daigai

Well-Known Member
LINK TẢI LUẬN VĂN MIỄN PHÍ CHO AE KET-NOI


MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu .................................................................................3 3. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................................13 4. Mục đích, nhiệm vụ của luận án ...........................................................................14 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ..........................................................14 6. Đóng góp của luận án............................................................................................16 7. Bố cục của luận án ................................................................................................16
Chƣơng 1: CƠ SỞ CỦA QUAN HỆ SÁCH PHONG, TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI VIỆT ..................................................................................................17 1.1. Sự phát triển cao độ của tư tưởng ―thiên triều – chư hầu‖ dưới triều Minh .......17
1.1.1. Khái niệm ―sách phong‖, ―sắc phong‖, ―cống‖, ―triều cống‖ và nguồn
gốc của các hiện tượng này .....................................................................................17 1.1.2. Sự phát triển cao độ của tư tưởng ―thiên triều - chư hầu‖ dưới triều
Minh - cơ sở tư tưởng của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt ......20
1.2. Những lợi ích của nhà Minh trong việc xác lập, duy trì, phát triển quan
hệ sách phong, triều cống..........................................................................................24 1.3. Sự phát triển cường thịnh của Trung Quốc dưới triều Minh và tham vọng
bành trướng, mở rộng ảnh hưởng chính trị xuống phương nam.................................32 1.4. Nhu cầu của các vương triều Đại Việt trong việc xây dựng quan hệ sách phong, triều cống và quan hệ hòa hiếu với nhà Minh...............................................37 1.5. Quan hệ sách phong, triều cống Trung - Việt trước thời Minh .........................42
Tiểu kết chƣơng 1....................................................................................................49
Chƣơng 2: QUAN HỆ SÁCH PHONG, TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI VIỆT GIAI ĐOẠN 1368 - 1527..............................................................................51 2.1. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Trần (1368 – 1400) ............................51
2.1.1. Sự xác lập quan hệ sách phong, triều cống Minh – Trần ...........................51 2.1.2. Các nghi lễ triều cống và đón, nhận chiếu sắc............................................55

iii
2.1.3. Lệ cống và cống phẩm................................................................................58 2.1.4. Những căng thẳng, phức tạp trong quan hệ sách phong, triều cống
Minh – Trần..........................................................................................................60
2.2. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Hồ (1400-1406) .................................63 2.2.1. Bối cảnh lịch sử Đại Việt và Trung Quốc những năm đầu thế kỉ XV........63 2.2.2. Sự xác lập quan hệ sách phong, triều cống Minh – Hồ và những
căng thẳng giữa hai nước ngay sau khi thiết lập quan hệ .....................................65
2.3. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê sơ (1428 – 1527)...........................70 2.3.1. Quá trình khôi phục quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước ở
đầu thời Lê sơ (1428 – 1437)................................................................................70 2.3.2. Sự ổn định lâu dài của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê sơ
trong thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI và nguyên nhân của hiện tượng này ...............79 Tiểu kết chƣơng 2....................................................................................................89
Chƣơng 3: QUAN HỆ SÁCH PHONG, TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI VIỆT GIAI ĐOẠN 1527 - 1644..............................................................................92 3.1. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Mạc (1527 – 1592) ............................92
3.1.1. Sự gián đoạn của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt ở
nửa đầu thế kỷ XVI và chủ trương xâm lược Đại Việt của nhà Minh .................92 3.1.2. Sự ứng phó của nhà Mạc trước nguy cơ xâm lược của nhà Minh và
hình thức mới của quan hệ sách phong, triều cống Minh - Mạc ..........................99
3.2. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê trung hưng (1592 – 1644)...........108 3.2.1. Sự phục hưng của nhà Lê và quá trình khôi phục quan hệ sách phong, triều cống Minh – Lê trung hưng............................................................108 3.2.2. Việc triều cống của nhà Lê trung hưng ....................................................115
Tiểu kết chƣơng 3..................................................................................................116
Chƣơng 4: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ SÁCH PHONG, TRIỀU CỐNG MINH - ĐẠI VIỆT .....................................................................118 4.1. Quan hệ sách phong, triều cống – nền tảng của quan hệ bang giao Minh
– Đại Việt ................................................................................................................118 4.2. Sự thăng trầm của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt phụ
thuộc chặt chẽ vào tương quan lực lượng giữa hai nước và diễn biến chính trị
trong mỗi nước ........................................................................................................122

iv
4.3. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt nhìn chung ổn định,
hòa mục, những lần căng thẳng, gián đoạn đều được hóa giải bằng sự thỏa
hiệp của cả hai phía .................................................................................................124 4.4. Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt được qui phạm hóa về
thể thức, thể lệ, nghi lễ một cách chặt chẽ ..............................................................129 4.5. Hoạt động thương mại trong quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại
Việt (thương mại triều cống) còn hạn chế...............................................................134 4.6. Các vương triều Đại Việt duy trì quan hệ sách phong, triều cống với nhà
Minh nhưng hoàn toàn độc lập, tự chủ trong đối nội, đối ngoại.............................140
4.6.1. Các vương triều Đại Việt hoàn toàn độc lập trong việc lựa chọn,
quyết định ngôi vị hoàng đế................................................................................143 4.6.2. Các vương triều Đại Việt không sử dụng niên hiệu của vua Minh và
ấn do triều Minh cấp mà đặt niên hiệu riêng, đúc ấn riêng ................................144 4.6.3. Hầu hết các vua Đại Việt đều sử dụng tên giả trong các văn bản giao
thiệp với nhà Minh..............................................................................................146 4.6.4 Triều đình Đại Việt không chấp nhận một số nghi lễ đón tiếp sứ giả
nhà Minh và nhận chiếu sắc do triều Minh đề ra................................................148 4.6.5 Các vương triều Đại Việt hoàn toàn độc lập trong các chính sách đối
nội và đối ngoại...................................................................................................149 4.6.6. Các vương triều Đại Việt kiên quyết bảo vệ vững chắc an ninh biên
giới và toàn vẹn lãnh thổ.....................................................................................151
KẾT LUẬN ............................................................................................................155 ....................................................................................158 ............................................................................................................. 1PL

1. Lý do chọn đề tài
1
MỞ ĐẦU
Quan hệ sách phong, triều cống là một hình thức đặc biệt của quan hệ bang giao giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ở thời phong kiến. Trong đó, các vương triều Trung Quốc với ưu thế về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, tự cho mình là ―thiên triều, thượng quốc‖, có quyền phong tước cho vua các nước nhỏ. Ngược lại, để được phong vương, để thiết lập và duy trì quan hệ với Trung Quốc, để được yên ổn, vua các nước này phải cầu phong và phải thực thi các nghĩa vụ với ―thiên triều‖, mà nghĩa vụ quan trọng nhất là phải triều cống định kì. Sách phong, triều cống dần dần trở thành mô thức chủ yếu trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng ở thời trung đại. Mô thức này xuất hiện từ thời Tây Hán, không ngừng được mở rộng thành hệ thống và tới thời Minh (1368 – 1644) thì đạt tới đỉnh điểm của sự phát triển.
Sau giai đoạn mất ổn định kéo dài từ thời Nam Tống đến cuối Nguyên, Trung Quốc dưới thời Minh đã bước vào thời kì phát triển hưng thịnh, trở thành một quốc gia hùng cường ở châu Á và trên thế giới. Đây cũng là thời kì Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng ra toàn châu lục. Tuy nhiên, do vấp phải những trở ngại lớn ở cả ba phía bắc, đông, tây nên Đông Nam Á và Nam Á đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của chính quyền nhà Minh. Khu vực này trở thành tâm điểm trong chính sách đối ngoại của nhà Minh và cũng là khu vực chính để nhà Minh khôi phục và mở rộng hệ thống triều cống truyền thống.
Do vị thế địa – chính trị, do sự tương đồng về văn hóa, do những hệ lụy của hơn một nghìn năm Bắc thuộc và nhiều lí do khác mà quan hệ sách phong, triều cống giữa Trung Quốc và Đại Việt trong lịch sử nói chung, ở thời Minh nói riêng được duy trì chặt chẽ, bền vững, trở thành một trong những mối quan hệ sách phong, triều cống có tính chất điển hình và là cơ sở, nền tảng của quan hệ bang giao giữa hai nước trong suốt thời phong kiến.
Nghiên cứu về quan hệ Trung - Việt, Việt - Trung trong lịch sử, từ lâu đã được nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm và đã có những đóng góp khoa học quan trọng. Tuy nhiên, quan hệ sách phong, triều cống Trung – Việt ở thời phong kiến hay giữa các triều đại cụ thể, mới chỉ được trình bày một cách khái quát trong các bộ thông sử Việt Nam, thông sử Trung Quốc, hay còn là một phần khiêm tốn trong một số công trình nghiên cứu về quan hệ tổng thể giữa hai nước. Với đề tài ―Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt (1368 – 1644)‖, luận án muốn nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên biệt về quan hệ sách phong, triều cống giữa Trung Quốc và Đại Việt dưới chế độ phong kiến ở một thời kì lịch sử cụ thể có nhiều yếu tố tác

2
động sâu sắc đến mối quan hệ này. Đây cũng là thời kì quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước có những giai đoạn ổn định lâu dài và có những lúc căng thẳng, thậm chí gián đoạn, nhưng cuối cùng cũng đều đã được hai phía hóa giải.
Về những vấn đề khoa học cụ thể, luận án hướng tới việc làm sáng tỏ cơ sở tư tưởng, cơ sở lợi ích, cơ sở lịch sử của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt; quá trình phát triển thăng trầm của mối quan hệ này và nguyên nhân của nó; vị trí, đặc điểm của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt, thực chất thái độ của các vương triều Đại Việt trong quan hệ với nhà Minh. Luận án cũng muốn góp phần lý giải vì sao quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt lại tương đối ổn định, bền vững và được duy trì chặt chẽ, khác với nhiều mối quan hệ triều cống giữa các nước Đông Nam Á khác với nhà Minh...Trong một chừng mực nào đó, có thể nói đó cũng là những vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu về quan hệ sách phong, triều cống giữa Trung Quốc và Đại Việt từ khi hình thành (thế kỉ X) đến khi kết thúc (thế kỉ XIX).
Luận án mong muốn tìm hiểu sâu hơn những yếu tố tác động tức thì đến quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt trong từng giai đoạn cụ thể, mà nổi bật là sự thay đổi tương quan lực lượng giữa hai nước và biến động chính trị ở mỗi nước. Không những thế, quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt có lúc còn bị tác động thậm chí chỉ bởi khí chất của một ông vua Minh hay vua Đại Việt, hay sự tranh chấp đất đai lẫn nhau của thổ quan và dân chúng vùng biên giới... Tất cả những điều này luôn là nguyên nhân trực tiếp làm cho quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt ở các giai đoạn Minh – Trần, Minh – Hồ, Minh – Lê sơ, Minh – Mạc, Minh – Lê trung hưng có những điểm khác biệt nhau. Đây cũng là những vấn đề lý thú của quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt mà việc nghiên cứu nó sẽ góp phần làm sáng rõ thêm một số khía cạnh của lịch sử Việt Nam, lịch sử Trung Quốc và những mối quan hệ khác giữa hai nước.
Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, ứng xử với các vương triều phong kiến Trung Quốc như thế nào để vừa có thể sống hòa mục với một nước láng giềng lớn, tránh được những căng thẳng, xung đột, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vừa có thể đoàn kết được toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, không phải là một vấn đề đơn giản và luôn là một thách thức lớn đối với các vương triều Đại Việt, nhất là trước một triều Minh cường thịnh và luôn có tham vọng bành trướng, khống chế, kiềm tỏa Đại Việt. Những kinh nghiệm, bài học lịch sử mà cha ông chúng ta để lại trong việc giải quyết vấn đề này, qua quan hệ sách phong, triều cống, dưới bất cứ góc độ nào, chắc chắn mãi còn hữu ích.
Nghiên cứu quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt vì thế không chỉ cần thiết cho việc nhận thức lịch sử một cách thuần túy mà còn có ý nghĩa thời sự

3
sâu sắc. Sự hấp dẫn của các vấn đề khoa học và thực tiễn nêu trên là lý do để tui chọn đề tài ―Quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt (1368 – 1644)‖ làm luận án tiến sĩ, dù tui hiểu sâu sắc rằng việc giải quyết một cách thấu đáo những vấn đề này không thể là công việc của một cá nhân trong khuôn khổ của một luận án.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Quan hệ sách phong, triều cống giữa Trung Quốc với các nước trong đó có Đại Việt ở thời phong kiến là vấn đề đã được các học giả trên thế giới, các học giả Trung Quốc và Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Dưới đây xin giới thiệu tổng quan một số thành tựu và quan điểm nghiên cứu tiêu biểu.
2.1. Các học giả trên thế giới
* Những công trình nghiên cứu tổng quát về hệ thống triều cống và quan hệ của nhà Minh với khu vực Đông Nam Á
Trước khi đề cập đến những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, xin điểm qua một số công trình nghiên cứu tổng quát của các học giả trên thế giới về hệ thống triều cống và quan hệ của nhà Minh với các quốc gia Đông Nam Á. Những nghiên cứu này đã góp phần vào việc lí giải mô hình bang giao giữa Trung Quốc với các nước láng giềng ở thời trung đại; quan niệm của các vương triều Trung Quốc về trật tự thế giới; nguồn gốc, chức năng, vai trò của hệ thống triều cống; mối quan hệ giữa triều cống và thương mại; mối quan tâm đặc biệt của nhà Minh với Đông Nam Á và quan hệ giữa Trung Quốc với Đông Nam Á thời Minh...Đây là những vấn đề cần thiết và hữu ích đối với việc nghiên cứu các mối quan hệ sách phong, triều cống cụ thể.
Một trong những nghiên cứu đầu tiên về hệ thống triều cống là của hai nhà nghiên cứu J.K.Fairbank và S.Y.Teng với công trình: ―On the Ch’ing tributary system‖ (Về hệ thống triều cống của nhà Thanh) (1941). Mặc dù nghiên cứu về hệ thống triều cống của nhà Thanh (thế kỉ XVII – XIX) nhưng các tác giả của công trình này đã phân tích khá chi tiết nguồn gốc, sự hình thành của hệ thống triều cống và đã có đóng góp quan trọng trong việc định hình các quan niệm về hệ thống triều cống. Đặc biệt, J.K.Fairbank và S.Y.Teng đã lí giải sự tồn tại bền vững của hệ thống triều cống là do mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa chính trị và các động cơ kinh tế trong hệ thống này. Luận điểm này xứng đáng được coi là một phát hiện. Vì vậy, khi đánh giá về công trình của hai tác giả này, sử gia James Hevia đã viết: ―Gần như tất cả những ai đi sau Fairbank và Teng đều trung thành lặp lại sự khẳng định là hệ thống triều cống về bản chất có tính nhị nguyên‖ [118, 14].
Năm 1942, J.K.Fairbank công bố tiếp bài báo có tựa đề: ―Tributary trade and China’s relations with the West‖ (Thƣơng mại triều cống và quan hệ của Trung Quốc với phƣơng Tây), trong đó ông tiếp tục đưa ra những diễn giải về

4
nguồn gốc, chức năng, vai trò và tầm quan trọng của hệ thống triều cống. Nhiều năm sau, J.K.Fairbank một lần nữa trình bày ý tưởng của ông về hệ thống triều cống trong tập sách ―The Chinese world order: Traditional China’s foreign relations” (Trật tự thế giới Trung Hoa: Mối quan hệ đối ngoại truyền thống của Trung Hoa) (1968).
Những nghiên cứu mang tính hệ thống của J.K.Fairbank đặt cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo của các học giả khác. Bên cạnh tiểu luận ―The early treaty system in the Chinese World Order‖ (Hệ thống triều cống sơ khai trong trật tự thế giới Trung Hoa) của J.K.Fairbank, tập sách ―The Chinese world order: Traditional China’s foreign relations‖ còn giới thiệu các tiểu luận nghiên cứu của các học giả khác như: ―Historical notes on the Chinese World Order‖ (Những ghi chép lịch sử về trật tự thế giới Trung Hoa) của Lien-sheng Yang, ―Early Ming relations with Southeast Asia: A background essay‖ (Tổng quan về mối quan hệ giữa nhà Minh sơ với Đông Nam Á) của Wang Gungwu, ―The Ch’ing tribute system: An interpretive essay‖ (Hệ thống triều cống của nhà Thanh: Một cách diễn giải) của Mark Mancall, ―The Chinese perception of world order, past and present‖ (Nhận thức của Trung Quốc về trật tự thế giới, quá khứ và hiện tại) của Benjamin I.Schwartz...Các công trình nghiên cứu trên đề cập tới nhiều vấn đề nhưng đều cố gắng hướng đến việc lí giải, khái quát đặc điểm, bản chất của ―Trật tự thế giới Trung Hoa‖ (Chinese World Order). Theo các học giả, trong nhận thức của người Trung Quốc về trật tự thế giới, ―nhà nước Trung Quốc không phải là một nhà nước, theo nghĩa qui ước về thế giới này và hoàng đế không phải là vua của một nước trong nhiều nước khác mà là người đứng giữa đất và trời...đỉnh chóp của văn minh, duy nhất trong vũ trụ‖, ―sắp đặt thế giới vốn được coi là đặc quyền của hoàng đế Trung Hoa‖ [Mark Mancall], và kết quả là từ rất sớm ―tất cả các đoàn sứ nước ngoài được ghi chép như là đoàn sứ triều cống, và cả qui ước hành chính và thói quen sử học đã thần thánh hóa cho phong tục này sau đó. Người Trung Quốc bắt đầu tin rằng mối quan hệ triều cống là thứ rất bình thường – thứ không xung đột với cái nhìn tổng thể của họ về thế giới đã biết‖ [Wang Gungwu]...
Trong tác phẩm ―China and the Chinese Overseas‖ (Trung Quốc và Hoa kiều) (1991), Wang Gungwu (học giả gốc Hoa nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu về Hoa kiều và lịch sử ngoại thương Trung Hoa) đã dành một chương (chương 3) để viết về quan hệ ngoại giao của nhà Minh với Đông Nam Á. Tác giả đã phân tích khái quát chính sách đối ngoại của các hoàng đế triều Minh đối với Đông Nam Á, trong đó vấn đề Vân Nam và Đại Việt được nêu ra và trình bày xuyên suốt qua các triều vua Minh như những ví dụ điển hình.
Martin Stuart – Fox trong cuốn ―A short history of China and Southeast Asia: Tribute, Trade and Influence‖ (Lƣợc sử Trung Quốc và Đông Nam Á:

5
Triều cống, thƣơng mại và ảnh hƣởng) (2003) đã cố gắng phác họa một cách khái quát mối liên hệ lịch sử giữa các dân tộc, chính quyền Trung Hoa với các dân tộc, chính quyền Đông Nam Á. Đặc biệt tác giả đã dành một chương (chương 5) để nói về đế chế biển, triều cống và thương mại, trong đó nghiên cứu về hệ thống triều cống, chủ nghĩa bành trướng của triều Minh và quan hệ giữa Trung Hoa cuối thời Minh với Đông Nam Á.
Cùng đề cập đến chính sách đối ngoại của nhà Minh đối với các quốc gia Đông Nam Á, trong bài ―Engaging the South: Ming China and Southeast Asia in the fifteenth century‖ (Sức hấp dẫn từ phƣơng Nam: nhà Minh Trung Hoa và Đông Nam Á trong thế kỉ XV) (2008), G.Wade đã tập trung phân tích những nguyên nhân (động lực) dẫn đến mối quan tâm đặc biệt của nhà Minh đối với Đông Nam Á ở thế kỉ XV. Đại Việt được đề cập và minh họa cho những tham vọng bành trướng, mở rộng ảnh hưởng của nhà Minh xuống phía nam đồng thời cũng là nơi chịu tác động lớn từ những chính sách đối ngoại của vương triều này.
* Những công trình nghiên cứu về quan hệ Minh – Đại Việt
Bên cạnh những công trình nghiên cứu tổng quát về hệ thống triều cống và quan hệ giữa nhà Minh với Đông Nam Á, đã có một số sách chuyên khảo và bài viết đề cập đến mối quan hệ giữa nhà Minh và Đại Việt.
Cuốn ―Vietnam, Ho Quy Ly and the Ming (1371 – 1421)‖ (Việt Nam, Hồ Quý Ly và nhà Minh 1371 – 1421) (1985) của John Whitmore đã tái hiện bối cảnh xã hội Đại Việt ở cuối thế kỉ XIV, quá trình thâu tóm quyền lực và thiết lập nhà Hồ của Hồ Quý Ly. Chống lại cách đánh giá truyền thống của một số nhà sử học Việt Nam xem Hồ Quý Ly là ―nghịch thần‖, J.Whitmore cho rằng họ Hồ đã làm được nhiều việc để củng cố và tập trung hóa ―nhà nước Việt Nam‖. Tiếp đó, J.Whitmore đã khái quát về chính sách và quá trình xâm lược, chiếm đóng Đại Việt của nhà Minh. Theo tác giả, trong khoảng thời gian chiếm đóng Đại Việt, nhà Minh đã đưa vào đây nhiều yếu tố mới, làm thay đổi xã hội Đại Việt theo nhiều cách khác nhau. Những yếu tố mới nằm trong các chính sách khai thác, bóc lột kinh tế, kiểm soát chính trị, đồng hóa văn hóa đã được tác giả mô tả khá chi tiết.
Trước đó, A.B.Woodside trong bài viết ―Early Ming expansionism (1406- 1427): China’s abortive conquest of Vietnam‖ (Chủ nghĩa bành trƣớng thời kì đầu triều Minh (1406 – 1427): Thất bại của Trung Quốc trong quá trình xâm chiếm Việt Nam) (1963) cho rằng quá trình chiếm đóng Đại Việt của nhà Minh là một sai lầm. Nhà Minh không đủ chuẩn bị để cai trị một vùng đất xa xôi, những nỗ lực cai trị nửa vời của triều đình lại còn bị cản trở bởi tham nhũng và sự tham lam của các viên quan kém tài được cử đến cai trị Đại Việt. Cuối cùng, theo Woodside,

6
sự thất bại của nỗ lực cai trị trực tiếp Đại Việt đã càng làm cho người Trung Quốc tin vào sự khôn ngoan của hệ thống cống nạp.
Học giả Nhật Bản Momoki Shiro trong tiểu luận ―Dai Viet and South China Sea trade from the Xth to the XVth century‖ (Đại Việt và thƣơng mại ở biển Nam Trung Hoa từ thế kỉ X đến thế kỉ XV) (2004), mặc dù tập trung hướng vào việc khảo cứu vị trí của Đại Việt trong mạng lưới buôn bán ở khu vực biển Đông từ thế kỉ X đến thế kỉ XV nhưng cũng không quên đề cập đến mối quan hệ triều cống giữa nhà Minh và Đại Việt vì mối quan hệ đó, theo tác giả, có tác động không nhỏ đến hoạt động thương mại triều cống của hai quốc gia ở thời kì này.
Năm 2005, Nhà xuất bản Đại học Hawaii phát hành cuốn sách có tựa đề: ―Beyond the Bronze Pillars: Envoy Poetry and the Sino – Vietnamese Relationship‖ (Đi qua những cột đồng: thơ đi sứ và quan hệ Trung Quốc – Việt Nam) của Liam C.Kelley – Giáo sư trường Đại học Hawaii Liam C.Kelley đã tập trung vào một khía cạnh trong quan hệ Việt – Trung mà lâu nay ít được để ý với ý tưởng thông qua việc phân tích các bài thơ đi sứ của các sứ thần Việt Nam trong các thế kỉ XVI – XIX để đưa ra những cách nhìn mới về quan hệ giữa hai quốc gia này. Không tán thành quan điểm rằng về mặt lịch sử, người Việt luôn tìm cách duy trì một bản sắc văn hóa riêng tách khỏi Trung Quốc, Kelley đã đưa ra một quan điểm gây nhiều tranh cãi khi nhấn mạnh không có sự khác biệt lớn giữa văn hóa Trung Hoa và văn hóa Việt Nam, người Việt mà cụ thể là tầng lớp trí thức Việt luôn coi mình là một bộ phận của ―thế giới Trung Hoa‖. Theo tác giả: ―Các tài liệu ở đây (bài thơ đi sứ) nói trực tiếp về quan hệ Trung – Việt, và chúng không nói gì về xung đột hay đối nghịch. Chúng không bộc lộ bất kì cảm giác nào về sự kháng cự chống Trung Quốc, mà lại mô tả một sự khẳng định toàn diện về một trật tự thế giới mà quan hệ triều cống dựa vào và về vị trí phụ của Việt Nam trong thế giới ấy‖. Theo nhận xét của giáo sư Keith Taylor, cuốn sách của Liam C.Kelley là một sự đóng góp quí, giúp tăng hiểu biết về lịch sử và văn hóa Việt Nam. Nhưng việc Kelley nhấn mạnh đến ưu thế vượt trội của văn hóa Trung Hoa trong tâm thức người Việt lại làm hạn chế, chứ không mở rộng cách hiểu về Việt Nam.
Một trong những công trình lý thú nhất gần đây liên quan đến ảnh hưởng của Trung Hoa đến Đại Việt ở thế kỉ XV là của Sun Laichen (ĐH California) với tựa đề ―Chinese gunpowder technology and Dai Viet: c.1390 – 1497‖ (Kĩ nghệ thuốc súng của Trung Hoa và Đại Việt, khoảng 1390 - 1497) (2006). Những nghiên cứu được trình bày trong bài viết này đã cho thấy một sự chuyển dịch ấn tượng về kĩ nghệ quân sự Trung Hoa (đặc biệt là súng và thuốc súng) tới người Việt Nam thông qua sự chiếm đóng của nhà Minh tại đây và có tác động rất lớn, làm thay đổi sức mạnh quân sự cũng như vị thế của Đại Việt ở Đông Nam Á lục địa trong các thế kỉ sau đó.

7
Bài báo ―Asymmetry and China’s tributary system‖ (Tính không đối xứng và hệ thống triều cống của Trung Hoa) (2012) của Brantly Womack đã phân tách diễn trình lịch sử của hệ thống triều cống Trung Quốc bằng các vấn đề khái quát để gợi ý về một mô hình. Tác giả lập luận rằng vị thế của Trung Quốc như một quốc gia trung tâm ở châu Á là cơ sở của các mối quan hệ với bên ngoài. Brantly cũng đưa ra trường hợp quan hệ Trung Quốc – Việt Nam ở thời Minh làm ví dụ tiêu biểu để kết luận rằng khả năng phản kháng của các nước láng giềng nhỏ hơn là chìa khóa để duy trì tình trạng cân bằng mà không dựa trên sự thống trị áp đảo (từ phía Trung Quốc).
Có thể thấy, các học giả nước ngoài (mà ở đây chủ yếu là các học giả phương Tây) chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào về quan hệ sách phong, triều cống giữa Trung Quốc và Việt Nam trong lịch sử. Tuy vậy, các công trình nghiên cứu kể trên của họ là những đóng góp có giá trị đối với việc nghiên cứu về hệ thống triều cống, về đặc điểm, bản chất của ―trật tự thế giới Trung Hoa‖ và về những mối quan hệ đa dạng của nhà Minh với Đông Nam Á, trong đó có Đại Việt. Đây là những tri thức tổng quát, cần thiết đối với việc nghiên cứu quan hệ sách phong, triều cống Minh – Đại Việt.
2.2. Các học giả Trung Quốc
Cũng giống như các học giả phương Tây, các học giả Trung Quốc khi nghiên cứu lịch sử quan hệ đối ngoại của Trung Quốc luôn muốn tìm hiểu cơ sở lý luận, nguồn gốc dẫn đến sự hình thành quan niệm về ―Trật tự thế giới Trung Hoa‖ (Chinese World Order). Tuy nhiên, xuất phát điểm cũng như quan niệm của họ về lý luận này không giống các học giả phương Tây.
Hoàng Chi Liên trong cuốn ―Nghiên cứu hệ thống lễ trị thiên triều, Trật tự Hoa Hạ ở châu Á: Luận về hình thái mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nƣớc châu Á‖(1992) đã đưa ra khái niệm ―Hệ thống lễ trị thiên triều‖. Trong hệ thống đó, tác giả lấy ―Hoa‖ của đế quốc Trung Hoa với thế nước cường thịnh và nền văn hóa ưu việt so với các nước trong khu vực làm nền tảng, coi việc ―Di‖ ở các nước xung quanh triều cống và tiếp thu sách phong từ các triều đại Trung Quốc là sợi dây gắn kết trật tự chính trị, thương mại triều cống, là sự bảo đảm cho trật tự kinh tế. Đặc trưng của ―hệ thống lễ trị thiên triều‖ là sự ―đức hóa‖, ―mộ hóa‖ chứ không phải là chinh phục, ép buộc...Trong quá trình nghiên cứu, Hoàng Chi Liên cũng phát hiện ra rằng Triều Tiên và An Nam đều thuộc hàng phiên quốc thân cận nhất của Trung Quốc, tuy nhiên hai quốc gia này lại tiếp nhận ―hệ thống lễ trị‖ này ở mức độ khác nhau, chỉ có Triều Tiên là hoàn toàn tiếp thu chế độ đó mà thôi.
Khi bàn về ―Trật tự Hoa Di‖, Hà Phương Xuyên trong bài ―Luận về trật tự Hoa Di‖ (1998) cho rằng quan hệ triều cống và trật tự Hoa Di là hệ thống lý luận

8
hoàn bị nhất trong quan hệ quốc tế thời cổ đại. Tác giả nhận định rằng ―nhất‖ và ―hòa‖ (là hai yếu tố bản chất nhất trong hệ thống quan điểm và nguyên tắc có liên quan đến ―trật tự Hoa Di‖). ―Nhất‖ ở đây chính là ―trời sinh thánh nhân‖ – hoàng đế của đế quốc Trung Hoa. Bên dưới hoàng đế, muôn nước đến triều cống, kính mừng hoàng đế thánh minh, thống trị Hoa Di. Chỉ khi thừa nhận cái ―nhất‖ thì việc gì dưới cái ―nhất‖ đó cũng thực hiện được. ―Nhất‖ ở đây tức là chỉ đế quốc Trung Hoa và hoàng đế là ―đại nhất thống‖, ―nhất thống Hoa Di‖, còn cái mà hoàng đế theo đuổi tìm kiếm chính là việc đem lại ―hòa‖ cho các nước lân bang. Vì thế, trong ―trật tự Hoa Di‖, mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước xung quanh là mối quan hệ giữa ―trị‖ và ―phụng‖, là mối quan hệ giữa ―phủ ngự‖ (cúi xuống vỗ về) và ―sự đại‖ (ngẩng lên thờ nước lớn) trong đó đế quốc Trung Hoa và người thống trị đất nước này luôn đóng vai trò ở trên cao vươn xuống thấp, bao trùm tất cả trong cái ―trật tự Hoa Di‖ đó.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng đưa ra nhiều ý kiến bác bỏ quan điểm của J.K.Fairbank và S.Y.Teng. Zang Feng trong bài báo ―Rethinking the “Tributary system”: Broadening the conceptual horizon of historical East Asian politics‖ (Suy ngẫm lại về “Hệ thống triều cống”: Mở rộng biên độ khái niệm về lịch sử chính trị khu vực Đông Á) (2009) cho rằng mặc dù có chữ ―triều‖
(朝) và chữ ―cống‖ (貢) trong chữ Hán, nhưng cái gọi là ―Hệ thống triều cống‖
(Tributary system) là do học giả phương Tây tạo ra và đó chỉ là hình thức ngoại giao bình thường thời cổ ở Trung Quốc.
Cuốn ―Đông Nam Á và ngƣời Hoa‖ do Công ty xuất bản Hữu Nghị Trung Quốc ấn hành năm 1986 là một tuyển tập các bài viết của học giả Vương Canh Vũ về mảng đề tài quan hệ giữa người Hoa và Đông Nam Á trong lịch sử. Trong đó, đáng chú ý là hai bài viết ―Luận thuật về bối cảnh mối quan hệ giữa Đông Nam Á và nhà Minh (giai đoạn đầu)‖ (trang 1 - 41) và ―Trung Quốc và Đông Nam Á từ 1404 đến 1424‖ (trang 42 - 71). Trong hai bài viết này, bằng những tư liệu lịch sử chân thực và lập luận sâu sắc, tác giả đã đưa ra một cách tiếp cận thú vị về bản chất quan hệ triều cống giữa nhà Minh và các nước Đông Nam Á (trong đó có Đại Việt). Ví dụ, trong bài ―Luận thuật về bối cảnh mối quan hệ giữa Đông Nam Á và nhà Minh (giai đoạn đầu)”, Vương Canh Vũ đã viết: ―Trong chế độ triều cống, rất nhiều thứ vốn là truyền thống như ngôn ngữ, lễ nghĩa, các sự kiện lớn đã được ghi lại dưới quan điểm và thế giới quan của Nho gia. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thứ khác hoàn toàn không tương ứng như: tính xâm lược, sở thích chủ quan của hoàng đế, sự đặc biệt giữa việc dung hợp giữa tính vô tư công bình [trong quan hệ ngoại giao] và thực lực quân sự. Đó là điều mà bài viết ngắn dù biết không dễ gì nhưng sẽ cố gắng chứng minh cho sự thật ấy, điều mà người viết cho rằng, nó sẽ chỉ ra nhiều

9
mặt của sự thật‖. Với cách tiếp cận khá mới mẻ, những bài viết của học giả Vương Canh Vũ là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu về mối quan hệ triều cống giữa Trung Quốc và Đông Nam Á ở thế kỉ XV.
Một trong những công trình nghiên cứu tiêu biểu về mối quan hệ giữa nhà Minh và Đại Việt là cuốn sách ―Chinh chiến và từ bỏ - Nghiên cứu mối quan hệ Trung Việt thời Minh‖ của Trịnh Vĩnh Thường (1998). Vế đầu tiên trong tựa đề của cuốn sách: ―Chinh chiến dữ khí thủ‖ (Chinh chiến và từ bỏ) đã phần nào phản ánh diễn biến của cuộc viễn chinh tấn công Đại Việt ở thời hoàng đế Chu Đệ. Mặc dù tác giả đã đưa ra một số quan điểm mới, khá độc đáo về cuộc viễn chinh này nhưng cũng không tránh khỏi việc bị chi phối bởi tư tưởng nước lớn như nhiều học giả Trung Hoa khác.
Luận án tiến sĩ của Ngưu Quân Khải với tiêu đề ―Triều cống và bang giao – Nghiên cứu mối quan hệ Trung - Việt giai đoạn cuối Minh đầu Thanh (1593- 1702)‖ (2003) lại hướng vào nghiên cứu thái độ, sự tác động qua lại và diễn biến mối quan hệ Trung – Việt khi cả hai nước đang ở vào tình cảnh triều chính suy vi. Tác giả luận án cho rằng vào thời kì cuối Minh đầu Thanh, Trung Quốc đã lựa chọn chính sách ―thừa nhận cả hai‖, thừa nhận cả chính quyền nhà Mạc và chính quyền nhà Lê ở Đại Việt cũng như nhấn mạnh rằng thực lực là vấn đề then chốt ảnh hưởng đến quan hệ giữa hai nước.
Cuốn ―Sử luận về lịch sử chế độ triều cống – Nghiên cứu về thể chế quan hệ đối ngoại của Trung Quốc thời cổ đại‖ (2004) của Lý Vân Tuyền đã góp thêm một cách tiếp cận mới khi nghiên cứu về mối quan hệ đối ngoại của Trung Quốc.
Tác phẩm được kết cấu làm 6 chương, ở chương 2 với tiêu đề ―Nghiên cứu chế độ triều cống thời Minh”, tác giả đã đi sâu phân tích về chế độ triều cống thời Minh ở các mặt: phân loại các hình thức triều cống, quy định và trình tự triều cống, cống vật, hồi tứ và sách phong, cách tổ chức quản lí sự vụ triều cống và cơ cấu ngoại giao thời Minh. Quan hệ triều cống giữa Đại Việt (An Nam) với nhà Minh tuy chỉ được dẫn chứng đặt trong tổng thể mối quan hệ triều cống giữa các nước Lưu Cầu, Triều Tiên, Chămpa...với nhà Minh song đã cung cấp một số bảng biểu, số liệu về chế độ cống sứ của Đại Việt đối với triều Minh qua các giai đoạn. Tác phẩm là tài liệu tham khảo có giá trị đối với việc nghiên cứu lịch sử triều cống của Trung Quốc với các nước, trong đó có Việt Nam.
Trần Văn Nguyên đã đặt vấn đề cho luận án ―Nghiên cứu quan hệ Trung- Việt đời Minh‖ (2005) của mình rằng: trong mối quan hệ giữa Trung Quốc thời cổ đại và các nước xung quanh, Triều Tiên và An Nam được coi là hai nước thân cận nhất, song cảm quan của Trung Quốc đối với hai nước lại khác nhau khá nhiều. Triều Tiên được khen là nước tòng thuận, còn An Nam bị chỉ trích là nước ―hay

10
sinh sự‖. Hay ví như Xiêm La, một nước cũng nằm khá gần Trung Quốc, nền chính trị cũng gần tương tự như An Nam, nhưng ấn tượng về nước này trong con mắt của chính quyền Trung Quốc khá tốt đẹp. Điều đó cho thấy An Nam là một đất nước ―có cá tính‖. Từ đó tác giả mong muốn có thể phác họa lại diễn biến, đặc trưng của mối quan hệ giữa nhà Minh và An Nam thông qua việc nghiên cứu nhiều vấn đề trong mối quan hệ giữa hai quốc gia từ nửa cuối thế kỉ XIV đến nửa đầu thế kỉ XVII như: chính sách đối ngoại của nhà Minh đối với Đại Việt, xung đột biên giới, vấn đề Chămpa, trao đổi kinh tế, xung đột văn hóa...Luận án này cũng dành một chương, chương 4 với tiêu đề ―Mấy vấn đề về quan hệ tông phiên giữa nhà Minh và An Nam‖ (có dung lượng 24 trang) để trình bày khái quát một số nét về ―quan hệ tông phiên‖ giữa hai quốc gia (nghi thức cầu phong và sách phong, nghi lễ của sứ thần Trung Quốc sang An Nam cũng như nghi lễ của sứ thần An Nam sang Trung Quốc, cống vật và ban thưởng, đường sang triều cống, vấn đề người thế thân bằng vàng, quan hệ kinh tế).
2.3. Các học giả Việt Nam
Lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ lâu đã được các học giả Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Nhiều lĩnh vực của mối quan hệ này như quan hệ chính trị, quân sự, quan hệ kinh tế, văn hóa qua các triều đại đã được đề cập đến trong các sách chuyên khảo như ―Việt Nam sử lƣợc‖ (1921) của Trần Trọng Kim, ―Lý Thƣờng Kiệt‖ (1949) của Hoàng Xuân Hãn, ―Đất nƣớc Việt Nam qua các đời‖ (1964) của Đào Duy Anh, ―Lịch sử Việt Nam‖ (tập 1) (1971) do Ủy ban KHXH Việt Nam tổ chức biên soạn...Quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước tuy chưa được đề cập thành một vấn đề riêng, nhưng những mối quan hệ đa dạng, phức tạp giữa Việt Nam và Trung Quốc trong lịch sử, được nghiên cứu trong các công trình này, là cơ sở cho việc nghiên cứu bối cảnh quan hệ sách phong, triều cống giữa hai nước trong các giai đoạn lịch sử cụ thể.
Trong số những công trình nghiên cứu gần đây về quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc có tác phẩm ―Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI‖ (1995) của Tạ Ngọc Liễn. Đây là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc ở thời Lê sơ. Trong công trình này, quá trình thiết lập quan hệ ngoại giao giữa nhà Lê với nhà Minh sau năm 1427, quan hệ sách phong, triều cống cũng như quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc ở thế kỉ XV – đầu thế kỉ XVI đã được tác giả khôi phục lại một cách chân thực dựa trên những nguồn sử liệu phong phú, tin cậy. Tác giả cũng đã phân tích cơ sở tư tưởng của chế độ triều cống (đó là ―chủ nghĩa lấy Trung Quốc làm trung tâm‖), vị trí và ý nghĩa của quan hệ sách phong, triều cống trong quan hệ giữa hai nước cũng như địa vị của Việt Nam trong mối quan hệ này...

11
Cuốn sách ―Ngoại giao Đại Việt‖ (2000) của Lưu Văn Lợi gồm hai phần chính: Quan hệ của Đại Việt với Trung Quốc và quan hệ của Đại Việt với các nước Đông Dương (Phần thứ ba là một số nhận xét về nền ngoại giao Đại Việt). Ở phần thứ nhất, theo quan điểm của tác giả, do những lí do địa - chính trị và tư tưởng, việc nghiên cứu ngoại giao Đại Việt cần được gắn chặt với việc nghiên cứu tư tưởng và ngoại giao Trung Quốc. Vì vậy, trước khi đề cập cụ thể đến mối quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và Trung Quốc, tác giả đã khái quát về nền ngoại giao cổ truyền của đế chế Trung Hoa, trong đó nhấn mạnh quan niệm của Trung Quốc về quan hệ của Trung Quốc với các nước và chính sách của ―thiên triều‖ đối với Đại Việt. Tiếp đó, tác giả trình bày diễn tiến của mối quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và Trung Quốc từ thời Bắc thuộc cho đến hết thời Thanh ở Trung Quốc. Những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa Đại Việt và nhà Minh như cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đối sách ngoại giao của Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng như vấn đề cầu phong, triều cống cũng được đề cập đến ở phần này.
Hai tập sách ―Bang giao Đại Việt triều Trần – Hồ‖ và ―Bang giao Đại Việt triều Lê, Mạc, Lê Trung Hƣng‖ trong bộ sách ―Bang giao Đại Việt‖ (2005) của tác giả Nguyễn Thế Long đã giúp người đọc hiểu rõ hơn những nội dung bang giao, cách, nghệ thuật, văn hóa trong mối bang giao của các triều đại ở Đại Việt với các vương triều Trung Quốc. Đặc biệt, những mẩu chuyện đi sứ và tiếp sứ đã góp phần tái hiện chân thực và sống động lịch sử cũng như diễn tiến mối bang giao của Việt Nam với Trung Quốc trong các thế kỉ XIV – XVIII.
Về quan hệ Việt – Trung trong lịch sử nói chung, quan hệ giữa Đại Việt với nhà Minh nói riêng, gần đây còn có một loạt các bài viết mang tính chuyên đề như: ―Cuộc đấu tranh ngoại giao với triều đình nhà Minh đầu thế kỉ XV và những chứng tích còn lại‖ (2002) của Nguyễn Văn Nguyên, ―Đặc điểm quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với Trung Quốc thời trung đại nhìn từ quan hệ văn hóa – chính trị mang tính vùng‖ (2008) của Đinh Thị Dung, ―Đại Việt trong bối cảnh lịch sử, chính trị Đông Á thế kỉ XV‖ (2009) của Nguyễn Văn Kim, ―Chính sách ngoại giao thời Mạc: Bài học lịch sử giá trị‖ (2010) của Ngô Đăng Lợi, ―Quan niệm “vô tốn Trung Hoa” ở Việt Nam thời trung đại‖ (2011) của Nguyễn Văn Hiệu, ―Văn hóa ứng xử của Việt Nam trong quan hệ với Trung Hoa thời kì trung đại nhìn từ vấn đề “sách phong, triều cống‖ (2011) của Trần Nam Tiến ...
Thông qua việc nghiên cứu các văn kiện ngoại giao (Tấu 奏 và Biểu 表) của các lãnh tụ khởi nghĩa Lam Sơn và vương triều Lê sơ, tác giả Nguyễn Văn Nguyên trong bài viết ―Cuộc đấu tranh ngoại giao với triều đình nhà Minh đầu thế kỉ XV và những chứng tích còn lại‖ (2002) đã phác họa lại quá trình đấu tranh ngoại giao nhằm mục đích khôi phục quan hệ giữa nhà Lê sơ và nhà Minh từ năm 1428

12
đến năm 1437, chủ yếu xoay quanh vấn đề sách phong và triều cống. Kết quả của cuộc đấu tranh này là nhà Minh đã phải sách phong cho vua Lê làm An Nam quốc vương, cũng tức là phải thừa nhận Đại Việt là một quốc gia độc lập.
Bài viết ―Đại Việt trong bối cảnh lịch sử, chính trị Đông Á thế kỉ XV‖ (2009) của tác giả Nguyễn Văn Kim đã đặt việc nghiên cứu Đại Việt ở thế kỉ XV trong các mối quan hệ và tương tác khu vực. Theo tác giả, từ thời Lê sơ (1428 – 1527), trên nhiều phương diện như: thiết chế chính trị, luật pháp, giáo dục...Đại Việt đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của Trung Quốc nhưng đó không phải là một sự rập khuôn máy móc, tiếp nhận thụ động và xa rời chủ nghĩa yêu nước cũng như truyền thống văn hóa dân tộc. Đại Việt lựa chọn, tiếp nhận những yếu tố Trung Hoa với tính độc lập cao và tâm thế của một xã hội đang hướng mạnh đến những nhu cầu phát triển nội tại và vì sự nghiệp chấn hưng dân tộc. Điều này được thể hiện rất rõ trong chính sách ngoại giao của triều Lê sơ đối với nhà Minh. Trước áp lực của Trung Quốc, trong khi các triều đại quân chủ Triều Tiên thường hướng đến và lựa chọn cách thức giải quyết ôn hòa, tránh đương đầu trực tiếp với đế chế lớn thì dân tộc Việt lại thường lựa chọn cách ứng xử mạnh, tức là sẵn sàng đứng lên bảo vệ nền độc lập và chủ quyền dân tộc.
Trong bài viết ―Thân oan cho Mạc Đăng Dung‖ (2000), tác giả Lê Văn Hòe đã đưa ra nhiều dẫn chứng và luận điểm để ―minh oan‖ cho những quyết định, việc làm của Mạc Đăng Dung trong quan hệ với nhà Minh. Theo tác giả: ―Kể ra làm vua một nước mà phải cắt đất xin hàng giặc thì cũng đáng chê. Nhưng xét kĩ tình thế trong nước hồi bấy giờ...nay dù họ Mạc đã dẹp yên bờ cõi, dựng nên nghiệp lớn, nhưng vết thương loạn lạc chưa hàn gắn xong, lòng người còn hoang mang, thì ta thấy họ Mạc không thể hành động khác được‖.
Cùng chia sẻ quan điểm trên, tác giả Ngô Đăng Lợi trong bài viết ―Chính sách ngoại giao nhà Mạc: Bài học lịch sử giá trị‖ (2010) cũng cho rằng cần nhìn nhận lại quan điểm của nhiều sử gia phê phán việc Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh, nhận nội thuộc, nhận chức Đô thống sứ...Theo tác giả, việc đầu hàng là một biện pháp tình thế giống như việc Lê Lợi đại thắng quân Minh nhưng vẫn phải cấp tàu xe, lương thảo cho Vương Thông rút quân, phải trả lừa, ngựa, binh khí, tù binh cho nhà Minh, lại phải thực hiện danh nghĩa ―phù Trần diệt Hồ‖ của nhà Minh mà dựng Trần Cảo làm vua, phải cống người vàng...Tác giả cũng dẫn lại quan điểm của giáo sư Trần Quốc Vượng rằng: ―Triều Mạc thần phục giả vờ để giữ độc lập thật sự‖.
Có thể tổng kết lại một số thành tựu mà các học giả Việt Nam và nước ngoài đạt được từ quá trình nghiên cứu lịch sử mối quan hệ giữa Trung Quốc thời Minh với các nước Đông Nam Á nói chung, với Đại Việt nói riêng như sau:
- Những vấn đề lý luận về sự hình
Nước An Nam các ngươi cung kính làm phiên thần đã lâu, cố Quốc vương Lê Lân kính trời thờ nước lớn, nhận trọng mệnh được thụ phong, giữ đất an dân, cung kính tròn chức cống. Truyền đến con Tuấn, không lơ là với phận sự. Nay Tuấn mệnh chung, người thừa kế phải coi sóc mọi việc trong nước.
Hạo là con của cố Quốc vương Lân, dáng hiền, có phẩm chất tốt, được lòng dân; dâng biểu triều cống, kính cẩn giữ lễ phiên thần. Đặc sai Hàn lâm Tiền Phổ làm Chánh sứ, Cấp sự trung khoa Lễ Vương Dự làm Phó sứ, nhận mệnh phong làm Quốc vương An Nam. Phàm bầy tôi, kỳ lão trong nước ngươi, đồng tâm hiệp lực phù trợ. Hãy kế tục sự nghiệp cũ, phát huy đức tốt trong việc làm, giữ đất nước yên ổn, hưởng nhiều hạnh phúc. Nay ban chiếu chỉ để mọi người đều biết‖.
Lại sai Thái giám Tư lễ giám Sài Thăng, Phụng ngự Trương Vinh cùng đi. Mệnh mang tiền, vật thu mua hương liệu và các vật khác. Sắc cho Hạo, lệnh mua các thứ ghi trong danh sách, giao cho bọn Thăng làm đồ tiến cống.
Nguồn: Minh thực lục v. 38, tr. 6884-6885; Anh Tông q. 337, tr. 4a-5b (Bản dịch đã dẫn, tập 3, tr. 73)
1.17. Chiếu của Minh Hiến Tông gửi vua Lê Thánh Tông về việc xung đột biên giới Việt – Trung năm 1474
Ngày 5 tháng 8 năm Thành Hoá thứ 10 [15/9/1474]
Sắc dụ Quốc vương An Nam Lê Hạo chớ coi thường điều động quân địa phương làm kinh nhiễu nơi biên cảnh.
Lúc bấy giờ các quan trấn thủ tại Vân Nam tâu Lôi Châu thuộc phủ Quảng Nam [Quảng Tây] tiếp giáp với các xứ Tuyên Quang của An Nam. Nay xưng rằng một số quân dân tụ tập cướp bóc, An Nam điều quân 10.000 người vượt biên giới tấn công và quấy nhiễu các trại biên giới, làm nhân dân kinh sợ tán loạn.
Hoàng thượng bèn xuống chiếu rằng:
―Nay được quan Trấn thủ và Tổng binh tâu rằng người châu Bảo Lạc, vệ Tuyên Quang xưng rằng bọn quân dân Hoàng Chương Mã náo động, rồi điều binh truy bắt vượt quá biên giới hai phủ Quảng Nam, Trấn An; nhân đó đánh cướp trại biên giới, kinh hãi nhân dân chạy tán loạn, đã sai quan phủ dụ trở về. Trẫm cho rằng quân gian cướp bóc, pháp luật không dung được; nhưng vượt biên giới làm điều trái ngược lý, cũng đáng răn. Nay các quan Trấn thủ, Tổng binh Lưỡng Quảng, Vân Nam, cùng Đốc đồng tam ty mỗi người có bổn phận giữ biên cảnh không để sai

203
lầm. Nếu gặp bọn giặc này, bắt đến biên giới đưa cho nước ngươi, không được dung thứ che dấu. Vương hãy thể theo ý Trẫm, càng răn đe các châu vệ Bảo Lạc, Tuyên Quang bắt gấp bọn giặc này làm yên địa phương, không được điều động lính Di vượt biên giới, xâm nhiễu làm kinh sợ nhân dân; để sinh dân hai bên được an cư, không còn hậu hoạn.
Vương hãy khâm thừa chỉ dụ, không để quên nhãng‖.
Nguồn: Minh thực lục v. 45, tr. 2487-2488; Hiến Tông q. 132, tr. 2a-2b (Bản dịch đã dẫn, tập 3, tr. 91)
1.18. Thái độ của triều Minh trước các cuộc xung đột giữa Đại Việt và Champa cuối thế kỷ XV
Ngày 13 tháng 10 năm Hoằng Trị thứ 2 [5/11/1489]
Quốc vương Chiêm Thành trở về nước, lại sai em là bọn Bốc Cổ Lương thông báo cho quan Đại thần coi giữ Lưỡng Quảng rằng:
―An Nam vẫn còn chiếm cứ, không có chỗ để ở. Xin như thời Vĩnh Lạc, mang binh che chở‖.
Trấn thủ Thái giám Vi Tái, Tuần phủ Đô ngự sử Tần Huyền hợp tấu thỉnh ý. Sự việc đem xuống bàn, bộ Binh tâu tiếp như sau:
―An Nam và Chiêm Thành vị trí nơi bờ biển hoang tịch, đời đời triều cống, tổ tiên có di huấn là những nước không nên chinh phạt. Mới đây Cổ Lai mang gia quyến đến Quảng Đông; triều đình đã giáng sắc cho An Nam lệnh xem xét xót thương, nhưng đến nay chưa nhận được lời tâu trở lại. Còn việc thời Vĩnh Lạc sai tướng mang quân đi chinh phạt là do Lê Quí Ly thoán đoạt giết vua, không phải là do sự xâm lấn nước láng giềng. Mới đây Lê Hạo lo việc triều cống rất cẩn trọng, nhưng Cổ Lai tố cáo nặng nề; như vậy cũng có phần quá đáng. Nếu chỉ căn cứ lời một bên, rồi mang binh mạo hiểm vượt biển để đánh kẻ không đáng đánh, thì sai với đạo mềm dẻo với nước xa xôi. Nên lệnh các quan Trấn thủ báo lại cho Cổ Lai rằng:
Trước đây Quốc vương đến tố cáo với triều đình, đã mệnh quan Đại thần giúp đỡ săn sóc đầy đủ. Bây giờ hộ tống người của Vương trở về xong. Sự tình được biết người Giao giết con của Vương là Cổ Tô Ma, Vương mang binh đánh bại chúng, sự rửa thù đã xong; sau không thấy An Nam mang quân đến đánh nước của Vương. Đất của Vương trước kia mất nay đã lấy lại được; bộ lạc của Vương đã tan nay đã tụ lại được; đó là nhờ uy của Thiên triều mới được như vậy. Nay lại kêu An

204
Nam muốn chiếm đoạt đất trước kia; An Nam vốn xưng là nước biết lễ nghĩa; há lại hôn ám chuốc lấy sự sai trái. Nay viên quan phòng thủ nước ta trình lời của Vương lên triều đình, mà lời hồi tấu của An Nam thì chưa đến, sự kiện chưa rõ ràng minh bạch; lại e Vương oán xưa chưa bỏ được, nói quá sự thực; ta không thể chỉ nghe riêng một bên mà quyết định.
Khi lời tâu của An Nam đến, ta sẽ xem xét, rồi báo cho ngươi hay. Vương hãy tự tín, điều hành quản trị, an ủi nhân dân và bảo vệ đất đai. Vương cũng nên tìm cách nối lại bang giao tốt với An Nam, quên hết đi những sự nghi ngờ. Từ xưa đến nay, không có một nguyên tắc nào cho nhà cai trị không tự tin ở mình, lại cầu xin triều đình mang quân đi đến từ miền xa xôi để bảo vệ họ‖.
Sắc dụ của Thiên tử sẽ giao cho Bốc Cổ Lang, y cũng được thưởng quà, rồi mang về nước.
Nguồn: Minh thực lục v. 52, tr. 694-696; Hiếu Tông q. 31, tr. 7b-8a (Bản dịch đã dẫn, tập 3, tr. 140, 141)
1.19. Minh Thế Tông quyết định chuẩn bị “chinh thảo” Đại Việt vì không triều cống đầy đủ
Ngày 3 tháng Một (11) năm Gia Tĩnh thứ 15 [16/11/1536]
Trước đây Hoàng thượng lên ngôi, ban chiếu dụ cho An Nam, vì đường ngăn trở không đến được, nên phải trở về. Đến nay Hoàng thái tử sinh, lại sai sứ đem chiếu dụ đến.
Bộ Lễ tâu rằng An Nam không làm tròn chức cống đã 20 năm nay; trước đây Thủ thần Lưỡng Quảng tâu Lê Huệ [Chiêu Tông], Lê Lự không phải dòng đích do Lê Điều [Tương Dực] lập; Mạc Đăng Dung, Trần Cảo đều là giặc soán nghịch; nay đúng lúc phải sai sứ đi hỏi tội, lấy danh Thiên tử để thay trời thảo phạt. Lại gần đây quan Thủ thần Vân Nam tâu rằng bọn vong mệnh An Nam là Vũ Nghiêm Uy xâm phạm lãnh thổ, bắt Thổ quan, nên cùng khám xét chung. Phái đoàn trước đi bị ngăn trở vì đường sá không thông, nay tạm đình sai đi để giữ toàn quốc thể. Hoàng thượng phán:
―An Nam chiếu sứ bất thông, lại từ lâu không đến cống, phản nghịch đã rõ ràng, hãy sai sứ đến ngay hỏi tội. Việc chinh thảo sai bộ Binh bàn định gấp rồi tâu lên‖.
Nguồn: Minh thực lục v. 80, tr. 4070-4071; Thế Tông q. 193, tr. 1b-2a (Bản dịch đã dẫn, tập 3, tr. 181, 182)

205
1.20. Lệnh của Minh Thế Tông phong Mạc Đăng Dung làm Đô thống sứ An Nam
Ngày 4 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 20 [29/04/1541]
Sau khi bàn bạc rồi phúc tấu, Hoàng thượng mệnh:
―Giáng nước An Nam làm ty Đô thống sứ An Nam, cho Mạc Đăng Dung làm
quan Đô thống sứ An Nam tòng Nhị phẩm, con cháu thế tập, được cấp ấn bạc. Tất cả các hệ thống tự tiện thiết lập trước kia đều bị huỷ bỏ; đặt ra ty Tuyên phủ cho 13 lộ như Hải Dương, Sơn Nam v.v... mỗi nơi đặt một viên Phó sứ Thiêm sự Tuyên uỷ Đồng tri. Đăng Dung được quyền thăng, giáng, chuyển đổi, hay cho thế tập. Ty Phiên Quảng Tây mỗi năm cấp lịch Đại thống để phụng theo Chính sóc, vẫn ra lệnh ba năm cống một lần, hoàn lại bốn động đã xâm chiếm cho châu Khâm, lệnh Phủ thần Lưỡng Quảng gia tăng thưởng tuất. Không cần phúc trình về số lượng tiền, ngũ cốc, binh giáp. Lệnh Thủ thần khám hỏi về việc Lê Ninh, nếu là con cháu họ Lê thì cấp cho bốn quận đang chiếm giữ để nối dõi, nếu không thì bị truất. Mạc Văn Minh và các sứ thần khác của Di và những người bạn tống đều được ban thưởng‖.
Nguồn: Minh thực lục, v. 82, tr. 4970 – 4971; Thế Tông q. 248, tr. 3b, 4a (Bản dịch đã dẫn, tập 3, tr. 218)
1.21. Triều Minh giảm mức yến tiệc dành cho sứ thần nhà Mạc
Ngày 21 tháng 4 năm Gia Tĩnh thứ 22 [24/5/1543]
Đô thống sứ ty Đông thống sứ An Nam Mạc Phúc Hải sai bọn Tuyên phủ đồng tri trong hạt là Nguyễn Điển Kính, Nguyễn Chiếu Huấn phân chia làm hai nhóm dâng biểu làm lễ tạ ân và tiến cống.
Theo lệ ban cho các vật lụa là, lụa quyên, tiền giấy. Bộ Lễ cho rằng tên nước An Nam đã bị phế, không còn vua, vậy người đến cống không nên đối xử như Bồi thần trước kia; nên hạn chế sự ban thưởng.
Hoàng thượng phán:
―Phúc Hải đã có lòng thành nạp cống, đồ vật ban cho giống như cũ, riêng yến tiệc cho làm giảm bớt để chứng tỏ không phải là Bồi thần.‖
Nguồn: Minh thực lục v. 83, tr 5366; Thế Tông q. 273, tr.4b (Bản dịch đã dẫn, tập 3, tr 222)
1.22. Số lượng người trong đoàn sứ giả nhà Mạc sang triều cống nhà Minh năm 1576
Ngày 10 tháng Giêng năm Vạn Lịch thứ 4 [9/2/1576]
Đô thống sứ An Nam Mạc Hậu Hợp sai bọn Tuyên ủy Đồng tri Lê Như Hổ cùng 73 người đến triều cống.
Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Chính sách của việt nam với mỹ và quan hệ việt mỹ những năm đầu thế kỷ XXI, thực trạng và triển vọng Văn hóa, Xã hội 0
D Đề cương cao học quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại Việt Nam Văn hóa, Xã hội 0
D Hoàn thiện chính sách marketing quan hệ khách hàng tại công ty du lịch vietravel chi nhánh đà nẵng Luận văn Kinh tế 0
O Quan hệ Việt Nam – Malaysia kinh nghiệm của malaysia đối với Việt Nam trong chính sách thu hút đầu tư Luận văn Kinh tế 0
M Tỷ giá hối đoái - Mối quan hệ với cán cân thanh toán quốc tế và giải pháp để hoàn thiện chính sách tỷ giá ở Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
N Mối quan hệ giữa chính sách lương, thưởng và động lực làm việc nghiên cứu trường hợp xí nghiệp quản lý và phát triển nhà Hoàn Kiếm Luận văn Kinh tế 0
C Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội trong quá trình phát triển ở Vĩnh Phúc hiện na Kinh tế chính trị 0
M Quan niệm về mối quan hệ thầy - trò qua sách luận ngữ của Khổng tử Kinh tế chính trị 0
S Chính sách đào tạo nhân lực thông tin trong các cơ quan thông tin khoa học và công nghệ thuộc Hệ thống Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia Văn hóa, Xã hội 0
E Nghiên cứu mối quan hệ pháp lí giữa quá trình xác lập quyền và giám định xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật về kiểu dáng công nghiệp Văn hóa, Xã hội 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top