Hướng dẫn làm bài
Mở bài
“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn được rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài viết vào năm 1953 ngay sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Truyện đã được tặng giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Đấy là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung, tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của những người nông dân cùng kiệt miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, đồng thời là bài ca về phẩm chất, sức sống, khát vọng tự do của con người lao động miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và sự đổi đời của họ. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong hai nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong truyện ngắn này.
Thân bài
Ý1: Lai lịch của A Phủ: Tác giả đã cho A Phủ xuất hiện khá đột ngột trong hoàn cảnh đánh nhau với A Sử, bị bắt, bị đánh đập tàn nhẫn ở nhà thống lí rồi mới kể về lai lịch của nhân vật. Đó là một chàng trai phải chịu đựng một tuổi thơ bơ vơ đau khổ. A Phủ quê ở Háng-bla, vừa mới lên mười tuổi đầu đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp. Trận dịch đậu mùa tràn đến làm cho trẻ con, người lớn chết. Nhà A Phủ, cha mẹ, anh chị em cũng bị chết hết, chỉ con sót lại một mình A Phủ. Làng chết nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Là một thiếu niên có tính gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ đã trốn lên núi khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang mùa khác, dù sống trong cảnh cực khổ, cô đơn, nhưng chẳng bao lâu A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi.
Ý2: A Phủ là một chàng trai người Mèo có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao động.
A Phủ sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: “công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”. Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một cuộc sống phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Bởi vậy được nhiều người con gái trong làng mê và trở thành niềm ao ước của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Tuy nhiên với tập tục, phép làng, lễ cưới xin khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không cha không mẹ, không ruộng nương, không tiền bạc ấy, làm sao có thể lấy nổi vợ, làm gì có gia đình, hạnh phúc tươi sáng?
Ý3: Đau khổ hơn nữa, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại con nhà quan khi hắn phá đám chơi ngày Tết. “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đẫu xuống xé vai áo đánh tới tấp”. Hành động dữ dội đó của A Phủ còn có nguyên cớ sâu xa từ mối thù giai cấp. Sau đó A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra và bọn tay sai bắt và đánh đập vô cùng tàn bạo, dã man hơn cả thời trung cổ. Bọn thống lí và chức việc kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi… Cứ mỗi lần bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như hổ mang phù”. Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân cùng kiệt miền núi thật thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn tỏ ra bất khuất, cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá”. Cuối cùng, với cách xử kiện quái gở, người phát đơn kiện cũng là người xử kiện, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ suốt đời không công cho nhà thống lí.
A Phủ đã bị thống lí Pá Tra buộc làm nô lệ để trả nợ “đời mày, đời con mày, đời cháu máy tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Thế là cũng như Mị, A Phủ trở thành tên nô lệ chung thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi trong vòng kiểm soát của chủ nô thống lí Pá Tra. Từ đây A Phủ bị thống lí bòn rút sức lao động “đốt rừng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, ngựa quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.
Ý4: Bi thảm và tuyệt vọng hơn nữa khi tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lí Pá Tra. Chỉ vì để hổ vồ mất bò, A Phủ đã rơi vào thảm họa mới. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” rồi sai A Phủ lấy cái cọc và cuộn dây mây cuốn từ chân lên vai trói đứng A Phủ lại. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho A Phủ “đứng chết ở đấy”. Sau bao ngày bị A Phủ “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và thần chết đã in dấu trên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. A Phủ đã nằm bên bờ vực của cái chết. “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng.
Ý5: Miêu tả cuộc sống khổ cực đau thương, tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một mặt đồng cảm xót thương với thân phận khổ đau của người lao động miền núi, một mặt khác vừa vạch trần bộ mặt tàn bạo, dã man của bọn chúa đất đã vùi dập không tiếc thương sự sống của họ.
Ý6: Tuy vậy, với khát vọng mãnh liệt, với bản chất gan góc, bất khuất sẵn có, A Phủ không chịu tìm cái chết mà tìm mọi cách tự giải thoát. “Đến đêm, A Phủ cúi xuống nhay đứt hai vòng mây, nhích giãn dây trói một bên tay”. Và với sự trợ giúp của Mị, “A Phủ đã quật sức vùng lên, chạy xuống dốc núi”. A Phủ và Mị trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, bản làng quê hương mình. Từ đấu tranh tự phát A Phủ và Mị tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác.
Kết luận:
Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật A Phủ hiện lên thật độc đáo, hấp dẫn. Nhân vật ít nói, thiên về hành động. Cùng với Mị, cuộc đời A Phủ có ý nghĩa tiêu biểu cho số phận, phẩm chất và con đường đi của người dân vùng cao Tây Bắc. Từ bóng tối của cuộc đời đau khổ tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm, ánh sáng tự do và cách mạng. Đó cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.
Đề 3: Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm cưởi trói cho A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài”.
Đáp án – Hướng dẫn làm bài
I. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, nhân vật
1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm (xem đề trên)
2. Giới thiệu nhân vật
Mị là nhân vật chính, linh hồn của tác phẩm góp phần quan trọng làm nên giá trị hiện thực, nhân đạo của thiên truyện và thể hiện tài năng phân tích tâm lí đặc sắc của Tô Hoài. Tài năng đó được bộc lộ một cách khá sinh động ở đoạn nhà văn mô tả quá trình diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm cưởi trói cho A Phủ.
II. Phân tích quá trình diễn biến tâm lí và hành động của Mị
1. Thời điểm trước lúc cắt dây trói cho A Phủ
a. Lúc đầu, Mị như thờ ơ, Mị không nói lời nào, tuy từng biết A Phủ trong cuộc “xử kiện”. Khi thấy A Phủ bị hành hạ lần thứ hai (bị trói đứng) vì để hổ ăn thịt mất một con bò, tuy ghét kẻ độc ác (Pá Tra) và thương A Phủ nhưng Mị vẫn lặng lẽ. “Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức thổi lửa suốt đêm… Mấy đêm nay như thế, Mị đều thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Phải chăng, Mị là con người nhẫn tâm? Không. Vì tội các xảy ra như cơm bữa trong nhà thống lí Pá Tra đã làm cho tâm hồn Mị ít nhiều bị chai sạn.
b. Dần dần, hình ảnh A Phủ bị trói đứng, bị rét, bị đói, có thể chết đã làm cho Mị không yên lòng, không đành lòng. Thời gian trôi đi, nỗi đau thể xác của A Phủ càng nặng, hình như càng làm cho tình thương của Mị với A Phủ cũng tăng lên. Nhưng đêm nay, “dưới ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai con mắt A Phủ vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” vì đau khổ và tuyệt vọng của A Phủ. Chính dòng nước mắt “lấp lánh” kia đã chạm được đến đáy sâu chứa tình người bị chôn vùi trong Mị. Nó làm cho Mị nhớ lại nỗi tuyệt vọng của mình ngày trước bị A Sử trói “Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được” và nghĩ đến người đàn bà bị Pá Tra trói đến chết.
2. Hành động, tâm trạng của Mị khi cắt dây trói, giải thoát cho A Phủ
a. Từ chỗ thương mình, tâm hồn Mị dấy lên niềm cảm thông sâu sắc với những con người cùng chung cảnh ngộ. Mị như nhìn thấy trước cái điều gì sẽ chờ đón A Phủ trong những ngày sắp tới “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… Người kia việc gì mà phải chết thế?”
b. Mị nhớ lại đời mình, Mị tưởng tượng nếu A Phủ trốn được, Pá Tra sẽ bảo Mị cưởi trói cho nó và sẽ chết ngay trên cọc trói. Nghĩ thế, nhưng tình thương đã lấn át tất cả “làm sao Mị cũng không thấy sợ”. Mị sẵn sàng thế mạng cho A Phủ. Giây phút quyết định ấy là giây phút đẹp nhất trong cuộc đời Mị, nó biến Mị thành con người cao thượng. Mị đã đi đến một hành động táo bạo: “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây…”
3. Hành động, tâm trạng Mị sau khi cắt dây trói cho A Phủ
a. A Phủ được cởi trói thì Mị lại “hốt hoảng”. Mị chỉ thì thào nói với A Phủ cũng như tự nói với mình “Đi ngay!” rồi Mị nghẹn lại, A Phủ khuỵu xuống. Nhưng trước cái chết đang ập đến, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối. “Rồi Mị cũng vụt chạy ra”… “Mị vẫn băng đi”. Đuổi kịp A Phủ, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt “A Phủ cho tui đi … ở đây thì chết mất”.
b. Thế là “Hai người lẳng lặng đỡ nhau lao xuống dốc núi” trốn khỏi Hồng Ngài, đến Phiềng Sa để tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
III. Kết luận
Diễn biến tâm lí của Mị được Tô Hoài mô tả rất hợp lí, logic, hiện thực và sinh động làm nên sức sống lâu bền cho tác phẩm.
Đề bài: Phân tích giá trị nội dung và nêu những nét chính về nghệ thuật của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
Đáp án – Hướng dẫn làm bài
I. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tô Hoài là một trong những gương mặt xuất sắc của văn học Việt Nam đương đại. Ông có sở trường về đề tài miền núi. Chính những năm tháng thâm nhập thực tế vùng núi cai Tây Bắc giúp Tô Hoài một vốn sống phong phú về cuộc sống và con người đồng bào các dân tộc vùng đất này.
- Bằng những chi tiết chân thực, bằng tấm lòng yêu thương gắn bó sâu sắc với những con người Tây Bắc cùng kiệt khổ nhưng giàu tình nghĩa, những tác phẩm của Tô Hoài tái hiện được một các sinh động và chân thực những bức tranh về cuộc sống, số phận và phẩm chất của họ.
2. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm tiêu biểu nhất của Tô Hoài về mảng đề tài nói trên. Tác phẩm được viết vào năm 1953, được rút từ tập “Truyện Tây Bắc”. Tác phẩm được giải nhất Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955. Tác phẩm đã đánh dấu quá trình chuyển biến tư tưởng và nghệ thuật của Tô Hoài. Nó là thành quả sau tám tháng trời thâm nhập thực tế của tác giả. Giờ đây nó vẫn được người đọc đón nhận với tất cả sự trân trọng, say mê, có lẽ là nhờ giá trị hiện thực đặc sắc và tư tưởng nhân đạo tích cực mà Tô Hoài thể hiện trong tác phẩm cùng nghệ thuật kể chuyện, miêu tả tâm lí tinh tế của nhà văn.
II. Giá trị nội dung
A. Giá trị hiện thực sâu sắc và rộng lớn
1. Tác phẩm đã phản ánh chân thực bức tranh xã hội Tây Bắc trước giải phóng – điều này có ý nghĩa khai phá. Ở đây còn tồn tại chế độ phong kiến, chúa đất với những chức sắc thống lí, xéo phải… một kiểu phong kiến miền núi tàn bạo, khắc nghiệt hơn nhiều so với chế độ phong kiến miền xuôi đã được các tác giả Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng mô tả trong các tác phẩm văn học hiện thực phê phán.
- Bọn phong kiến thống trị ở đây đã dùng cường quyền (bắt người lao động phải làm việc như tù khổ sau, đày đọa và đối xử với họ không bằng con trâu, con ngựa, đánh người, trói người vô cùng dã man, tiến hành kiểu xử kiện rất quái gở, vô lí), thần quyền (lấy vợ về cũng trình con ma, cho vay nợ cũng đốt hương khấn vái lầm rầm, mời con ma về nhận mặt kẻ vay nợ), thủ tục phong kiến (chồng có quyền trói vợ hàng mấy ngày trong buồng tối, bắt người đàn bà đi theo đuôi con ngựa nhà chồng quanh năm suốt tháng), dùng hình thức cho vay nặng lãi cắt cổ… Tất cả những việc làm hà khắc đó vô hình chung biến người lao động cùng kiệt khổ thành nô lệ không công suốt đời cho bọn thống trị, phong kiến chúa đất mà tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra.
2. Tác phẩm cũng đã tái hiện bức tranh chân thực về cuộc sống khổ đau, bi thảm của người lao động miền núi. Cuộc đời của Mị (con dâu gạt nợ) và A Phủ (đứa ở trừ nợ) là cuộc đời của những kẻ nô lệ mang thân phận khổ đau như con trâu, con ngựa, là những nạn nhân tiêu biểu cho chế độ tàn bạo, dã man nói trên. Những nhân chứng hùng hồn này đã làm cho độc giả chúng ta thấy được bộ mặt thật của bọn thống trị miền núi, từ đó đặt vấn đề phải gấp rút tiêu diệt, hủy bỏ nó.
3. “Vợ chồng A Phủ” cũng phản ánh được mặt hiện thực cơ bản lúc ấy. Đó là con đường đi từ tự phát đến tự giác của người lao động và sự vươn lên dưới ánh sáng tự do và nhân phẩm của họ.
B. Giá trị nhân đạo
Giá trị tư tưởng của truyện “Vợ chồng A Phủ” không chỉ là sự miêu tả cuộc sống chân thực và sinh động mà còn là tinh thần nhân đạo sâu sắc, mới mẻ thấm đượm trên mỗi trang sách của Tô Hoài.
1. Định nghĩa, giải thích khái niệm
Giá trị nhân đạo là một giá trị cơ bản của tác phẩm văn học chân chính. Nó được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ của con người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ, đồng thời lên án những thế lực tàn bạo, đen tối chà đạp lên quyền sống, ước mơ hạnh phúc và phẩm giá của con người.
2. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn này trước hết được toát lên từ niềm cảm thông sâu sắc của Tô Hoài đối với những số phận bất hạnh, bị mất quyền sống của người miền núi mà tiêu biểu là Mị và A Phủ. Hai sự sống trẻ trung bị đày đọa khủng khiếp trong tù ngục nhà thống lí Pá Tra đang bị chết dần, chết mòn vì khổ đau (kiếp người đầy bi kịch của Mị gần như bị tê liệt hết sức sống kể từ khi về làm con dâu gạt nợ dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, lễ giáo, hủ tục phong kiến miền núi). Mị sống âm thầm vật vờ như chiếc bóng, cứ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh, gan bướng, sống cuộc sống hồn nhiên, phóng khoáng của tuổi trẻ yêu đời, lao động giỏi không nợ nần gì nhà thống lí mà rốt cục cũng biến thành đứa trẻ trừ nợ suốt đời bị đánh đập, bị trói buộc một cách thảm khốc đến mức gần như tê liệt cả sức phản kháng “chỉ im như cái tượng đá… không nói nữa, như con trâu đã đóng lên tròng… tự tay A Phủ đóng cái cọc gỗ xuống bên cột để cho tên Pá Tra trói đứng mình”.
3. Tư tưởng nhân đạo còn toát lên từ sự tố cáo gay gắt thế lực phong kiến miền núi tàn bạo (chúng đã lợi dụng thần quyền, dùng cường quyền, hủ tục và những thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn như cho vay nặng lãi, cách xử kiện vô lí quái gở… biến người lao động thành nô lệ không công và bị đối xử như con vật)
4. Tác phẩm bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống của con người và là bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người lao động, đặc biệt là sức sống tiềm tàng và hành động tự giải phóng của nhân vật, đồng thời đặt niềm tin và sự trân trọng, nâng niu đối với khát vọng sống tốt đẹp của con người dù bị đày đọa đau khổ.
5. Nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng thực sự của người lao động là đi từ tự phát đến tự giác, từ tăm tối đau thương vươn lên ánh sáng của tự do và nhân phẩm nhờ sự dìu dắt của Đảng như là một tất yếu lịch sử (ý này chủ yếu nằm ở phần sau của truyện, không đưa vào sách giáo khoa cho nên các thí sinh có thể chỉ nêu lên mà không cần phân tích). Qua đây, nhà văn muốn ca ngợi chính sách nhân đạo của Đảng là đã giải phóng hàng triệu người dân lao động khỏi ách áp bức, nô lệ của “thằng giặc tây, thằng chúa đất - đứa đè cổ, đứa lột da”.
III. Giá trị nghệ thuật
Bên cạnh giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, “Vợ chồng A Phủ” còn có những thành công đặc biệt về phương diện nghệ thuật.
1. Nghệ thuật miêu tả tâm lí
2. Nghệ thuật miêu tả phong tục, tập quán, phong cảnh thiên nhiên
3. Nghệ thuật kể truyện sinh động, tự nhiên, hấp dẫn.
4. Ngôn ngữ tác phẩm rất tinh tế, mang đậm màu sắc miền núi.
Đề bài: Sức sống tiềm tàng của Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
Đáp án – Hướng dẫn làm bài
I. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và nhân vật
1. Tô Hoài là một trong những gương mặt tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của ông, được viết sau chuyến đi thực tế Tây Bắc năm 1953. Truyện được giải nhất cửa Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 - 1955.
2. Tác phẩm là bức tranh bi thảm của người dân cùng kiệt miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến, thực dân và là bài ca về phẩm chất, vẻ đẹp, về sức sống mãnh liệt của người lao động. Nhân vật chính kết tinh được phẩm chất cao đẹp và thể hiện rõ giá trị hiện thực và tư tưởng nhân đạo của tác phẩm và nhân vật Mị.
II. Phân tích nhân vật Mị qua các chặng đường đời
1. Trước khi làm dâu gạt nợ, Mị là một cô gái hầu như tập trung được những vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ miền núi: Mị vừa đẹp người, vừa đẹp nết, cần cù, đảm đang, hiếu thảo, giàu đức hi sinh vị tha, ham sống, yêu đời và rất mực tài hoa.
2. Khi về làm con dâu cho nhà thống lí, Mị đã phản kháng bằng nước mắt: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cao hơn một mức nữa, Mị đã định tự hủy diệt cuộc đời mình bằng nắm lá ngón. Nhưng lòng hiếu thảo - vì thương bố còn khổ hơn bây giờ bao nhiêu lần, đã níu kéo Mị trở về kiếp sống ngựa trâu. Dưới mấy tầng áp bức của cường quyền, thần quyền, những hủ tục phong kiến nơi miền núi, Mị gần như tê liệt hết về sức sống, Mị thờ ơ với sự chảy trôi của thời gian, sắc màu cuộc sống của Mị trở nên mờ nhạt. Nó được biểu tượng bằng “Một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay”, “lúc nào cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.
Mị trở thành con người cam phận sống cuộc sống “thân phận con rùa”, “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.
3. Đoạn đời thứ 3: Sức sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt trong đêm tình mùa xuân và hành động cởi trói cho A Phủ. Họ cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài, tìm đến khu du kích Phiềng Sa.
a. Mùa xuân về trên rẻo cao, đặc biệt là đêm tình mùa xuân với tiếng sáo, tiếng khèn của trai làng gọi bạn tình có ý nghĩa như “một hoàn cảnh điển hình” làm cho sức sống tiềm tàng trong con người Mị trỗi dậy một cách mãnh liệt.
- Ngày Tết, Mị cũng uống rượu: “Mị… cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say”. Với những tác động của ngoại cảnh và men rượu, Mị đã thoát khỏi tâm trạng dửng dưng bấy lâu để trở thành con người thức tỉnh, vươn tới những ý nghĩ và khát vọng đẹp đẽ. Chú ý phân tích diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân: “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” -> lòng Mị đang phơi phới sống về những ngày trước. Mị thấy “trong lòng đột nhiên vui sướng… Mị trẻ lắm… Mị muốn đi chơi” -> Ý thức về bản thân trỗi dậy, Mị phẫn uất mãnh liệt và thấm thía nỗi tủi nhục của mình, Mị muốn chết -> trong khi đó, tiếng sáo, biểu tượng của khát vọng tự do và tình yêu tuổi trẻ “đang rập rờn” trong đầu Mị -> Mị khêu to ngọn đèn cho sáng như thể khêu ngọn lửa của lòng ham sống, của sự khát khao -> Hành động này thúc đẩy hành động khác, không thể kìm nén được nữa. Nó là sự thôi thúc của trái tim như muốn phá vỡ những xiềng xích tàn bạo trong nhà thống lí Pá Tra, thách thức mọi ràng buộc khắt khe của nhà Pá Tra, của người chồng tàn ác: “Mị quấn lại tóc, với tay lấy chiếc váy hoa” chuẩn bị đi chơi ngày Tết. Nhưng giữa lúc lòng ham sống trong Mị trỗi dậy, dâng lên mãnh liệt như sóng trào thì cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách khắc nghiệt, lạnh lùng. A Sử, chồng Mị thản nhiên “trói đứng Mị vào cột nhà” -> “Như không đang biết mình đang sợ bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”, quên mọi đau đớn về thể xác, “Mị đã vùng dậy bước đi”. Điều đó chứng tỏ sức sống tiềm ẩn trong con người Mị mãnh liệt biết nhường nào.
b. Sức sống trỗi dậy trong con người Mị còn được thể hiện rõ nét ở hành động cởi trói cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.
- Bên cạnh bếp lửa, nhìn thấy A Phủ bị trói đứng một cách thảm khốc, mấy đêm đầu Mị vẫn thản nhiên vì chuyện đánh người, trói nguời ở nhà Pá Tra xảy ra như cơm bữa. Vả chăng, Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực.
- Nhưng đêm nay, dưới ánh lửa “bập bùng” trông thấy hai hàng nước mắt “lấp lánh” bò xuống hai hõm má đã “xám đen lại của A Phủ”, Mị càng thương mình, càng thương người. Tình thương, niềm đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ ấy đã lấn át nỗi sợ và lớn hơn cái chết, nó đã dẫn đến hành động táo bạo: cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, cùng nhau trốn khỏi Hồng Ngài.
- Đây là hành động tuy tự phát nhưng là kết quả của một quá trình, nó minh chứng sức sống tiềm tàng, âm ỉ không ngừng trong con người Mị. Nó là một bước ngoặt trong tính cách và cuộc đời Mị. Ý thức được nỗi khổ của kiếp sống tủi nhục của mình, Mị đã vượt qua nhà ngục thống lí Pá Tra với biết bao thế lực hà khắc của cường quyền, hủ tục, lễ giáo phong kiến (con gái Mèo lấy chồng, suốt đời là cái đuôi con ngựa của chồng, chồng chết lại phải lấy anh hay em chồng).
III. Kết luận:
1. Qua cuộc đời và số phận của Mị, Tô Hoài bày tỏ thái độ bênh vực quyền sống cho người lao động, đặc biệt là người phụ nữ miền núi. Đồng thời, tác giả cũng cất lên bài ca ca ngợi phẩm giá cao đẹp của họ. Đó là ý nghĩa nhân đạo cơ bản của tác phẩm.
2. Mị là một nhân vật rất thành công của văn xuôi hiện đại. Có được điều này là nhờ cái nhìn trân trọng, thương yêu đối với nhân vật của tác giả, đặc biệt là khả năng phân tích tâm lí sâu sắc, tinh tế của Tô Hoài.
Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, nên lên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Nếu như tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài mang một giọng hồn nhiên trong sáng thì tác phẩm Vợ chồng A Phủ của ông mang lại màu sắc dân tộc đậm đà, chất thơ chất trữ tình thấm đượm. Qua tác phẩm, nhà văn đã dựng nên một bức tranh hiện thực của hai cuộc đời: Mị và A Phủ, những bức tranh đó cũng chứa chan một tấm lòng nhân đạo của Tô Hoài.
Mị, một cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng lại mang một kiếp sống cùng kiệt của kẻ “thấp cổ bé họng”. Cha mẹ cô không thể trả nổi món nợ nhà thống lí thế là món nợ ấy truyền sang Mị. Tên thống lí tàn bạo ấy lại muốn bắt Mị làm con “dâu gạt nợ”. Mà quan đã muốn là trời muốn, cô Mị về làm dâu nhà quan mà trong lòng mang một mối uất ức không thể giãi bày. Tiếng làm dâu nhưng lại là một thứ nông nô không hơn không kém, cô mất tất cả quyền sống, quyền được xem là một con người. Ngày trước dẫu cùng kiệt nhưng được tự do, yêu đời, giờ đây vẫn cùng kiệt vẫn cực nhọc lại nhục nhã chịu kiếp sống nô lệ qua kiếp sống của Mị, nhà văn bộc lộ một tấm lòng thương người, chua xót cho số phận con người, và cũng qua đó Tô Hoài đã vạch trần cái bản chất bóc lột giai cấp. Người ta dùng cái thế lực và tiền bạc “cướp người đàn bà đem về trình ma”, thế là người đàn bà cũng bị cái “ma” vô hình trói cả cuộc đời trong nhà ấy. Nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con, và nếu chồng lại chết, lại phải ở với người đàn ông khác vẫn ở trong nhà ấy. … Phải suốt đời ở trong nhà ấy.
Mị đã khổ nhiều rồi, trong cái địa ngục trần gian ấy, lại càng khổ hơn khi phải chấp nhận mình là kiếp trâu kiếp ngựa. Cả những con người cứng rắn, có lẽ không khỏi động lòng khi đọc đến câu “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”… Khổ mà đến “quen” rồi quả thật ý thức con người đã bị tê liệt, đã mất đi cái “yếu tố xã hội” để được xem là con người. Chuỗi ngày cực nhục đã cướp đi của Mị sức sống tài năng cướp đi những thất vọng tuổi trẻ những “lúc hồi hộp chờ đợi người yêu”. Lúc nào và bao giờ cũng thế, công việc cứ giăng trải ra trước mặt Mị, cứ những công việc quen thuộc làm đi làm lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp… Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Khổ quá, cái khổ cứ chực bóp nát cuộc đời Mị, thế sao Mị không tự tử chết đi cho rồi? Không được bởi “Mị chết thì bố Mị còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Mị đành trở lại nhà thống lí”.
Cuộc sống trong cái địa ngục khủng khiếp đã bào mòn đi trái tim yêu đời của Mị, giờ đây nó đã trở nên trơ lì, chai sạn. Mị chỉ còn biết vùi đầu vào công việc “lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”. Thế giới của Mị thu vào một “chiếc cửa sổ ô vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Ý thức đã hoàn toàn biến dạng, Mị nhìn ra cuộc đời bằng ô cửa sổ, mà lại chẳng biết gì ngoài ấy thì có phải Mị đã quên mình là con người! Rõ ràng Tô Hoài đã tuân thủ nguyên tắc biện chứng của chủ nghĩa hiện thực một cách nghiêm ngặt: hoàn cảnh đã tác động vào tính cách Mị. Vợ chồng A Phủ chính là một bản cáo trạng đanh thép kết án những bọn cường hào thống lí và Tô Hoài đã mở rộng tấm lòng mình để bao bọc, che chở, bênh vực cho những người phụ nữ miền núi chịu hai tầng bóc lột.
Bức tranh hiện thực được hoàn chỉnh hơn với sự xuất hiện của A Phủ, một chàng trai khỏe mạnh cường tráng, trung thực. Chỉ vì những cuộc ẩu đả thường tình mà A Phủ bị đưa ra xử kiện có phải là vô lí không? Nhưng vấn đề ở chỗ: Người đúng là con dân còn kẻ sai là con quan, hơn nữa, quan lại là người xử kiện. Như thế chẳng biết “công lí” có còn ngự trị nơi quan đường? Chỉ biết rằng A Phủ đang là một con chim xoãi cánh trong bầu trời tự do bỗng chốc bị nhốt trong lồng, bị trở thành nô lệ. Dường như cuộc đời A Phủ có lặp lại ít nhiều những biến thái của cuộc đời Mị. Đó là số phận chung cho những người miền núi thời bấy giờ.
Nhắc đến tác phẩm, người ta nhắc đến tính hiện thực và giá trị nhân đạo. Hiện thực mà chỉ bằng tố cáo phê phán thì còn khiếm khuyết, “nhân đạo” mà chỉ có yêu và ghét thì chưa phải là nhân đạo. Nhà văn cần hiểu nhân vật và tìm ra con đường tất yếu mà nhân vật phải đi. Tính cách nhân vật phát triển theo hoàn cảnh và được Tô Hoài phân tích theo con đường phát triển của tâm lí nhân vật. Thiết nghĩ đây mới là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo độc đáo của tác phẩm. Nhân cách Mị bị tha hóa trong cái địa ngục trần gian là hợp lí, sống cho ra người thì không sống được muốn chết cũng không chết được. Có phải Mị đã ở cái trạng thái “sống dở chết dở”. Rồi Mị phải quen, phải chịu đựng, và trở nên chai lì như một cỗ máy. Liệu Mị có còn lối thoát? Nếu như có một hoàn cảnh đã làm tê liệt ý thức con người thì sẽ có một hoàn cảnh để vực dậy trong lòng họ một sức sống. Nghe như mơ hồ nhưng đó là sự thực. Dòng nước mắt của A Phủ chính là “hoàn cảnh” đã giúp Mị sống dậy. “Lúc ấy đã khuya.Trong nhà đã ngủ yên Mị trở dậy thổi lửa.Ngọn lửa bập bùng sáng lóe Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở.Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bắt gặp dòng nước mắt ấy và nhớ về mình, Mị cũng phải trói đứng thế kia và Mị cũng khóc “nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Dòng nước mắt là sự đồng cảm giữa hai con người. Dòng nước mắt của A Phủ đã làm bỏng rát vết thương trong lòng Mị. Tất cả thôi thúc Mị cởi trói cho A Phủ và cả hai người “lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”. Họ đến lập nghiệp ở Phiềng Sa. Thế rồi chẳng bao lâu sau, cái đồn Tây, lại lù lù xuất hiện, cha con thống lí lại vào ở đó. Trước mắt hai người chỉ còn một sự lựa chọn: trở về kiếp sống nô lệ hay chống kẻ thù. Cách mạng rồi sẽ đến với họ và họ sẽ trở thành người của cách mạng.
Muốn phân biệt giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là điều không phải dễ. Thực ra, cả hai hòa quyện vào nhau, đan xen vào nhau. Có ghét nhà văn mới tố cáo bọn thống lí Pá Tra, có thương cảm nhà văn mới viết được những câu văn đầy xúc động, có hiểu nhà văn mới đi sâu vào cuộc sống tâm lí con người. Và Tô Hoài có thong cảm với nhân vật lắm mới có thể xét đoán tinh tế cuộc sống tinh thần của Mị. Những ngày tháng đầu tiên ở nhà thống lí Mị cứ khóc có đến hàng tháng, thế rồi định ăn lá ngón để tự tử vì không chịu nhục. Nhưng vẫn cố sống, sống một cách gượng gạo vì chữ hiếu. Mị cùng kiệt vật chất nhưng không cùng kiệt tình thương, lòng Mị vẫn âm ỉ một khao khát sống khao khát được tự do. Nếu như nhà văn lạnh lùng theo chủ nghĩa hiện thực khách quan thì làm sao nhà văn nắm bắt được cái khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng vẫn “tồn tại đời đời” ấy. Rõ rang nhà văn Tô Hoài tuân theo chủ nghĩa hiện thực nhưng ông tin rằng hoàn cảnh dẫu có khắc nghịêt vẫn không thể vùi dập hoàn toàn nhân tính. Hoàn cảnh tác động tính cách nhưng không giết chết tính cách.
Đề ra: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mỵ thể hiện trong cảnh ngộ từ khi cô bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra.
DÀN Ý PHÂN TÍCH
Khái niệm sức sống tiềm tàng: sức sống tiềm tàng là sức sống nội tại bên trong, có sẵn ở bên trong nhưng bị che lấp, nó như một hòn than âm ỉ cháy trong lớp tro nguội lạnh và khi có điều kiện thì sẽ bùng cháy. Mị giống như cây hoa đào, hoa mận Tây Bắc: trước mùa xuân thì gầy guộc mong manh nhưng lại ẩn chứa một sức sống mãnh liệt ở bên trong để chờ ngày mùa xuân mà bung nở màu hoa đẹp nhất.
•§ Sự tác động của bối cảnh bên ngoài đối với sự trỗi dậy của Mị:
•- Tạo điều kiện cho sự bừng tỉnh sức sống của Mị là Thiên nhiên: Mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài đẹp và gợi cảm biết bao: Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội... Trong các làng Mèo, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, sặc sỡ...tiếng trẻ con nô đùa...Đó chính là một mùa xuân rộn rã âm thanh và màu sắc, là bước đệm cho sự bừng tỉnh của một tâm hồn nguội lạnh.
•- Tạo điều kiện cho sự bừng tỉnh sức sống của Mị là tiếng sáo: "Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi... Đó chính là tín hiệu đêm tình.Chính không gian rộn rã sắc màu cùng tiếng sáo tha thiết đã đánh thức cô Mị ngày xưa. Tiếng sáo như chạm vào nỗi nhớ. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi. Tiếng sáo hối thúc Mị, tiếng sáo như cơn gió thổi bung đi lớp tro tàn nguội lạnh đang phủ lấy tâm hồn Mị. Tiếng sáo nhập vào hồn Mị làm đồng hiện quá khứ tươi đẹp của một cô gái giàu tài năng. Bước nhảy tâm lý đầu tiên của Mị đó là việc Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo " Mày có con trai con gái rồi/Mày đi làm nương/ Ta chưa có con trai con gái/Ta đi tìm người yêu".
•§ Chính tiếng sáo dẫn Mị đến hành động nổi loạn về nhân tính: Uống rượu: " Mị lén lấy hũ rượu. Cứ uống ực từng bát". Mị uống như nuốt cay, nuốt đắng, nuốt hận vào trong. Uống cho quên nhưng lại nhớ. Trong nhà thống lí là tù ngục, ngoài kia là thiên đường tuổi trẻ.
Nhận xét: Rượu chính là - chất men đánh thức phần đời đã mất của Mị. Rượu làm Mị sống lại một quá khứ đầy ắp niềm vui sướng: Ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Sau bao nhiêu năm, giờ đây Mị đã tìm lại được cảm giác ấy bằng hành động " Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo".
•§ Đêm tình mùa xuân cùng với rượu và tiếng sáo đã làm cho Mị thay đổi. Cô gái của ban chiều đã khác cô gái bây giờ. Mị vui lắm "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước". Đó là niềm vui của một kẻ đã tìm lại được mình. Và Mị ý thức được rằng " Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Đúng là bi kịch. Khi một người đàn bà chợt nhận ra mình còn trẻ trong hoàn cảnh trớ trêu này thì đúng là một bi kịch.
•§ Đỉnh điểm của cảm xúc bi kịch ấy là nỗi tủi thân: Mị đã có cuộc sống không hạnh phúc với A Sử. Mị đã sống kiếp ngựa trâu. Đau đớn quá, Mị khát khao "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa". Muốn chết, nghĩa là Mị không còn như trước nữa, Mị muốn phản kháng lại hoàn cảnh. Mị đã không còn chấp nhận cái thực trạng ê chề này.
•§ Từ đó, Mị đi đến quyết định táo bạo: Bỏ nhà đi theo những đám chơi. Đó là một ý định giải thoát lặng lẽ nhưng vô cùng mãnh liệt : Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng" . Ngọn đèn được thắp lên. Ánh sáng của nó đã xua tan cái bóng đêm ảm đạm đang vây quanh Mị, đang thắp lên ngọn lửa trong tâm hồn Mị. Một loạt các hành động gấp gáp được Tô Hoài diễn tả: "Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách...Mị rút thêm cái áo". Đó là nhu cầu làm đẹp bản thân trước lúc đi chơi. Mị làm tất cả, thật bình thản và không hề để ý đến thái độ của A Sử. Chứng tỏ, sức sống mãnh liệt trong Mị đang lớn hơn tất cả. Bóng ma thần quyền cũng không thể lớn hơn sức sống của Mị.
•§ Ý định giải thoát của Mị không thành khi A Sử trở về: Hắn thẳng tay vùi dập tàn nhẫn sự trỗi dậy đó : Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa...
•§ Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác Mị chứ không trói được tâm hồn của Mị bởi tâm hồn Mị đang tự do dạo chơi trong thế giới của khát vọng sống : Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi... Mị khôngbiết mình bị trói nghĩa là cô không sống bằng thể xác nữa mà thực sự đang sống bằng tâm hồn và tiếng sáo gọi bạn tình đã nhập vào hồn Mị, Mị vui sướng quá đến nỗi "vùng bước đi". Và thực sự cô chỉ tỉnh khi "tay chân đau không cựa được". Tỉnh rồi mới thấy lòng cay đắng " Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa".
•§ Cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thoát khỏi căn nhà ấy, dù chỉ một phút giây. Nhưng Mị đã không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nơi xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do. Vì thế, khi bị A Sử trói, lúc bàng hoàng tỉnh, Mị chợt nhớ đến câu chuyện một người đàn bà trong nhà này bị trói đến chết không ai hay. Và Mị đã sợ " Mị cựa quậy xem mình còn sống hay chết". Mị còn muốn sống nghĩa là Mị còn ham sống. Lòng yêu đời trong cô gái Mèo ấy chưa hẳn là đã nguội tắt.
•Ø Cuộc trỗi dậy như một đợt sóng dâng lên rồi tràn ra. Nó không làm mảy may thay đổi cuộc đời Mị. Nhưng từ đó, sóng ngầm vẫn không mất. Nó sẽ tuôn trào thành những đợt sóng mới, mãnh liệt hơn lúc nào hết, bằng chứng là hành động cởi trói cho A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài sau này.
Sau đó một năm, Sức sống của Mị lại một lần nữa trỗi dậy đó là cảnh cởi trói cho A Phủ.
•§ Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ
A Phủ vì đánh con quan nên bị phạt vạ trở thành nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra. Mị và AP đồng cảnh ngộ: đều là thân phận nô lệ vì chính sách cho vay nặng lãi. Vì để hổ bắt mất một con bò nên AP phải chịu trói. Cha con nhà thống lí đã trói AP vào cái cọc đóng ở giữa nhà bằng dây mây. AP đang rơi vào tình trạng: chết đau, chết đói, chết rét.
Diễn biến:
Lúc đầu: Mùa đông rẻo cao rét buốt. Đêm nào Mị cũng thức dậy thổi lửa hơ tay. Những gì xảy ra xung quanh, Mị không cần biết, không đoái hoài, không quan tâm. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước. Mị vẫn thừa biết A Phủ đang bị trói trên cái cọc đó, mỗi lần thổi lửa Mị vẫn thấy hai mắt AP mở trừng trừng. Nhưng " nếu AP là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi". Nghĩa là Mị vô cảm. Mị mất luôn cả cái tình thương người mà bất cứ ở người phụ nữ nào cũng có. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Lửa cũng cô đơn, Mị cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy thức cùng nhau trong băng giá.
Sau đó:
•§ Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang và nhìn thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ. Dòng nước mắt ấy là nước mắt của kẻ đang hấp hối, nước mắt của một thân phận nô lệ đang bất lực trước số phận. Và giọt nước mắt ấy đã làm tan đi giá băng của trái tim Mị. Đã thức dậy trong Mị lòng thương người cùng cảnh ngộ. Trái tim Mị quặn đau khi " trông người lại ngẫm đến mình". Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được.
•§ Từ đó Mị nhận thức rõ và căm thù sự độc ác của nhà Thống lí Pá Tra: Mị thốt lên "Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này". Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí "Chúng nó thật độc ác". Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình ghánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại ở đây.
•§ Từ lòng thương người và lòng căm thù, Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ xa : Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi... Người kia việc gì phải chết?. Mị nhìn thấy được sự phi lí của số phận A Phủ. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người thức dậy trong Mị và đang hình thành hành động.
•§ Mị tưởng tượng rằng " Nếu Mị cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra biết được, sẽ trói Mị thay vào đấy và cô lại phải chết trên cái cọc ấy". Nhưng Mị không sợ, điều gì đã làm cho Mị không sợ hãi. Phải chăng đó là :Lòng thương người. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ " Mị lấy con dao chấu nhỏ, cắt từng nút dây mây". Cuối cùng thì Mị đã cởi trói cho A Phủ. Đó là cuộc trỗi dậy mang tính tự phát.
•§ Từ cứu người đến cứu mình: Mị cởi trói cho AP cũng chính là cởi trói cho cuộc đời mình.
Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị hốt hoảng. Ngay sau đó Mị đứng lặng trong bóng tối với bao dằng xé nội tâm. " Ở lại hay chạy trốn - Sống hay chết - tự do hay không tự do" . Cuối cùng Mị đã có sự lựa chọn đúng đắn khi mà khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, cũng có nghĩa là chạy thoát cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng của tự do. Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc " A Phủ cho tui đi! Ở đây thì chết mất". Đó là câu nói thể hiện lòng ham sống, khát vọng tự do đến mãnh liệt trong Mị.
•Ø Như vậy, diễn biến hành động cuả nhân vật Mị đi từ tự phát đến tự giác, tự cứu mình và đến với cách mạng sau này như là điều tất yếu.
•§ Kết luận:
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.
Nghệ thuật:
- Nghệ thuật trần thuật, miêu tả, cách dựng bối cảnh truyện sinh động hấp dẫn. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, dễ hiểu.
- Bút pháp hiện thực sắc sảo, nghệ thuật phân tích tâm lí tinh tế và tinh thần nhân đạo sâu sắc, Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị, đặc biệt là miêu tả tâm trạng và hành động cuả nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm cứu A Phủ.
Nguồn : GV Phan Danh Hiếu (Tổ trưởng Tổ Ngữ văn THPT Bùi Thị Xuân. Biên Hòa. Đồng Nai)