Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Luận văn triết học quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Mở đầu 2
Chương I: Lý luận chung về nhà nước và nhà nước xã hội chủ nghĩa 5
1.1 Nguồn gốc, bản chất, chức năng và các kiểu nhà nước trong lịch sử 5
1.1.1 Nguồn gốc của nhà nước 5
1.1.2 Bản chất của nhà nước 8
1.1.3 Chức năng của nhà nước 9
1.1.4 Các kiểu nhà nước trong lịch sử 12
1.2 Nhà nước xã hội chủ nghĩa – một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử phát triển
của nhân loại 15
1.2.1 Tính tất yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa 15
1.2.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa 17
1.2.3 Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa 19
Chương II: Thực trạng và giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay 27
2.1 Thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay 27
2.1.1 Thành tựu 27
2.1.2 Hạn chế 32
2.2 Một số giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam trong thời gian sắp tới 33
2.2.1 Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp, giám sát tối cao của Quốc hội
đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước 33
2.2.2 Cải cách nền hành chính nhà nước 37
2.2.3 Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy
nhà nước 42
2.2.4 Xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật 48
2.2.5 Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát
của nhân dân đối với các tổ chức trong bộ máy nhà nước 54
Kết luận 60
Tài liệu tham khảo 63
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình lãnh đạo và xây dựng Nhà nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ truyền thống dân tộc và đặc điểm Việt Nam, vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về nhà nước cách mạng. Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại về nhà nước pháp quyền và kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới, từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc và nhân văn, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Hiến pháp 1992 sửa đổi đã thể chế hóa nghị quyết Đại hội Đảng nhấn mạnh “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, một đạo luật cơ bản chính thức ghi nhận Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước thực hiện việc quản lí xã hội bằng pháp luật, không ngừng phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế khách quan mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Những năm gần đây, Việt Nam đã và đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây cũng là quá trình tạo dựng những nền tảng quan trọng cho sự đồng thuận theo tư tưởng phát triển của thời kỳ mới đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra nhằm đạt tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đối với sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước nên tui chọn đề tài “ Quan điểm Chủ nghĩa Mác –Lênin về nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Liên quan đến đề tài này đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà lý luận ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau.
- Nguyễn Thị Doan, “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc và nhân đạo”, Tạp chí Cộng sản, số 803 ( 9/2009 ).
- Lê Xuân Hựu, “Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, Tạp chí Cộng sản, số 61 (2004)
- Nguyễn Duy Quý, “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 11 (11/2007) .
- Trần Thành, “Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4 (2003).
- Nguyễn Đăng Thông, “Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (1/2006).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở phân tích nghiên cứu vấn đề nhà nước và đi sâu phân tích việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta trong thời gian qua nhằm đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện bộ máy pháp quyền của nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ: Đưa ra các giải pháp góp phần xây dựng hoàn thiện bộ máy pháp quyền của nước ta theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Vấn đề Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam thời gian qua và sắp tới.
Về phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu những vấn đề cơ bản liên quan đến Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cụ thể sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử và lôgic
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp đối chiếu và so sánh.
6. Đóng góp của đề tài
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập, tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề nhà nước.
Khóa luận đã đưa ra các giải pháp góp phần xây dựng hoàn thiện bộ máy pháp quyền của nước ta theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa luận gồm 2 chương và 4 tiết.
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Nguồn gốc, bản chất, chức năng và các kiểu nhà nước trong lịch sử
1.1.1. Nguồn gốc của Nhà nước
Vấn đề Nhà nước luôn luôn là tâm điểm của những cuộc đấu tranh về mặt lý luận lẫn thực tiễn diễn ra trong suốt quá trình tồn tại và phát triển từ khi xã hội loài người xuất hiện giai cấp.
Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về Nhà nước. Thomas Aquin (1225-1275), nhà triết học và thần học thời kì trung cổ ở châu Âu, cho rằng nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, phản ánh quyền lực mang tính siêu nhiên. Nhà nước mang “thần tính”; do vậy phục tùng nhà nước chính là phục tùng quyền lực của thượng đế. Thuyết “gia trưởng” quan niệm nhà nước như là sự phát triển của các quan hệ gia đình. Quyền lực nhà nước được ví như quyền lực của người cha đối với con cái. Vì vậy, quyền lực của nhà nước là tối thượng, tuyệt đối, vượt trên mọi lợi ích của phe nhóm, cục bộ. Nhà nước không bao hàm bản chất giai cấp.
Trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ phong kiến bảo thủ, hà khắc, các nhà tư tưởng của chủ nghĩa tư bản đã đưa ra các học thuyết về nguồn gốc và bản chất của nhà nước để phản ánh tư tưởng về tự do bình đẳng bác ái. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà lý luận tư sản vẫn chưa đưa ra được lời giải thích căn bản về cơ sở kinh tế, xã hội của nhà nước và do vậy, chưa làm rõ được một cách khoa học về nguồn gốc hình thành và bản chất của nhà nước.
Vào những năm 40 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời đã xây dựng một học thuyết mới về nhà nước. Tiền đề của học thuyết này là xem nhà nước như một hiện tượng lịch sử, xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Trong nhiều tác phẩm của mình, tập trung nhất là các tác phẩm Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Nhà nước và cách mạng, Chủ nghĩa Mác và vấn đề nhà nước…, các nhà kinh điển đã chứng minh rằng không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không có nhà nuớc. Phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp, tổ chức đầu tiên của xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ là thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là những tộc trưởng do nhân dân bầu ra. Quyền lực của người đứng đầu những cơ quan quản lý xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín. Quyền hành và chức năng của cơ quan lãnh đạo trong thời kì đó chưa mang tính chính trị.
Trong thị tộc, bộ lạc khi đó chưa hình thành một tổ chức quyền lực chính trị nào để cai quản công việc chung. Ph.Ăngghen viết: “khi ở trong bộ lạc, mọi thành viên nam giới đến tưổi thành niên đều là chiến binh thì vẫn chưa có một quyền lực công cộng tách khỏi nhân dân và có thể đứng đối lập với nhân dân” [1; tr.159]. “Do nhu cầu tồn tại của thị tộc, bộ lạc, nhân dân phải bầu ra thủ lĩnh quân sự. Ngoài những chức năng quân sự của mình ra, người thủ lĩnh quân sự còn phải có chức năng tế lễ và tư pháp nữa; những chức năng tư pháp và tế lễ không được quy định một cách chính xác, còn chức năng quân sự thì người thủ lĩnh quân sự thực hành với tư cách là đại biểu tối cao của bộ lạc, hay của liên minh bộ lạc” [10; tr.162].
Các thủ lĩnh quân sự không phải là người cai trị. Họ không có quyền, đặc lợi cá nhân, không bắt nhân dân phục vụ lợi ích riêng. Họ hoàn toàn thực hiện vai trò của mình theo ý chí và quyết định của nhân dân. Như vậy, thể chế xã hội trong thời kì cộng sản nguyên thuỷ là chế độ tự quản của nhân dân. Tuy chưa có nhà nước nhưng xã hội rất có trật tự vì nó được vận hành bằng tinh thần tự giác của cả cộng đồng. Nhận xét về xã hội đó, Ph.Ăngghen viết: “Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc vua chúa, tổng đốc trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không có những nhiệm vụ xử án, thế mà mọi việc đều trôi chảy.” [1; tr.146].
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp, chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã. Ph.Ăngghen cho rằng sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ dẫn tới nhà nước ra đời là bởi các lý do sau:
Thứ nhất, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động vào cuối thời kì nguyên thuỷ mà đặc trưng là việc thay thế công cụ bằng đá sang công cụ bằng kim loại, đã mở ra khả năng tiến hành sản xuất tương đối độc lập theo nhóm nhỏ hay đơn vị gia đình, sở hữu chung trở thành vật cản đối với sự phát triển của sản xuất. Hơn nữa, với công cụ sản xuất đó người ta có thể làm ra lượng sản phẩm tiêu dùng nhiều hơn so với nhu cầu tối thiểu cho sự tồn tại của mình. Điều này làm cho sự bình đẳng trong xã hội bị chấm dứt và hình thành những nhóm người có quyền lợi ban đầu là khác nhau, sau đó là xung đột nhau. Xã hội bắt đầu phân hoá thành kẻ giàu người nghèo, đó là cơ sở khách quan làm cho những người có chức, có quyền trong công xã nảy sinh khát vọng chiếm đoạt sản phẩm lao động của người khác.
Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến các hệ quả là: chế độ sở hữu công cộng bị thay thế bởi chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất; xã hội loài người lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện chế độ người bóc lột người.
Thứ hai, do sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dùng đã làm nảy sinh ở những kẻ có quyền lực lòng tham muốn chiếm đoạt để làm của riêng. Họ sử dụng mọi quyền lực có trong tay để thực hiện tham vọng đó. Đây là nguyên nhân thúc đẩy phân hoá xã hội. Giai cấp xuất hiện và sự đối kháng, mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột với giai cấp bị bóc lột ngày càng trở nên gay gắt và sâu sắc.
Thứ ba, do nạn chiến tranh, cướp bóc giữa các bộ lạc, thị tộc làm cho quyền lực của các thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường. Cùng với sự ra đời của chế độ phụ quyền, người trong một gia đình có quyền thừa kế chức thủ lĩnh quân sự, điều đó làm cho của cải, địa vị xã hội của họ gia tăng và càng ngày càng được củng cố, mở rộng. Họ bóc lột nhân dân ngày càng thậm tệ, họ trở thành lực lượng đối lập với nhân dân.
Thứ tư, đó chính là cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ của nó trong nhân dân, các tổ chức đó thành cơ quan đối lập, thống trị và áp bức nhân dân.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người lần đầu tiên xuất hiện hai giai cấp đối kháng đó là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Điều này dẫn đến nguy cơ chẳng những các giai cấp này tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để bảo vệ quyền lợi của mình thì các thế lực nắm quyền về kinh tế lập ra một bộ máy bạo lực để trấn áp các thế lực chống đối khác, hướng xã hội phát triển theo quan niệm và lợi ích của giai cấp thống trị đó chính là nhà nước. Đây là một cơ quan quyền lực với một thiết chế có tiền thân từ những tổ chức phi chính trị xuất hiện ngay trong xã hội thị tộc, bộ lạc. Trong xã hội thị tộc, bộ lạc đã xuất hiện những thiết chế có chức năng bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng; giờ đây, xuất hiện giai cấp, các thiết chế đó trở thành công cụ bảo vệ lợi ích của một giai cấp. Từ chỗ là tui tớ của xã hội nó trở thành chủ nhân, trở thành kẻ thống trị toàn xã hội.
Như vậy, sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc, không thể điều hoà được. Theo Lênin: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được ” [10; tr.9]. “Giai cấp bóc lột không thể duy trì được sự bóc lột nếu không dựa vào bộ máy bạo lực, bộ phận của nó chủ yếu là những đội vũ trang đặc biệt để trấn áp giai cấp bị bóc lột. Trong điều kiện đấu tranh giai cấp trở nên gay gắt, những tổ chức này không còn phù hợp nên nó được thay thế bằng thiết chế nhà nước” [10; tr.9].
Nhà nước xuất hiện và tồn tại là một tất yếu khách quan của lịch sử không phải do ý muốn chủ quan của riêng ai hay của một giai cấp nào. Sự ra đời của nhà nước là để chống lại sự đối kháng giai cấp, để làm dịu sự đối kháng giai cấp, làm cho sự xung đột giai cấp diễn ra trong vòng trật tự; trât tự ấy là điều cần thiết để duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác. Nhà nước “đó là sự kiến lập một trật tự, trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp”[10; tr.10]. Đương nhiên, cơ sở của tính tất yếu nói trên, lực lượng lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước phải là giai cấp có thế lực nhất – giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Nói cách khác, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác.
1.1.2 Bản chất của nhà nước
Nhà nước là cơ quan thống trị của giai cấp, là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế. Lênin viết: “Theo Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của giai cấp này với một giai cấp khác, đó là một sự kiến lập ra một “trật tự” trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp”[11. tr10].
Như vậy, lực lượng lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước phải là giai cấp có quyền lực nhất, đó là giai cấp thống trị về kinh tế. Nói cách khác, nhà nước được giai cấp thống trị về kinh tế lập ra nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác. Và thông qua nhà nước giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, do đó có thêm phương tiện mới để đàn áp, bóc lột giai cấp bị trị.
Tóm lại, nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp không có và không thể có nhà nước đứng trên giai cấp, hay nhà nước chung của nhiều giai cấp. Tuy nhiên, cũng có trường hợp nhà nước giữ được một mức độ độc lập nào đó với cả hai giai cấp đối diện, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân bằng nhất định; hay nhà nước cũng có thể là sản phẩm của sự thoả hiệp về quyền lợi tạm thời giữa một số giai cấp để chống lại một giai cấp khác. Những trường hợp trên là có tính ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung và cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng sẽ phá vỡ thế cân bằng giữa các giai cấp thù địch nhau. Khi đó quyền lực nhà nước sẽ tập trung vào tay một giai cấp.
Thực tế lịch sử mang lại nhiều bằng chứng nói lên rằng, dù được che dấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị, cũng chỉ là bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác.
Nhà nước là quyền lực chính trị của một giai cấp. Nhưng giai cấp nắm chính quyền nhà nước lại nhân danh xã hội để điều hành và quản lý xã hội. Do đó, nhà nước trong thực tế tồn tại như một công quyền, như một quyền lực công cộng. Vì vậy, nhà nước không những có tính giai cấp, mà còn mang tính xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó. Chức năng xã hội bắt nguồn từ nhiệm vụ phải giải quyết những công việc chung của xã hội. Tuy nhiên ở đây cần phân biệt những chức năng xã hội không có tính chất chính trị theo kiểu các cơ quan thị tộc, bộ lạc đảm nhiệm với chức năng xã hội do nhà nước thực hiện. Nhà nước thực hiện chức năng xã hội trong mối liên hệ mật thiết với chức năng giai cấp. Hơn nữa, chức năng xã hội còn là cơ sở cho sự thống trị giai cấp. Khi nhà nước nằm trong tay “giai cấp đại biểu cho toàn thể xã hội trong thời đại của mình”, nghĩa là trong tay giai cấp đang đóng vai trò tiến bộ và cách mạng, thì tính tích cực của chức năng xã hội biểu hiện càng rõ rệt.
1.1.3 Chức năng của nhà nước
Khi tiếp cận với nhà nước từ góc độ khác nhau, người ta có thể phân chia các chức năng của nhà nước thành những loại khác nhau. Tất cả chức năng khác nhau đó đều là những cái vốn có của nhà nước. Khi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng là công cụ thống trị chính trị của giai cấp và thực hiện chức năng xã hội mà giai cấp thống trị cần làm. Khi xem xét phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Nói về mối quan hệ biện chứng giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội, Ph.Ăngghen viết: “ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài từng nào đó nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó”[2; tr.253].
1.1.3.1 Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp nói lên rằng bất kì nhà nước nào cũng là công cụ chuyên chính của một giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, mọi biện pháp có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó.
Chức năng xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ bất kì nhà nước nào cũng phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của cả xã hội, phải thực hiện một số công việc chung của toàn xã hội, trong một giới hạn nào đó nó phải thoả mãn một số nhu cầu của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước đều xuất phát từ nguồn gốc ra đời của nhà nước. Hai chức năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong xã hội có giai cấp đối kháng để giữ vững công cụ thống trị trong tay thì giai cấp thống trị nào cũng phải nhân danh xã hội mà quản lý công việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vòng trật tự theo quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nói cách khác, việc thực hiện chức năng xã hội theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là cách là điều kiện để nhà nước đó thực hiện được vai trò giai cấp thống trị của mình. Điều đó được Ph. Ăngghen giải thích: “nhà nước là đại biểu chính thức của toàn xã hội chỉ trong chừng mực nó là nhà nước của bản thân giai cấp thay mặt cho toàn xã hội trong thời kì tương ứng”.
Như vậy, chức năng thống trị giai cấp giữ vị trí chi phối phương hướng và mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Khi xã hội không còn giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã hội sẽ do xã hội tự đảm nhiệm; và khi đó chế độ tự quản của nhân dân được xác lập.
1.1.3.2 Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động thể hiện quyền lực của nhà nước bên trong lãnh thổ quốc gia nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích giai cấp cầm quyền dù lợi ích đó đã được luật hoá hay chưa. Với chức năng này, nhà nước tiến hành các công việc như:
- Giữ gìn an ninh, trật tự xã hội, trấn áp các thế lực chống đối.
- Quản lý về kinh tế, giáo dục, văn hoá…
- Thông tin, tuyên truyền hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại là những mặt hoạt động thể hiện quan hệ của một nhà nước đối với các nhà nước khác trên trường quốc tế. tuỳ từng trường hợp vào bản chất của nhà nước, vào tương quan lực lượng cũng như vị trí của quốc gia trên trường quốc tế, mà nội dung chức năng này có thể là việc tổ chức phòng thủ đất nước, chống ngoại xâm, cũng có thể là việc mở rộng lãnh thổ bằng cách phát động chiến tranh xâm lược, tìm kiếm thị trường, thuộc địa. Ngày nay trong xu thế hoà bình, hợp tác, chức năng đối ngoại thể hiện ở việc tổ chức, thực hiện các quan hệ hợp tác song phương hay đa phương về nhiều mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa..); sự gia nhập vào tổ chức quốc tế và khu vực. Hội nhập và toàn cầu hoá trở thành những nhân tố chi phối đường lối đối nội lẫn đối ngoại của các nhà nước.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại về cơ bản luôn thể hiện tính giai cấp. Nghĩa là hoạt động diễn ra trong hai lĩnh vực trên đều là hoạt động có tính định hướng, phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là mọi hoạt động của nhà nước đều chỉ đơn thuần phản ánh lợi ích giai cấp, khi nghiên cứu lịch sử chúng ta có thể thấy, trong bất kì nhà nước nào, ngoài những chức năng mang tính giai cấp ra, còn phải thực hiện những hoạt động mang tính xã hội khác: Chẳng hạn, duy trì trật tự cộng đồng, phát triển giao thông, xây dựng nhà ở, mở mang các hệ thống thuỷ lợi, khai hoang, phát triển giáo dục…Đây là những đòi hỏi khách quan của xã hội đối với nhà nước, mà muốn đứng vững nhà nước nào cũng phải thực hiện.
Chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước là hai mặt của một thể thống nhất. Chức năng đối nội là chủ yếu, bởi vì nhà nước ra đời và tồn tại do cơ cấu giai cấp bên trong của mỗi quốc gia quy định; sự thống trị của mỗi giai cấp được thực hiện trên địa bàn mỗi quốc gia dân tộc. Lợi ích của giai cấp thống trị trước hết và chủ yếu là duy trì địa vị cai trị nhân dân trong nước. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại, ngược lại, tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ đến chức năng đối nội của nhà nước.
Mối liên hệ nêu trên càng mật thiết hơn trong thời đại ngày nay, khi quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội ngày càng tăng lên, việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước ngày càng có vị trí quan trọng. Sức mạnh của một quốc gia, những điều kiện và tiền đề để giải quyết những vấn đề nội tại của đất nước một phần đáng kể được hình thành trong quan hệ với các quốc gia khác.
1.1.4 Các kiểu nhà nước trong lịch sử
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ tổng thể các dấu hiệu cơ bản, đặc thù của một nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại phát triển của nhà nước, gắn liền với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Cơ sở để xác định các kiểu nhà nước là các yếu tố kinh tế - xã hội tồn tại trong một giai đoạn nhất định. Tính quy luật của sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử là dựa trên nguyên lý phát triển biện chứng của hình thái kinh tế - xã hội, còn cách thực hiện sự thay đổi đó là cách mạng xã hội.
Kiểu tổ chức quyền lực nhà nước được quy định bởi bản chất giai cấp của nó; bởi tính chất và trình độ phát triển của sản xuất, của kinh tế…Theo quan điểm biện chứng, lịch sử xă hội loŕi người trải qua các kiểu nhà nước sau:
sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật và phải được pháp luật bảo đảm”. Cụ thể hoá định hướng trên, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020, Đảng xác định: “Hoàn thiện và thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở”. Và để phát huy hơn nữa quyền dân chủ của người dân, đảm bảo nguyên tắc “dân làm chủ” thì chúng ta cần tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với Nhà nước nói riêng và cả hệ thống chính trị nói chung.
Trong nhiều văn kiện, nghị quyết, Đảng ta đã nhấn mạnh đến vai trò kiểm tra và giám sát của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng chỉ rõ: “Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng lắng nghe ý kiến của dân, chịu sự giám sát của dân”[8; tr.328]. Văn kiện Đại hội IX của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Nâng cao việc giám sát của công dân đối với các hoạt động của các cơ quan nhà nước”[8; tr.848]. Đại hội X của Đảng đã bổ sung: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân”[9; tr.128] và: “Hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở; phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và các cơ quan công quyền”[9; tr.129].
Trong một số bài viết của Chủ tịch hồ Chí Minh lúc sinh thời cũng đề cập đến tầm quan trọng của công tác giám sát nói chung và hoạt động giám sát nói riêng. Người nói: “Kiểm soát khéo bao nhiêu, khuyết điểm lòi ra hết”. Bên cạnh việc phát huy vai trò đôn đốc, kiểm soát của các tổ chức đảng, Bác lưu ý các cấp lãnh đạo và đảng viên phải khơi dậy, khai thác sức mạnh của quần chúng trong giám sát. Người cho rằng: “Mọi công tác phải dựa hẳn vào quần chúng hoan nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra”, đồng thời muốn giám sát có hiệu quả thì phải: “Làm từ dưới lên, tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cách sửa chữa những sai lầm đó”. Theo Bác, việc động viên, khuyến khích nhân dân tham gia kiểm tra, đôn đốc, giám sát mọi công việc của Đảng và Nhà nước là thiết thực góp phần nâng cao dân trí, mở rộng dân quyền, qua đó thường xuyên củng cố và góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 7-7-2003 của Chính phủ về “Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã”, chương V có tiêu đề: “Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra”. Chương này quy định 11 việc mà nhân dân được giám sát, kiểm tra và 5 cách thực hiện những việc nhân dân giám sát, kiểm tra. Như vậy, quyền giám sát gắn liền với quyền kiểm tra của nhân dân được khẳng định dứt khoát và thể hiện rất chi tiết, rõ ràng ở Nghị định quan trọng này của Chính phủ.
Xét về lôgíc phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải đảm bảo được yếu tố dân giám sát thì nội dung Quy chế dân chủ ở cơ sở mới hoàn thiện. Người dân được biết, được bàn được làm là điều quan trọng và cần thiết nhưng chưa toàn diện, mà người dân còn phải được kiểm tra, giám sát. Có quyền giám sát, thì quyền kiểm tra mới có giá trị và vai trò làm chủ của người dân mới được tôn trọng và phát huy trong thực tế. Cũng có thể nói rằng, quyền kiểm tra, giám sát chính là “nhịp cầu gắn kết” giữa quyền được biết, được bàn, được làm. Nếu thiếu nó, giá trị dân chủ chưa toàn diện và vị trí là chủ, và làm chủ của người dân không được thực hiện đến nơi đến chốn.
Thực tế cho thấy, những năm gần đây tình hình quan liêu, tham nhũng, lãng phí, và một số biểu hiện tiêu cực khác của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức đã và đang là vấn đề xã hội nhức nhối và gây bức xúc trong dư luận. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đáng buồn này là nhiều nơi chưa coi trọng vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân. Do vậy, động viên khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người dân được tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy đảng, chính quyền, và giám sát cán bộ, công chức là một trong những biện pháp ngăn ngừa phòng chống quan liêu, tham nhũng và các tiêu cực khác có hiệu quả. Vì kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, người dân càng kiểm tra, giám sát chặt chẽ bao nhiêu, nguy cơ sai phạm của bộ máy công quyền và đội ngũ cán bộ, công chức càng bị hạn chế, đẩy lùi bấy nhiêu.
Coi trọng và phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân càng trở nên cấp thiết vì trong xã hội hiện đại và tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tinh thần dân chủ được coi trọng, đề cao nên người dân càng phải được tạo điều kiện tham gia quản lý xã hội, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của bộ máy công quyền. Đó là đòi hỏi tất yếu để xây dựng Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và đội ngũ cán bộ, công chức thật sự là “công bộc, đầy tớ” trung thành, tận tụy của nhân dân.
Mặt khác, Ngành Kiểm tra Đảng và Thanh tra Chính phủ chỉ thực sự mạnh khi biết khơi dậy và phát huy vai trò, sức mạnh kiểm tra giám sát của các tầng lớp nhân dân ở mọi lúc, mọi nơi.
Như vậy, từ quan điểm, chủ trương của Đảng đến thực tiễn cuộc sống đều khẳng định kiểm tra, giám sát là một trong những quyền cơ bản của công dân dưới chế độ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất nhiên muốn hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân có hiệu quả thiết thực, cần đề ra cơ chế, quy định kiểm tra, giám sát rõ ràng cụ thể để người dân hiểu rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, phạm vi, nội dung kiểm tra, giám sát của mình.
KẾT LUẬN
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, từ khi xuất hiện đến nay, nhà nước luôn luôn thuộc về các thế lực thống trị. Nó là công cụ quan trọng để áp đặt quyền lực chính trị lên toàn xã hội. Vấn đề nhà nước luôn được xem là trung tâm của các cuộc đấu tranh giành quyền lực đã xảy ra trong lịch sử. Sự khác biệt giữa các nhà nước trong lịch sử, có chăng là ở chỗ lực lượng nào nắm nhà nước; mục đích tồn tại của nhà nước là gì; đối tượng nào nhà nước đại diện. Đây là điều thể hiện bản chất giai cấp của nhà nước.
Nhà nước là công cụ quan trọng để giai cấp thống trị duy trì và phát triển quyền lực của mình trong đời sống chính trị - xã hội. Cơ sở của điều này nằm ở chỗ nhà nước là một bộ máy quyền lực chiếm lĩnh hầu hết mọi lĩnh vực xã hội và ở tất cả các cấp độ tổ chức dân cư và lãnh thổ. Quyền lực nhà nước được đảm bảo bằng các thiết chế như quân đội, cảnh sát, toà án, và không hiếm trường hợp trong lịch sử, nhà nước sử dụng bạo lực để đạt được những mục tiêu mà giai cấp thống trị đặt ra.
Trong quá trình hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước giữ vai trò trung tâm của toàn bộ hệ thống chính trị. Pháp luật mà nhà nước ban hành là nhân tố bảo đảm sự hài hoà, tính hệ thống của các bộ phận trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã ra đời mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho nhân dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước ta đã tổ chức, động viên sức mạnh toàn dân tộc, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội với những thành quả to lớn, tỏ rõ sức mạnh của chế độ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với xây dựng, củng cố Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận Dân tộc Giải phóng và chính quyền cách mạng ở vùng giải phóng miền Nam, xây dựng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, góp phần xứng đáng đưa cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đến toàn thắng.
Sau ngày đất nước thống nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cách hoạt động, quản lý của Nhà nước phù hợp cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới quán triệt bài học “lấy dân làm gốc”.
Gần 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Nhà nước ta đã được xây dựng và củng cố vững mạnh gắn với không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị. Ngày càng làm rõ và thực hiện tốt vai trò, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội, xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hoá, chăm lo, cải thiện đời sống của nhân dân; thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, chiến lược bảo vệ Tổ quốc và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo chúng tui rất cần thiết:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất khả thi bảo đảm cả số lượng và chất lượng, có tính ổn định. Phải đảm bảo được nhu cầu của quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Khắc phục sự quan liêu, cồng kềnh kém hiệu lực, tình trạng “vô chính phủ”, “phép vua thua lệ làng”; khắc phục tình trạng tham nhũng, tha hoá trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức nhà nước, kiên quyết trừng trị một cách nghiêm minh những cán bộ (ở bất cứ cương vị nào) trong bộ máy nhà nước đã thoái hoá, biến chất, trù dập, ức hiếp, nhũng nhiễu nhân dân.
- Kiên quyết bãi miễn những ai không đủ đức, tài tương xứng với nhiệm vụ được giao, không được nhân dân tín nhiệm, đồng thời tạo điều kiện và có biện pháp cụ thể để nâng cao trình độ hiểu biết và thực hành pháp luật của nhân dân, nâng cao trình độ văn hoá pháp luật cho mọi công dân.
- Trong tổ chức và hoạt động của mình, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chỉ trên cơ sở đó mới đảm bảo được sự thống nhất tổ chức và hoạt động, phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng xã hội và của từng cá nhân, của cả nước và của từng địa phương, của cả hệ thống bộ máy và từng tổ chức cấu thành nó. Cũng trên cơ sở đó mà mở rộng và tăng cường được khối đại đoàn kết dân tộc, bao gồm các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đồng bào trong nước và nước ngoài, huy động được sức người, sức của, trí tuệ của cả dân tộc vào sự nghiệp xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Luận văn triết học quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê Nin nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
Mở đầu 2
Chương I: Lý luận chung về nhà nước và nhà nước xã hội chủ nghĩa 5
1.1 Nguồn gốc, bản chất, chức năng và các kiểu nhà nước trong lịch sử 5
1.1.1 Nguồn gốc của nhà nước 5
1.1.2 Bản chất của nhà nước 8
1.1.3 Chức năng của nhà nước 9
1.1.4 Các kiểu nhà nước trong lịch sử 12
1.2 Nhà nước xã hội chủ nghĩa – một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử phát triển
của nhân loại 15
1.2.1 Tính tất yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa 15
1.2.2 Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa 17
1.2.3 Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa 19
Chương II: Thực trạng và giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay 27
2.1 Thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay 27
2.1.1 Thành tựu 27
2.1.2 Hạn chế 32
2.2 Một số giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam trong thời gian sắp tới 33
2.2.1 Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp, giám sát tối cao của Quốc hội
đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước 33
2.2.2 Cải cách nền hành chính nhà nước 37
2.2.3 Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu, tham nhũng trong bộ máy
nhà nước 42
2.2.4 Xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật 48
2.2.5 Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát
của nhân dân đối với các tổ chức trong bộ máy nhà nước 54
Kết luận 60
Tài liệu tham khảo 63
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình lãnh đạo và xây dựng Nhà nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ truyền thống dân tộc và đặc điểm Việt Nam, vận dụng sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về nhà nước cách mạng. Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại về nhà nước pháp quyền và kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền của một số nước trên thế giới, từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc và nhân văn, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng, phát triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc.
Hiến pháp 1992 sửa đổi đã thể chế hóa nghị quyết Đại hội Đảng nhấn mạnh “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử, một đạo luật cơ bản chính thức ghi nhận Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước thực hiện việc quản lí xã hội bằng pháp luật, không ngừng phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế khách quan mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Những năm gần đây, Việt Nam đã và đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây cũng là quá trình tạo dựng những nền tảng quan trọng cho sự đồng thuận theo tư tưởng phát triển của thời kỳ mới đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra nhằm đạt tới mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ý thức được tầm quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đối với sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước nên tui chọn đề tài “ Quan điểm Chủ nghĩa Mác –Lênin về nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Liên quan đến đề tài này đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều nhà lý luận ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau.
- Nguyễn Thị Doan, “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, mang đậm nét dân tộc và nhân đạo”, Tạp chí Cộng sản, số 803 ( 9/2009 ).
- Lê Xuân Hựu, “Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, Tạp chí Cộng sản, số 61 (2004)
- Nguyễn Duy Quý, “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 11 (11/2007) .
- Trần Thành, “Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4 (2003).
- Nguyễn Đăng Thông, “Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (1/2006).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở phân tích nghiên cứu vấn đề nhà nước và đi sâu phân tích việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta trong thời gian qua nhằm đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện bộ máy pháp quyền của nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ: Đưa ra các giải pháp góp phần xây dựng hoàn thiện bộ máy pháp quyền của nước ta theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Vấn đề Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam thời gian qua và sắp tới.
Về phạm vi nghiên cứu: Khóa luận nghiên cứu những vấn đề cơ bản liên quan đến Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ở nước ta hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cụ thể sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử và lôgic
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
- Phương pháp đối chiếu và so sánh.
6. Đóng góp của đề tài
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập, tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề nhà nước.
Khóa luận đã đưa ra các giải pháp góp phần xây dựng hoàn thiện bộ máy pháp quyền của nước ta theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của khóa luận gồm 2 chương và 4 tiết.
Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Nguồn gốc, bản chất, chức năng và các kiểu nhà nước trong lịch sử
1.1.1. Nguồn gốc của Nhà nước
Vấn đề Nhà nước luôn luôn là tâm điểm của những cuộc đấu tranh về mặt lý luận lẫn thực tiễn diễn ra trong suốt quá trình tồn tại và phát triển từ khi xã hội loài người xuất hiện giai cấp.
Trong lịch sử đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về Nhà nước. Thomas Aquin (1225-1275), nhà triết học và thần học thời kì trung cổ ở châu Âu, cho rằng nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, phản ánh quyền lực mang tính siêu nhiên. Nhà nước mang “thần tính”; do vậy phục tùng nhà nước chính là phục tùng quyền lực của thượng đế. Thuyết “gia trưởng” quan niệm nhà nước như là sự phát triển của các quan hệ gia đình. Quyền lực nhà nước được ví như quyền lực của người cha đối với con cái. Vì vậy, quyền lực của nhà nước là tối thượng, tuyệt đối, vượt trên mọi lợi ích của phe nhóm, cục bộ. Nhà nước không bao hàm bản chất giai cấp.
Trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ phong kiến bảo thủ, hà khắc, các nhà tư tưởng của chủ nghĩa tư bản đã đưa ra các học thuyết về nguồn gốc và bản chất của nhà nước để phản ánh tư tưởng về tự do bình đẳng bác ái. Tuy nhiên, quan điểm của các nhà lý luận tư sản vẫn chưa đưa ra được lời giải thích căn bản về cơ sở kinh tế, xã hội của nhà nước và do vậy, chưa làm rõ được một cách khoa học về nguồn gốc hình thành và bản chất của nhà nước.
Vào những năm 40 của thế kỉ XIX, chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời đã xây dựng một học thuyết mới về nhà nước. Tiền đề của học thuyết này là xem nhà nước như một hiện tượng lịch sử, xuất hiện và tồn tại trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định.
Trong nhiều tác phẩm của mình, tập trung nhất là các tác phẩm Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước, Nhà nước và cách mạng, Chủ nghĩa Mác và vấn đề nhà nước…, các nhà kinh điển đã chứng minh rằng không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ không có nhà nuớc. Phù hợp với tình trạng kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hoá giai cấp, tổ chức đầu tiên của xã hội trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ là thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các thị tộc, bộ lạc là những tộc trưởng do nhân dân bầu ra. Quyền lực của người đứng đầu những cơ quan quản lý xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín. Quyền hành và chức năng của cơ quan lãnh đạo trong thời kì đó chưa mang tính chính trị.
Trong thị tộc, bộ lạc khi đó chưa hình thành một tổ chức quyền lực chính trị nào để cai quản công việc chung. Ph.Ăngghen viết: “khi ở trong bộ lạc, mọi thành viên nam giới đến tưổi thành niên đều là chiến binh thì vẫn chưa có một quyền lực công cộng tách khỏi nhân dân và có thể đứng đối lập với nhân dân” [1; tr.159]. “Do nhu cầu tồn tại của thị tộc, bộ lạc, nhân dân phải bầu ra thủ lĩnh quân sự. Ngoài những chức năng quân sự của mình ra, người thủ lĩnh quân sự còn phải có chức năng tế lễ và tư pháp nữa; những chức năng tư pháp và tế lễ không được quy định một cách chính xác, còn chức năng quân sự thì người thủ lĩnh quân sự thực hành với tư cách là đại biểu tối cao của bộ lạc, hay của liên minh bộ lạc” [10; tr.162].
Các thủ lĩnh quân sự không phải là người cai trị. Họ không có quyền, đặc lợi cá nhân, không bắt nhân dân phục vụ lợi ích riêng. Họ hoàn toàn thực hiện vai trò của mình theo ý chí và quyết định của nhân dân. Như vậy, thể chế xã hội trong thời kì cộng sản nguyên thuỷ là chế độ tự quản của nhân dân. Tuy chưa có nhà nước nhưng xã hội rất có trật tự vì nó được vận hành bằng tinh thần tự giác của cả cộng đồng. Nhận xét về xã hội đó, Ph.Ăngghen viết: “Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao! Không có quân đội, hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc vua chúa, tổng đốc trưởng quan và quan toà, không có nhà tù, không có những nhiệm vụ xử án, thế mà mọi việc đều trôi chảy.” [1; tr.146].
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp, chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã. Ph.Ăngghen cho rằng sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ dẫn tới nhà nước ra đời là bởi các lý do sau:
Thứ nhất, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động vào cuối thời kì nguyên thuỷ mà đặc trưng là việc thay thế công cụ bằng đá sang công cụ bằng kim loại, đã mở ra khả năng tiến hành sản xuất tương đối độc lập theo nhóm nhỏ hay đơn vị gia đình, sở hữu chung trở thành vật cản đối với sự phát triển của sản xuất. Hơn nữa, với công cụ sản xuất đó người ta có thể làm ra lượng sản phẩm tiêu dùng nhiều hơn so với nhu cầu tối thiểu cho sự tồn tại của mình. Điều này làm cho sự bình đẳng trong xã hội bị chấm dứt và hình thành những nhóm người có quyền lợi ban đầu là khác nhau, sau đó là xung đột nhau. Xã hội bắt đầu phân hoá thành kẻ giàu người nghèo, đó là cơ sở khách quan làm cho những người có chức, có quyền trong công xã nảy sinh khát vọng chiếm đoạt sản phẩm lao động của người khác.
Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến các hệ quả là: chế độ sở hữu công cộng bị thay thế bởi chế độ sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất; xã hội loài người lần đầu tiên trong lịch sử xuất hiện chế độ người bóc lột người.
Thứ hai, do sự dư thừa tương đối sản phẩm tiêu dùng đã làm nảy sinh ở những kẻ có quyền lực lòng tham muốn chiếm đoạt để làm của riêng. Họ sử dụng mọi quyền lực có trong tay để thực hiện tham vọng đó. Đây là nguyên nhân thúc đẩy phân hoá xã hội. Giai cấp xuất hiện và sự đối kháng, mâu thuẫn giữa giai cấp bóc lột với giai cấp bị bóc lột ngày càng trở nên gay gắt và sâu sắc.
Thứ ba, do nạn chiến tranh, cướp bóc giữa các bộ lạc, thị tộc làm cho quyền lực của các thủ lĩnh quân sự được củng cố và tăng cường. Cùng với sự ra đời của chế độ phụ quyền, người trong một gia đình có quyền thừa kế chức thủ lĩnh quân sự, điều đó làm cho của cải, địa vị xã hội của họ gia tăng và càng ngày càng được củng cố, mở rộng. Họ bóc lột nhân dân ngày càng thậm tệ, họ trở thành lực lượng đối lập với nhân dân.
Thứ tư, đó chính là cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần dần thoát khỏi gốc rễ của nó trong nhân dân, các tổ chức đó thành cơ quan đối lập, thống trị và áp bức nhân dân.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người lần đầu tiên xuất hiện hai giai cấp đối kháng đó là giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Điều này dẫn đến nguy cơ chẳng những các giai cấp này tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để bảo vệ quyền lợi của mình thì các thế lực nắm quyền về kinh tế lập ra một bộ máy bạo lực để trấn áp các thế lực chống đối khác, hướng xã hội phát triển theo quan niệm và lợi ích của giai cấp thống trị đó chính là nhà nước. Đây là một cơ quan quyền lực với một thiết chế có tiền thân từ những tổ chức phi chính trị xuất hiện ngay trong xã hội thị tộc, bộ lạc. Trong xã hội thị tộc, bộ lạc đã xuất hiện những thiết chế có chức năng bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng; giờ đây, xuất hiện giai cấp, các thiết chế đó trở thành công cụ bảo vệ lợi ích của một giai cấp. Từ chỗ là tui tớ của xã hội nó trở thành chủ nhân, trở thành kẻ thống trị toàn xã hội.
Như vậy, sự ra đời của nhà nước chứng tỏ rằng mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc, không thể điều hoà được. Theo Lênin: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được ” [10; tr.9]. “Giai cấp bóc lột không thể duy trì được sự bóc lột nếu không dựa vào bộ máy bạo lực, bộ phận của nó chủ yếu là những đội vũ trang đặc biệt để trấn áp giai cấp bị bóc lột. Trong điều kiện đấu tranh giai cấp trở nên gay gắt, những tổ chức này không còn phù hợp nên nó được thay thế bằng thiết chế nhà nước” [10; tr.9].
Nhà nước xuất hiện và tồn tại là một tất yếu khách quan của lịch sử không phải do ý muốn chủ quan của riêng ai hay của một giai cấp nào. Sự ra đời của nhà nước là để chống lại sự đối kháng giai cấp, để làm dịu sự đối kháng giai cấp, làm cho sự xung đột giai cấp diễn ra trong vòng trật tự; trât tự ấy là điều cần thiết để duy trì chế độ kinh tế, trong đó giai cấp này bóc lột giai cấp khác. Nhà nước “đó là sự kiến lập một trật tự, trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp”[10; tr.10]. Đương nhiên, cơ sở của tính tất yếu nói trên, lực lượng lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước phải là giai cấp có thế lực nhất – giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Nói cách khác, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác.
1.1.2 Bản chất của nhà nước
Nhà nước là cơ quan thống trị của giai cấp, là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế. Lênin viết: “Theo Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của giai cấp này với một giai cấp khác, đó là một sự kiến lập ra một “trật tự” trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp”[11. tr10].
Như vậy, lực lượng lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước phải là giai cấp có quyền lực nhất, đó là giai cấp thống trị về kinh tế. Nói cách khác, nhà nước được giai cấp thống trị về kinh tế lập ra nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác. Và thông qua nhà nước giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, do đó có thêm phương tiện mới để đàn áp, bóc lột giai cấp bị trị.
Tóm lại, nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp không có và không thể có nhà nước đứng trên giai cấp, hay nhà nước chung của nhiều giai cấp. Tuy nhiên, cũng có trường hợp nhà nước giữ được một mức độ độc lập nào đó với cả hai giai cấp đối diện, khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt tới thế cân bằng nhất định; hay nhà nước cũng có thể là sản phẩm của sự thoả hiệp về quyền lợi tạm thời giữa một số giai cấp để chống lại một giai cấp khác. Những trường hợp trên là có tính ngoại lệ và tạm thời. Sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung và cuộc đấu tranh giai cấp nói riêng sẽ phá vỡ thế cân bằng giữa các giai cấp thù địch nhau. Khi đó quyền lực nhà nước sẽ tập trung vào tay một giai cấp.
Thực tế lịch sử mang lại nhiều bằng chứng nói lên rằng, dù được che dấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị, cũng chỉ là bộ máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác.
Nhà nước là quyền lực chính trị của một giai cấp. Nhưng giai cấp nắm chính quyền nhà nước lại nhân danh xã hội để điều hành và quản lý xã hội. Do đó, nhà nước trong thực tế tồn tại như một công quyền, như một quyền lực công cộng. Vì vậy, nhà nước không những có tính giai cấp, mà còn mang tính xã hội. Chức năng giai cấp của nhà nước bắt nguồn từ lý do ra đời của nhà nước và tạo thành bản chất chủ yếu của nó. Chức năng xã hội bắt nguồn từ nhiệm vụ phải giải quyết những công việc chung của xã hội. Tuy nhiên ở đây cần phân biệt những chức năng xã hội không có tính chất chính trị theo kiểu các cơ quan thị tộc, bộ lạc đảm nhiệm với chức năng xã hội do nhà nước thực hiện. Nhà nước thực hiện chức năng xã hội trong mối liên hệ mật thiết với chức năng giai cấp. Hơn nữa, chức năng xã hội còn là cơ sở cho sự thống trị giai cấp. Khi nhà nước nằm trong tay “giai cấp đại biểu cho toàn thể xã hội trong thời đại của mình”, nghĩa là trong tay giai cấp đang đóng vai trò tiến bộ và cách mạng, thì tính tích cực của chức năng xã hội biểu hiện càng rõ rệt.
1.1.3 Chức năng của nhà nước
Khi tiếp cận với nhà nước từ góc độ khác nhau, người ta có thể phân chia các chức năng của nhà nước thành những loại khác nhau. Tất cả chức năng khác nhau đó đều là những cái vốn có của nhà nước. Khi xem xét nhà nước từ góc độ tính chất của quyền lực chính trị, nhà nước có chức năng là công cụ thống trị chính trị của giai cấp và thực hiện chức năng xã hội mà giai cấp thống trị cần làm. Khi xem xét phạm vi tác động của quyền lực nhà nước ở tầm vĩ mô, nhà nước có chức năng đối nội và chức năng đối ngoại. Nói về mối quan hệ biện chứng giữa chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội, Ph.Ăngghen viết: “ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài từng nào đó nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó”[2; tr.253].
1.1.3.1 Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp nói lên rằng bất kì nhà nước nào cũng là công cụ chuyên chính của một giai cấp, nó sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, mọi biện pháp có thể có để bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó.
Chức năng xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ bất kì nhà nước nào cũng phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của cả xã hội, phải thực hiện một số công việc chung của toàn xã hội, trong một giới hạn nào đó nó phải thoả mãn một số nhu cầu của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước.
Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội của nhà nước đều xuất phát từ nguồn gốc ra đời của nhà nước. Hai chức năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong xã hội có giai cấp đối kháng để giữ vững công cụ thống trị trong tay thì giai cấp thống trị nào cũng phải nhân danh xã hội mà quản lý công việc chung. Việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề chung của xã hội sẽ tạo điều kiện để duy trì xã hội trong vòng trật tự theo quan điểm và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nói cách khác, việc thực hiện chức năng xã hội theo quan điểm và giới hạn của giai cấp cầm quyền là cách là điều kiện để nhà nước đó thực hiện được vai trò giai cấp thống trị của mình. Điều đó được Ph. Ăngghen giải thích: “nhà nước là đại biểu chính thức của toàn xã hội chỉ trong chừng mực nó là nhà nước của bản thân giai cấp thay mặt cho toàn xã hội trong thời kì tương ứng”.
Như vậy, chức năng thống trị giai cấp giữ vị trí chi phối phương hướng và mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Khi xã hội không còn giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã hội sẽ do xã hội tự đảm nhiệm; và khi đó chế độ tự quản của nhân dân được xác lập.
1.1.3.2 Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại
Chức năng đối nội là những mặt hoạt động thể hiện quyền lực của nhà nước bên trong lãnh thổ quốc gia nhằm duy trì trật tự kinh tế, xã hội, chính trị và những trật tự khác hiện có trong xã hội theo lợi ích giai cấp cầm quyền dù lợi ích đó đã được luật hoá hay chưa. Với chức năng này, nhà nước tiến hành các công việc như:
- Giữ gìn an ninh, trật tự xã hội, trấn áp các thế lực chống đối.
- Quản lý về kinh tế, giáo dục, văn hoá…
- Thông tin, tuyên truyền hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.
Chức năng đối ngoại là những mặt hoạt động thể hiện quan hệ của một nhà nước đối với các nhà nước khác trên trường quốc tế. tuỳ từng trường hợp vào bản chất của nhà nước, vào tương quan lực lượng cũng như vị trí của quốc gia trên trường quốc tế, mà nội dung chức năng này có thể là việc tổ chức phòng thủ đất nước, chống ngoại xâm, cũng có thể là việc mở rộng lãnh thổ bằng cách phát động chiến tranh xâm lược, tìm kiếm thị trường, thuộc địa. Ngày nay trong xu thế hoà bình, hợp tác, chức năng đối ngoại thể hiện ở việc tổ chức, thực hiện các quan hệ hợp tác song phương hay đa phương về nhiều mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa..); sự gia nhập vào tổ chức quốc tế và khu vực. Hội nhập và toàn cầu hoá trở thành những nhân tố chi phối đường lối đối nội lẫn đối ngoại của các nhà nước.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại về cơ bản luôn thể hiện tính giai cấp. Nghĩa là hoạt động diễn ra trong hai lĩnh vực trên đều là hoạt động có tính định hướng, phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là mọi hoạt động của nhà nước đều chỉ đơn thuần phản ánh lợi ích giai cấp, khi nghiên cứu lịch sử chúng ta có thể thấy, trong bất kì nhà nước nào, ngoài những chức năng mang tính giai cấp ra, còn phải thực hiện những hoạt động mang tính xã hội khác: Chẳng hạn, duy trì trật tự cộng đồng, phát triển giao thông, xây dựng nhà ở, mở mang các hệ thống thuỷ lợi, khai hoang, phát triển giáo dục…Đây là những đòi hỏi khách quan của xã hội đối với nhà nước, mà muốn đứng vững nhà nước nào cũng phải thực hiện.
Chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước là hai mặt của một thể thống nhất. Chức năng đối nội là chủ yếu, bởi vì nhà nước ra đời và tồn tại do cơ cấu giai cấp bên trong của mỗi quốc gia quy định; sự thống trị của mỗi giai cấp được thực hiện trên địa bàn mỗi quốc gia dân tộc. Lợi ích của giai cấp thống trị trước hết và chủ yếu là duy trì địa vị cai trị nhân dân trong nước. Tính chất của chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại, ngược lại, tính chất và những nhu cầu của chức năng đối ngoại có tác động mạnh mẽ đến chức năng đối nội của nhà nước.
Mối liên hệ nêu trên càng mật thiết hơn trong thời đại ngày nay, khi quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội ngày càng tăng lên, việc mở rộng chức năng đối ngoại của nhà nước ngày càng có vị trí quan trọng. Sức mạnh của một quốc gia, những điều kiện và tiền đề để giải quyết những vấn đề nội tại của đất nước một phần đáng kể được hình thành trong quan hệ với các quốc gia khác.
1.1.4 Các kiểu nhà nước trong lịch sử
Kiểu nhà nước là khái niệm dùng để chỉ tổng thể các dấu hiệu cơ bản, đặc thù của một nhà nước, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại phát triển của nhà nước, gắn liền với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Cơ sở để xác định các kiểu nhà nước là các yếu tố kinh tế - xã hội tồn tại trong một giai đoạn nhất định. Tính quy luật của sự thay thế các kiểu nhà nước trong lịch sử là dựa trên nguyên lý phát triển biện chứng của hình thái kinh tế - xã hội, còn cách thực hiện sự thay đổi đó là cách mạng xã hội.
Kiểu tổ chức quyền lực nhà nước được quy định bởi bản chất giai cấp của nó; bởi tính chất và trình độ phát triển của sản xuất, của kinh tế…Theo quan điểm biện chứng, lịch sử xă hội loŕi người trải qua các kiểu nhà nước sau:
sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hoá bằng pháp luật và phải được pháp luật bảo đảm”. Cụ thể hoá định hướng trên, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020, Đảng xác định: “Hoàn thiện và thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở”. Và để phát huy hơn nữa quyền dân chủ của người dân, đảm bảo nguyên tắc “dân làm chủ” thì chúng ta cần tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với Nhà nước nói riêng và cả hệ thống chính trị nói chung.
Trong nhiều văn kiện, nghị quyết, Đảng ta đã nhấn mạnh đến vai trò kiểm tra và giám sát của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng chỉ rõ: “Nhà nước có mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng lắng nghe ý kiến của dân, chịu sự giám sát của dân”[8; tr.328]. Văn kiện Đại hội IX của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Nâng cao việc giám sát của công dân đối với các hoạt động của các cơ quan nhà nước”[8; tr.848]. Đại hội X của Đảng đã bổ sung: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện cơ chế giám sát của nhân dân”[9; tr.128] và: “Hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở; phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức và các cơ quan công quyền”[9; tr.129].
Trong một số bài viết của Chủ tịch hồ Chí Minh lúc sinh thời cũng đề cập đến tầm quan trọng của công tác giám sát nói chung và hoạt động giám sát nói riêng. Người nói: “Kiểm soát khéo bao nhiêu, khuyết điểm lòi ra hết”. Bên cạnh việc phát huy vai trò đôn đốc, kiểm soát của các tổ chức đảng, Bác lưu ý các cấp lãnh đạo và đảng viên phải khơi dậy, khai thác sức mạnh của quần chúng trong giám sát. Người cho rằng: “Mọi công tác phải dựa hẳn vào quần chúng hoan nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra”, đồng thời muốn giám sát có hiệu quả thì phải: “Làm từ dưới lên, tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cách sửa chữa những sai lầm đó”. Theo Bác, việc động viên, khuyến khích nhân dân tham gia kiểm tra, đôn đốc, giám sát mọi công việc của Đảng và Nhà nước là thiết thực góp phần nâng cao dân trí, mở rộng dân quyền, qua đó thường xuyên củng cố và góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 7-7-2003 của Chính phủ về “Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã”, chương V có tiêu đề: “Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra”. Chương này quy định 11 việc mà nhân dân được giám sát, kiểm tra và 5 cách thực hiện những việc nhân dân giám sát, kiểm tra. Như vậy, quyền giám sát gắn liền với quyền kiểm tra của nhân dân được khẳng định dứt khoát và thể hiện rất chi tiết, rõ ràng ở Nghị định quan trọng này của Chính phủ.
Xét về lôgíc phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải đảm bảo được yếu tố dân giám sát thì nội dung Quy chế dân chủ ở cơ sở mới hoàn thiện. Người dân được biết, được bàn được làm là điều quan trọng và cần thiết nhưng chưa toàn diện, mà người dân còn phải được kiểm tra, giám sát. Có quyền giám sát, thì quyền kiểm tra mới có giá trị và vai trò làm chủ của người dân mới được tôn trọng và phát huy trong thực tế. Cũng có thể nói rằng, quyền kiểm tra, giám sát chính là “nhịp cầu gắn kết” giữa quyền được biết, được bàn, được làm. Nếu thiếu nó, giá trị dân chủ chưa toàn diện và vị trí là chủ, và làm chủ của người dân không được thực hiện đến nơi đến chốn.
Thực tế cho thấy, những năm gần đây tình hình quan liêu, tham nhũng, lãng phí, và một số biểu hiện tiêu cực khác của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức đã và đang là vấn đề xã hội nhức nhối và gây bức xúc trong dư luận. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đáng buồn này là nhiều nơi chưa coi trọng vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân. Do vậy, động viên khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người dân được tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy đảng, chính quyền, và giám sát cán bộ, công chức là một trong những biện pháp ngăn ngừa phòng chống quan liêu, tham nhũng và các tiêu cực khác có hiệu quả. Vì kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, người dân càng kiểm tra, giám sát chặt chẽ bao nhiêu, nguy cơ sai phạm của bộ máy công quyền và đội ngũ cán bộ, công chức càng bị hạn chế, đẩy lùi bấy nhiêu.
Coi trọng và phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân càng trở nên cấp thiết vì trong xã hội hiện đại và tiến trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tinh thần dân chủ được coi trọng, đề cao nên người dân càng phải được tạo điều kiện tham gia quản lý xã hội, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của bộ máy công quyền. Đó là đòi hỏi tất yếu để xây dựng Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và đội ngũ cán bộ, công chức thật sự là “công bộc, đầy tớ” trung thành, tận tụy của nhân dân.
Mặt khác, Ngành Kiểm tra Đảng và Thanh tra Chính phủ chỉ thực sự mạnh khi biết khơi dậy và phát huy vai trò, sức mạnh kiểm tra giám sát của các tầng lớp nhân dân ở mọi lúc, mọi nơi.
Như vậy, từ quan điểm, chủ trương của Đảng đến thực tiễn cuộc sống đều khẳng định kiểm tra, giám sát là một trong những quyền cơ bản của công dân dưới chế độ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tất nhiên muốn hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân có hiệu quả thiết thực, cần đề ra cơ chế, quy định kiểm tra, giám sát rõ ràng cụ thể để người dân hiểu rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, phạm vi, nội dung kiểm tra, giám sát của mình.
KẾT LUẬN
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, từ khi xuất hiện đến nay, nhà nước luôn luôn thuộc về các thế lực thống trị. Nó là công cụ quan trọng để áp đặt quyền lực chính trị lên toàn xã hội. Vấn đề nhà nước luôn được xem là trung tâm của các cuộc đấu tranh giành quyền lực đã xảy ra trong lịch sử. Sự khác biệt giữa các nhà nước trong lịch sử, có chăng là ở chỗ lực lượng nào nắm nhà nước; mục đích tồn tại của nhà nước là gì; đối tượng nào nhà nước đại diện. Đây là điều thể hiện bản chất giai cấp của nhà nước.
Nhà nước là công cụ quan trọng để giai cấp thống trị duy trì và phát triển quyền lực của mình trong đời sống chính trị - xã hội. Cơ sở của điều này nằm ở chỗ nhà nước là một bộ máy quyền lực chiếm lĩnh hầu hết mọi lĩnh vực xã hội và ở tất cả các cấp độ tổ chức dân cư và lãnh thổ. Quyền lực nhà nước được đảm bảo bằng các thiết chế như quân đội, cảnh sát, toà án, và không hiếm trường hợp trong lịch sử, nhà nước sử dụng bạo lực để đạt được những mục tiêu mà giai cấp thống trị đặt ra.
Trong quá trình hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước giữ vai trò trung tâm của toàn bộ hệ thống chính trị. Pháp luật mà nhà nước ban hành là nhân tố bảo đảm sự hài hoà, tính hệ thống của các bộ phận trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã ra đời mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho nhân dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước ta đã tổ chức, động viên sức mạnh toàn dân tộc, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội với những thành quả to lớn, tỏ rõ sức mạnh của chế độ và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với xây dựng, củng cố Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đảng lãnh đạo xây dựng Mặt trận Dân tộc Giải phóng và chính quyền cách mạng ở vùng giải phóng miền Nam, xây dựng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, góp phần xứng đáng đưa cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đến toàn thắng.
Sau ngày đất nước thống nhất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI Đảng Cộng sản Việt Nam (12/1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có đổi mới, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cách hoạt động, quản lý của Nhà nước phù hợp cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý mới quán triệt bài học “lấy dân làm gốc”.
Gần 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Nhà nước ta đã được xây dựng và củng cố vững mạnh gắn với không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị. Ngày càng làm rõ và thực hiện tốt vai trò, chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội, xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hoá, chăm lo, cải thiện đời sống của nhân dân; thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, chiến lược bảo vệ Tổ quốc và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế; không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức bộ máy, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo chúng tui rất cần thiết:
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất khả thi bảo đảm cả số lượng và chất lượng, có tính ổn định. Phải đảm bảo được nhu cầu của quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Khắc phục sự quan liêu, cồng kềnh kém hiệu lực, tình trạng “vô chính phủ”, “phép vua thua lệ làng”; khắc phục tình trạng tham nhũng, tha hoá trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, viên chức nhà nước, kiên quyết trừng trị một cách nghiêm minh những cán bộ (ở bất cứ cương vị nào) trong bộ máy nhà nước đã thoái hoá, biến chất, trù dập, ức hiếp, nhũng nhiễu nhân dân.
- Kiên quyết bãi miễn những ai không đủ đức, tài tương xứng với nhiệm vụ được giao, không được nhân dân tín nhiệm, đồng thời tạo điều kiện và có biện pháp cụ thể để nâng cao trình độ hiểu biết và thực hành pháp luật của nhân dân, nâng cao trình độ văn hoá pháp luật cho mọi công dân.
- Trong tổ chức và hoạt động của mình, quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Chỉ trên cơ sở đó mới đảm bảo được sự thống nhất tổ chức và hoạt động, phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng xã hội và của từng cá nhân, của cả nước và của từng địa phương, của cả hệ thống bộ máy và từng tổ chức cấu thành nó. Cũng trên cơ sở đó mà mở rộng và tăng cường được khối đại đoàn kết dân tộc, bao gồm các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đồng bào trong nước và nước ngoài, huy động được sức người, sức của, trí tuệ của cả dân tộc vào sự nghiệp xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: quan điểm chủ nghĩa mác lê nin tư tưởng HCM, đảng về nhà nước pháp quyền, quan điểm chủ nghĩa mác lênin về nhà nước pháp quyền, quan điểm chủ nghĩa mác lênin về nhà nước, Xây dựng nhà nước pháp quyền theo quan điểm củ chủ nghĩa Mac-Lênin, Quan điểm của triết học Mác – Lênin về nhà nước và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay., xây dựng nhà nước pháp quyền theo chủ nghĩa mác lênin, đảng đã thực hiện chức năng giai cấp như thế nào để xây dựng nhà nước, Bản chất nhà nước pháp quyền theo quan điểm của Mác Lênin, tu tuong mac lenin ve nha nuoc phap quyen xhcn, quan điểm của chủ nghĩa mác - lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa ngắn gọn, quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa, Quan Điểm Của Chủ Nghĩa Mác - Lênin Về Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa, quan điểm của chủ nghĩa Mác- lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa