Download miễn phí Quản lý Nhà nước về hạn ngạch và nghĩa vụ của cả doanh nghiệp được phân bổ hạn ngạch
LỜI NÓI ĐẦU 3
PHẦN I 4
Phần cơ sở lý luận 4
I. Hạn ngạch nhập khẩu (Import quota). 4
1. Khái niệm. 4
2. Nhà nước áp dụng biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch chủ yếu là nhằm một số mục đích. 5
3. Các mặt hàng được cấp hạn ngạch nhập khẩu. 7
4. So sánh tác động của hạn ngạch nhập khẩu và thuế quan tới thương mại, dịch vụ. 8
II. Hạn ngạch xuất khẩu (export quota). 19
1. Khái niệm. 19
2. Mục đích của Nhà nước khi áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. 20
3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraints-ver). 21
III. Các loại hạn ngạch khác. 23
IV. Các hàng rào thương mại phi thuế quan khác. 23
V. Những quy định việc xuất nhập khẩu hàng hoá quản lý bằng hạn ngạch. 25
1. Căn cứ để xác định danh mục, số lượng(hay trị giá của mặt hàng xuất nhập khẩu quản lý bằng hạn ngạch. 25
2.Thủ tục ấn định hạn ngạch. 26
3. Nguyên tắc và thủ tục phân bố hạn ngạch. 26
4. Quản lý Nhà nước về hạn ngạch và nghĩa vụ của cả doanh nghiệp được phân bổ hạn ngạch. 27
PHẦN II 28
Thực trạng và giải pháp trong phân bổ hạn ngạch. 28
I. Thực trạng của việc phân bổ hạn ngạch ở nước ta. 28
1. Hạn ngạch nhập khẩu. 28
2. Hạn ngạch xuất khẩu. 32
II. Kinh nghiệm áp dụng, sử dụng hạn ngạch ở các nước. 42
III. Những kiến nghị ,biện pháp sử dụng có hiệu quả hạn ngạch. 46
1. Những quy định chung. 46
2. Trình tự thực hiện. 47
3. Quy trình thực hiện đấu thầu. 48
4. Tiêu chuẩn xét thầu. 49
5. Trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trúng thầu. 49
KẾT LUẬN 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO 53
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/web-viewer.html?file=jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-demo-2015-10-11-quan_ly_nha_nuoc_ve_han_ngach_va_nghia_vu_cua_ca_doanh_nghie_gawMGBFFyy.png /tai-lieu/quan-ly-nha-nuoc-ve-han-ngach-va-nghia-vu-cua-ca-doanh-nghiep-duoc-phan-bo-han-ngach-86395/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
2. Mục đích của Nhà nước khi áp dụng hạn ngạch xuất khẩu.
Không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng xuất khẩu đặc biệt, quý hiếm, những nguyên liệu, tài nguyên của đất nước, hay những mặt hàng mang tính chiến lược đối với nền kinh tế. Nguyên nhân chính là do: Cấm vận buôn bán: Hiện nay có nhiều nước đang sử dụng hạn ngạch xuất như là một công cụ để cấm vận buôn bán giữa các nước với nước mình hay giữa các nước với nhau. Bằng cách hạn chế hay là không cho xuất sang một nước nào đó các nước có thể làm cho các nước khác gặp phải khó khăn về kinh tế-xã hội vì tự do thương mại đã khiến cho các nước phụ thuộc lẫn nhau.
Mặt khác để bảo vệ tiềm năng, bảo vệ động vật và cây trồng, bảo vệ di sản văn hoá, đồ cổ. Khi xuất hàng hoá sang các nước phải làm sao để xuất được hàng hoá mà có kết tinh lao động trong nước và các yếu tố khác mà không làm thiệt hại đến tài nguyên của đất nước. Trong trường hợp này tốt nhất nên tập trung xuất khẩu những hàng hoá đã qua chế biến tinh, không nên xuất khẩu những hàng hoá mà chưa qua chế biến hay mới chỉ chế biến thô.
3. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (Voluntary Export Restraints-ver).
Trong những năm 70 và 80 các hàng rào thương mại phi thuế quan phát triển rất nhanh. Đó là các thoả thuận hạn chế xuất khẩu một số hàng hoá cụ thể sang một số thị trường cá biệt được thoả thuận tự nguyện của các nhà sản xuất. Các thoả thuận này có thể là chính thức hay không chính thức. Hiện nay các thoả thuận như thế bao hàm hầu hết số lượng buôn bán về ô tô, thép, hàng dệt và quần áo may sẵn giữa các nước đang phát triển.
Hậu quả của hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng tương tự như hạn ngạch nhập khẩu nhưng có 3 sự khác biệt làm cho nó kém tác dụng hơn theo quan điểm của các nước nhập khẩu.
Một là, tiền thuê hạn ngạch do hạn chế xuất khẩu tự nguyện hoàn toàn thuộc về dân cư của nước xuất khẩu. Điều đó có nghĩa là nước nhập khẩu bị thiệt và so với thuế quan thu nhập của Chính phủ chuyển cho nước ngoài.
Hai là, nước nhập khẩu phải thanh toán ở mức giá nội địa đầy đủ mà không phải ở mức giá thế giới cho các hàng hoá nhập khẩu.Trong trường hợp này tương quan giữa giá xuất khẩu và giá nhập khẩu sẽ xấu đi và đường cong định giá của nước nhập khẩu dịch chuyển sang phải.
Ba là, hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính phân biệt đối xử nên chỉ áp dụng cho các nước cung ứng sản phẩm với chi phí thấp nhất. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng có thể buộc các nhà nhập khẩu phải chấp nhận nhập khẩu của các nước có chi phí cao hơn làm tăng khoản tiền phải trả của các nước nhập khẩu và phân phối không có hiệu quả các nguồn lực của thế giới.
Các nước xuất khẩu thích áp dụng hạn chế xuất khẩu tự nguyện hơn so với hạn ngạch nhập khẩu hay thuế quan vì thiệt hại đối với nước nhập khẩu sẽ là lợi ích đối với nước xuất khẩu (Tiền thuê quota + Pd >Pw) (Đồ thị ).
Trong thương mại quốc tế khía cạnh phân biệt đối xử phụ thuộc vào sự có mặt của các nhà cung ứng thay thế và chỉ xảy ra khi các nước nhập khẩu chấp nhận và khuyến khích các nhà cung ứng này mà thôi.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện kém tác dụng hơn các hàng rào thương mại khác nhưng dưới góc độ thể chế nó được các nước nhập khẩu ủng hộ. Tăng thuế quan và hạn ngạch đều trái với quy định chung của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vì vậy áp dụng các giải pháp đều có thể bị trả đũa bằng cấm vận quốc tế. Để tránh được hậu quả đó nước nhập khẩu mua chuộc các nhà cung ứng nước ngoài bằng cách đưa ra những lợi ích hạn chế của xuất khẩu tự nguyện. Các nước xuất khẩu nhận thấy rằng không chấp nhận những đề nghị đó có thể dẫn đến những hành động đơn phương của các nước nhập khẩu và vì vậy sự so sánh không phải là giữa hạn chế xuất khẩu tự nguyện sẽ cân bằng được các lợi thế và tránh được hậu quả của các hàng rào thương mại tự nguyện sẽ cân bằng được các lợi thế và tránh được hậu quả của các hàng rào thương mại khác.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện cho phép các nhà nhập khẩu thực hiện giá cả độc quyền, họ sẽ không bán thấp hơn khi nhập khẩu bổ sung. Trong trường này tiền thuê hạn ngạch đối với một số lượng nhập khẩu cố định tăng lên.
cách này đã được người Nhật áp dụng nhằm hạn chế xuất khẩu ô tô sang Mỹ và vô tuyến độ nét cao đối với Cộng đồng Châu Âu (EC). Mục đích chính của xuất khẩu tự nguyện là chấp nhận các ngành công nghiệp đạt đến gần trình độ tối đa hoá lợi nhuận.
III. Các loại hạn ngạch khác.
Ngoài hạn ngạch xuất nhập khẩu hiện nay còn có một số loại hạn ngạch khác như hạn ngạch công nghiệp, hạn ngạch sản xuất, hạn ngạch gia công tái xuất, hạn ngạch hội chợ triển lãm. Tuy nhiên vì các loại hạn ngạch này không được áp dụng rộng rãi trừ hạn ngạch công nghiệp và hạn ngạch sản xuất. Chủ yếu có hạn ngạch xuất nhập khẩu tác động tới thương mại và dịch vụ.
Hạn ngạch sản xuất: Ngoài việc trực tiếp tham gia vào thị trường và mua các sản phẩm do vậy làm tăng tổng cầu Chính phủ còn có thể làm cho giá cả của sản phẩm tăng bằng cách giảm cung. Chính phủ có thể làm điều này bằng các sắc lệnh - Chính phủ chỉ cần quy định hạn ngạch cho mỗi mặt hàng. Bằng cách ấn định hạn ngạch thích hợp giá cả có thể bị đẩy lên bất kỳ mức mong muốn nào.
IV. Các hàng rào thương mại phi thuế quan khác.
Nhìn chung tất cả các điều kiện áp dụng cho hàng hoá nước ngoài và nội địa đều có tác dụng như hàng rào thương mại. Tuy nhiên hầu hết các hàng rào phi thuế quan thường dẫn đến giảm các quan hệ buôn bán và thường rất khó đo lường ảnh hưởng của nó. Trong phần này chúng ta sẽ xem xét một số hàng rào phi thuế quan liên quan đến thuế quan và hạn ngạch như thế nào.
cách định giá của hải quan là hàng rào phi hạn ngạch dễ nhận thấy nhất. Bằng cách định giá hàng nhập khẩu ở mức giá cao hơn, nhân viên hải quan đã tăng tiền thuế phải trả. Sử dụng cách định giá của hải quan như là một hàng rào thương mại chỉ làm tăng chi phí nhập khẩu tương tự như thuế quan nhưng không làm tăng thu nhập cho Chính phủ của nước nhập khẩu. Nhiều khi nó mang tính chất chuyển đổi thuế hải quan.
Quy định về thành phần sản phẩm có nguồn gốc địa phương cũng là một hàng rào thương mại quan trọng. Các quy định này bảo vệ các nhà sản xuất sản xuất phụ tùng nội địa tương tự như hạn ngạch nhập khẩu. Cũng do quy định về thành phần địa phương, các doanh nghiệp buộc phải thực hiện một số hoạt động có hiệu quả hơn so với thực hiện ở nước ngoài. Tuy nhiên các quy định này không khuyến khích đầu tư nước ngoài mà chỉ làm tăng hoạt động buôn bán và có thể làm tăng chi phí do hàng hoá không được kết thúc quá trinhg sản xuất tại nơi có chi phí thấp nhất.
Sự ưu đãi của Chính phủ luôn luôn là khu vực màu mỡ cho sự phân biệt giữa nhà cung ứng nước ngo