Link tải miễn phí Luận văn: Quản lý thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam : Luận văn ThS. Kinh tế: 60.31.01
Nhà xuất bản: Khoa Kinh tế
Ngày: 2006
Chủ đề: Kinh tế tài chính
Ngân sách nhà nước
Quản lý kinh tế
Miêu tả: Hệ thống hóa các vấn đề về khái niệm, đặc điểm và vai trò của thu ngân sách nhà nước (NSNN), các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý thu NSNN. Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng công tác thu NSNN ở Việt Nam thời gián qua, chỉ rõ các nguyên nhân ảnh hưởng dến hiệu quả quản lý thu NSNN. Đề xuất giải pháp tập trung 4 nhóm cơ bản: các giải pháp về cơ chế chính sách, giải pháp về quy trình thủ tục nghiệp vụ, giải pháp về tổ chức, quản lý và các giải pháp hỗ trợ
Luận văn ThS Kinh tế chính trị 60.31.01 Khoa Kinh tế Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ THU NSNN 7
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý thu NSNN 7
1.1.1. Ngân sách Nhà nước 7
1.1.2. Thu Ngân sách Nhà nước 10
1.1.3. Quản lý thu Ngân sách Nhà nước 16
1.2. Kinh nghiệm quản lý thu NSNN ở một số nƣớc trên thế giới 26
1.2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc 26
1.2.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp
1.2.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
29
34
CHƢƠNG 2 : THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THU NSNN Ở VIỆT NAM 38
2.1. Quản lý thu NSNN ở Việt Nam trƣớc khi có Luật NSNN 38
2.1.1. Quản lý thu NSNN từ năm 1945 - 1990 38
2.1.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan thu 1990-1996 40
2.2. Quản lý thu NSNN sau khi có Luật NSNN năm 1996 43
2.2.1. Nội dung các khoản thu NSNN 44
2.2.2. Các khoản mục thu NSNN 44
2.2.3. Phân cấp quản lý thu NSNN 45
2.2.4. Bộ máy quản lý thu NSNN 46
2.2.5. Qui trình thu NSNN 47
2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam 54
2.3.1. Những kết quả đã đạt được trong quản lý thu NSNN 54
2.3.2. Một số hạn chế trong quản lý thu NSNN 65
2.3.3. Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trong quản lý thu NSNN 77
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiCHƢƠNG 3 : GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ THU NSNN Ở VIỆT NAM 83
3.1. Mục tiêu và những thách thức đặt ra cho công tác quản lý thu
NSNN giai đoạn 2006-2010 và đến năm 2020
83
3.1.1. Mục tiêu 83
3.1.2. Những thách thức đặt ra cho nguồn thu của NSNN trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế
84
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện quản lý thu NSNN 86
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý thu NSNN ở Việt Nam 87
3.3.1. Giải pháp về cơ chế chính sách 87
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện qui trình, thủ tục nghiệp vụ 96
3.3.3. Giải pháp về tổ chức, quản lý 105
3.3.4. Các giải pháp hỗ trợ 107
KẾT LUẬN 110
DANH MỤC PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Ngân sách Nhà nước (NSNN) đã trở
thành công cụ tài chính rất quan trọng, góp phần to lớn vào việc phát triển kinh
tế-xã hội. Thu NSNN không chỉ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước mà còn
là công cụ hữu hiệu để điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế. Những năm gần đây,
thu NSNN hàng năm liên tục gia tăng, chiếm trên 20% GDP. Thu NSNN liên
quan đến rất nhiều ngành, lĩnh vực, đối tượng khác nhau.
Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy nên thời gian qua, lĩnh vực quản lý
thu NSNN đã được chú trọng: Luật NSNN ban hành năm 1996 (có hiệu lực từ
1/1/1997); Luật NSNN sửa đổi năm 1998, Luật NSNN sửa đổi năm 2002 (có hiệu
lực 1/1/2004) và các văn bản dưới luật đã góp phần đổi mới cơ chế quản lý NSNN
cũng như cơ chế thu NSNN, góp phần xây dựng và hoàn thiện bộ máy cơ quan
thu thống nhất từ trung ương (TW) đến địa phương (cơ quan Tài chính, Thuế, Hải
quan, Kho bạc Nhà nước (KBNN)...), góp phần đổi mới quy trình thu, phương
thức quản lý thu NSNN. Nhờ đó, công tác quản lý thu NSNN đã đạt được những
kết quả nhất định: số thu được tập trung đầy đủ và nhanh chóng vào NSNN và
được quản lý ngày một chặt chẽ, thống nhất, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi của
ngân sách các cấp, góp phần ổn định và phát triển kinh tế của cả nước. Tuy
nhiên, trong điều kiện hiện nay, NSNN còn bội chi, yêu cầu của thu NSNN là:
đảm bảo tập trung nguồn thu, thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, tăng cường bồi
dưỡng nguồn thu vẫn được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
nhằm bảo đảm đủ nguồn lực, phục vụ tốt các nhiệm vụ chiến lược mà Đảng và
Nhà nước đã đề ra.
Mục tiêu cụ thể của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai
đoạn 2006 – 2010 được xác định trong Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi2
thứ X, và được cụ thể hoá trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết
Đại hội X của Bộ Tài chính là “kết quả thu NSNN giai đoạn 2006-2010 đạt
tổng thu khoảng 1.500 nghìn tỷ đồng (tăng 90% so với giai đoạn 2001 - 2005),
tỷ lệ huy động bình quân vào NSNN khoảng 21 - 22% GDP, trong đó động
viên từ thuế, phí là 20- 21% GDP”. Để đạt được mục tiêu đó, việc huy động
các nguồn lực đảm bảo nhu cầu nguồn vốn cho phát triển có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng. Và đáng chú ý là từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997,
nguồn vốn đầu tư nước ngoài không ổn định và luôn trong tình trạng cạnh tranh
quyết liệt, cho nên việc gia tăng huy động nguồn vốn trong nước, trong đó đầu
tư từ NSNN là bộ phận quan trọng nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất, có tầm quan
trọng sống còn.
Hiện nay, công tác quản lý thu NSNN vẫn còn nhiều hạn chế như: chính
sách chế độ chưa đồng bộ, qui trình lập dự toán còn cồng kềnh, tổ chức thu còn
do nhiều cơ quan thực hiện; quản lý thu còn thiếu thống nhất; các cách
thu còn cùng kiệt nàn, chưa khai thác tốt những thành tựu công nghệ thông tin vào
quản lý thu... nên còn gây khó khăn cho người nộp. Những bất cập này đã tác
động không nhỏ đến việc thu và quản lý nguồn thu NSNN trong những năm
vừa qua.
Điều rõ ràng là, từ yêu cầu gia tăng nguồn thu, trước yêu cầu của phát
triển và hội nhập kinh tế quốc tế, để khắc phục những hạn chế trên đây đòi hỏi
phải tiếp tục nghiên cứu cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm tìm ra
những giải pháp hữu hiệu để tiếp tục đổi mới công tác quản lý thu NSNN của
chúng ta.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề "Quản lý thu ngân sách
nhà nước ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu của Luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu3
Từ khi Luật NSNN (1996) được ban hành, công tác quản lý thu NSNN
được chuyển đổi theo Luật NSNN (1996), đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến quản lý thu NSNN. Có thể nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có
liên quan như:
- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tập trung, quản lý các khoản
thu NSNN và kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành của TS.Nguyễn
Thanh Dương, Kho bạc Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, hoàn thành tháng 3
năm 2001. Đề tài đã đánh giá thực trạng, đề xuất những giải pháp nhằm hướng
đến hoàn thiện cơ chế quản lý quĩ NSNN trên địa bàn và quĩ NSNN nói chung
cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, năm 2002 Việt Nam đã thông
qua Luật Ngân sách sửa đổi, nên rất cần có những nghiên cứu khảo sát thực tế
kịp thời, làm cơ sở cho những điều chỉnh, định hướng trong xây dựng chính
sách và chỉ đạo điều hành thực tiễn.
- Hoàn thiện quản lý thu NSNN qua KBNN trên địa bàn thành phố Hà
Nội – Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Đặng Văn Hiền - năm 2004. Luận văn đã
làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp để quản lý tốt nguồn thu NSNN
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, đề tài cũng mới chỉ khảo sát trên địa
bàn Hà Nội, chưa có phân tích, đánh giá một cách tổng thể trên bình diện cả
nước, chưa có sự so sánh cần thiết giữa các địa phương, khu vực để rút ra
những đặc điểm chung làm cơ sở đề xuất các giải pháp toàn diện.
- Vận dụng cách Lập ngân sách theo kết quả đầu ra trong quản
lý, chi tiêu công của Việt nam, Sách chuyên khảo của TS.Sử Đình Thành –
Khoa Tài chính Nhà nước, Đại học Kinh tế T.P Hồ Chí Minh- Nhà xuất bản
Tài chính ấn hành 2005. Cuốn sách đã cung cấp nhiều thông tin qua các giai
đoạn về quá trình quản lý, lập ngân sách và giới thiệu cách lập ngân
sách theo kết quả đầu ra tại Việt nam. Tuy nhiên chưa đề cập một cách chuyên
sâu riêng đối với lĩnh vực thu NSNN.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi4
- Công trình: Trao đổi thêm về qui trình thu NSNN bằng tiền mặt của tác
giả Nguyễn Thanh Hiếu – Tạp chí Quản lý Ngân quĩ Quốc gia, số 17, tháng
11/2003. Bài viết đã đề cập đến phần thu bằng tiền mặt - một phần quan trọng
về nghiệp vụ thu NSNN qua KBNN. Song các nghiệp vụ thu qua chuyển
khoản, thu qua cơ quan thu còn chưa được đề cập tới.
- Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp thu NSNN giữa các cơ quan
Thuế – Hải quan- Kho bạc Nhà nước – Nguyễn Hữu Hiệp – Tạp chí quản lý
Ngân quĩ Quốc gia, số 33 tháng 3/2005. Bài viết đã đề cập đến việc phối hợp
công tác thu NSNN giữa các cơ quan thu với KBNN. Tuy nhiên những vấn đề
về phối hợp ở mức cao hơn như qua mạng diện rộng, hợp nhất kế toán thu
NSNN, cũng chưa được đề cập có hệ thống.
Tóm lại: Phần lớn các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đều tập
trung làm rõ quản lý NSNN nói chung và tại một số địa phương hay đề cập
đến một phần của công tác quản lý thu NSNN. Hiện chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về quản lý thu NSNN ở Việt Nam. Vì
lý do đó tác giả đã lựa chọn đề tài trên với hy vọng có cái nhìn xác thực, hệ
thống trên bình diện cả nước về công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Tìm những giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý thu nhằm nâng
cao hiệu quả công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam, góp phần thu đúng, thu
đủ, thu kịp thời các khoản thu vào NSNN, đồng thời tăng cường bồi dưỡng
nguồn thu cho NSNN để phục vụ cho các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh
tế – xã hội của đất nước.
Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nói trên, các nhiệm vụ cần thực hiện
là: - Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về quản lý thu NSNN.
- Đánh giá thực trạng quản lý thu NSNN ở Việt Nam thời gian qua.5
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý thu NSNN ở Việt Nam .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn quản lý thu NSNN
ở Việt Nam. Trong khi nghiên cứu, phân tích, luận văn sẽ khảo sát trên bình
diện quốc gia và có phân tích sâu ở một số lĩnh vực như theo sắc thuế, khu vực
kinh tế, địa phương và so sánh với quản lý thu NSNN ở một số quốc gia trên
thế giới. Trong các nguồn thu của NSNN, luận văn chủ yếu tập trung nghiên
cứu nguồn thu từ thuế và phân tích sâu vai trò của KBNN trong công tác quản
lý thu NSNN ở Việt Nam. Đánh giá thực trạng thu NSNN ở Việt Nam trong
những năm gần đây. Về thời gian nghiên cứu tập trung vào giai đoạn gần mười
năm trở lại đây- từ khi có Luật NSNN, tất nhiên để có cái nhìn chiều sâu, trong
khi phân tích tác giả sẽ so sánh với các giai đoạn trước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử và các phương pháp như: thống kê, tổng hợp,
phân tích kinh tế nhằm tìm ra những căn cứ, số liệu minh hoạ cho các luận
điểm, đồng thời góp phần đoán cho giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh đó, tác
giả còn sử dụng phương pháp phân kỳ, so sánh nhằm tìm ra những nét đặc thù
của các giai đoạn khác nhau.
6. Những đóng góp của luận văn
Thứ nhất: Hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề chung như khái
niệm, đặc điểm và vai trò của thu NSNN, các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý thu
NSNN.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi6
Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng công
tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam và chỉ rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu
quả quản lý thu NSNN của nước ta thời gian qua.
Thứ ba: Đề xuất được các giải pháp có tính khả thi, tiếp tục đổi mới
công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam tập trung vào 4 nhóm cơ bản là: Các
giải pháp về cơ chế chính sách; giải pháp về qui trình thủ tục nghiệp vụ; giải
pháp về tổ chức, quản lý và một số giải pháp hỗ trợ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý thu NSNN.
Chương 2: Thực trạng quản lý thu NSNN ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý thu NSNN ở Việt nam.7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ THU NSNN
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý thu NSNN
1.1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1.1.Khái niệm ngân sách nhà nước
NSNN là phạm trù kinh tế và phạm trù lịch sử. Sự hình thành và phát
triển của NSNN gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hoá -
tiền tệ trong các cách sản xuất của các cộng đồng và Nhà nước của
từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của Nhà nước, sự tồn tại của kinh tế
hàng hoá - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của
NSNN.
Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để
duy trì và phát triển xã hội. Để thực hiện chức năng đó, Nhà nước phải có
nguồn lực tài chính. Bằng quyền lực công cộng, Nhà nước đã ấn định các thứ
thuế, bắt công dân phải đóng góp để chi tiêu cho bộ máy nhà nước, quân đội,
cảnh sát...
Dưới chế độ phong kiến, chi tiêu của Nhà nước và chi tiêu của Nhà vua
không có sự tách biệt nhau. Khi giai cấp tư sản ra đời, sự lớn mạnh về kinh tế
của giai cấp này đòi hỏi phải phá bỏ cát cứ phong kiến, mở rộng thị trường và
lưu thông hàng hoá tự do. Giai cấp tư sản gây áp lực về kinh tế, tài chính đối
với Nhà vua, từng bước tham gia và khống chế Nghị viện. Giai cấp tư sản đấu
tranh đòi Nhà vua không được quyền quyết định thu thuế mà phải do Nghị viện
quyết định. Sau đó, cuộc đấu tranh chuyển sang đòi tách chi tiêu của Nhà vua
ra khỏi chi tiêu của Nhà nước và toàn bộ chi tiêu của Nhà nước phải do Nghị
viện quyết định. Tất nhiên, Nhà vua không dễ dàng chấp nhận, nhưng với thế
lực đang lên và ngày càng lớn mạnh, nhất là khi đã khống chế Nghị viện, giai
cấp tư sản đã giành được thắng lợi. Tuy nhiên, thu của Nhà nước và chi tiêu
của Nhà nước vẫn là hai mảng riêng biệt. Giai cấp tư sản tiếp tục cuộc đấu
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi8
tranh đòi hỏi thống nhất thu nhập và chi tiêu của Nhà nước vào một và NSNN
đã ra đời.
NSNN chỉ các khoản thu nhập và các khoản chi tiêu của Nhà nước được
thể chế hoá bằng pháp luật. Quốc hội thực hiện quyền lập pháp về NSNN, còn
quyền hành pháp giao cho Chính phủ thực hiện [12].
NSNN đã có quá trình ra đời và hình thành suốt từ thế kỷ XII đến thế kỷ
XVIII. Cho đến nay, các Nhà nước khác nhau đều tạo lập và sử dụng NSNN,
thuật ngữ NSNN được sử dụng khá phổ biến ở hầu khắp các quốc gia trên thế
giới. Tuy nhiên, khái niệm NSNN chưa thống nhất và NSNN được nhìn nhận dưới
nhiều góc độ khác nhau: pháp lý, kinh tế, xã hội.
Một số nhà kinh tế Anh cho rằng: NSNN là kế hoạch chi tiêu và tài trợ
của chính phủ: "Ngân sách là bản tường trình các kế hoạch chi tiêu và tài trợ...
của chính phủ" [17, tr.55].
Theo Từ điển thuật ngữ Tài chính - tín dụng: "NSNN là dự toán và thực
hiện các khoản thu chi bằng tiền của nhà nước trong khoảng thời gian (thường
là một năm)".
Theo một số tác giả, “NSNN là dự toán hàng năm về toàn bộ các nguồn
tài chính được huy động cho nhà nước và sử dụng các nguồn tài chính đó,
nhằm bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước do Hiến pháp quy
định" [36, tr. 32].
Theo Luật NSNN năm 1996 và Luật NSNN sửa đổi năm 2002 của Việt
Nam, tại Điều 1 quy định: "NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước
trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước" [ 25].
Tóm lại : NSNN được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài
chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà9
nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. Nó
phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát
sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo
nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
1.1.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
NSNN là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia. NSNN bao
gồm những quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tài chính của
quốc gia. Có thể kể ra các quan hệ đó là:
Quan hệ tài chính giữa Nhà nước với dân cư, các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế (đặc biệt là với doanh nghiệp nhà nước), các tổ chức xã
hội, các Nhà nước khác và với các tổ chức quốc tế. Đồng thời bao gồm cả
quan hệ tài chính giữa Nhà nước với tư cách là bên tham gia hình thành quỹ
công như quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ đầu tư...
Các quan hệ tài chính thuộc NSNN có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN gắn với quyền lực của Nhà
nước và việc thực hiện các chức năng của Nhà nước. Nhà nước quyết định mức
thu chi, nội dung và cơ cấu thu chi NSNN.
Thứ hai, hoạt động thu chi NSNN được thực hiện trên cơ sở những luật
lệ do Nhà nước quy định. Nhà nước thống nhất quản lý và sử dụng cho nhu cầu
chung của cả nước.
Thứ ba, NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước, luôn chứa đựng lợi
ích chung, lợi ích công cộng. Hoạt động thu chi NSNN là sự thể hiện các mặt
hoạt động kinh tế - xã hội của Nhà nước, là việc xử lý các quan hệ lợi ích trong
xã hội khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia. Lợi ích
của Nhà nước (lợi ích chung của quốc gia) thể hiện cả trong phân phối thu nhập
của doanh nghiệp, của dân cư, phân phối GDP, GNP và cả trong phân bổ các
nguồn lực tài chính cho các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của
quốc gia.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi10
Thứ tư, NSNN cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét
riêng biệt của NSNN với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước là
nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng riêng và chỉ sau đó NSNN mới
được chi dùng cho những mục đích nhất định, đã định trước.
Nghiên cứu những đặc điểm của NSNN giúp ta tìm được cách và
phương pháp quản lý NSNN một cách có hiệu quả.
1.1.2. Thu ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN là một trong hai nội dung hoạt động cơ bản của NSNN (Thu
và Chi). Đó là quá trình Nhà nước sử dụng các quyền lực có được của mình để
động viên, phân phối một bộ phận của cải của xã hội dưới dạng tiền tệ về tay
Nhà nước, hình thành nên quỹ NSNN.
Qua định nghĩa trên cho thấy:
Thứ nhất, thu NSNN là quá trình của nhiều hành vi, hành động kế tiếp
nhau của Nhà nước. Thật vậy, hoạt động thu NSNN thực chất là bao gồm rất
nhiều hành vi, hành động khác nhau của Nhà nước và có thể khái quát chúng
thành ba nhóm đó là: Nhà nước đề ra các chủ trương, phương hướng, mục
tiêu... về thu NSNN cho một khoảng thời gian hay một chu kỳ nào đó; Nhà
nước ban hành các chính sách, chế độ về thu NSNN: Ban hành các Luật, Pháp
lệnh. Nghị định... về thu thuế, phí, lệ phí... và Nhà nước tổ chức cơ chế hành
thu: Tổ chức các cơ chế thu các khoản thu cụ thể cho NSNN...
Thứ hai, thu NSNN được dựa trên các quyền lực vốn có của Nhà nước.
Nhà nước có rất nhiều quyền lực (sức mạnh), như: Quyền lực chính trị, quyền
lực quân sự, quyền lực kinh tế, quyền lực tôn giáo... và chúng đều là cơ sở, chỗ
dựa cho hoạt động thu NSNN.
Thứ ba, thu NSNN được thực hiện dưới dạng tiền tệ. Đó là một bộ phận
của cải vật chất của xã hội được huy động về tay Nhà nước nhưng khi được ghi
thu NSNN là phải dưới dạng tiền tệ.11
1.1.2.2. Đặc điểm của thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thu NSNN phản ánh các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong
quá trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể
trong xã hội. Sự phân chia đó là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu
tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức
năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Thứ hai, thu NSNN có phạm vi rộng, liên quan đến hầu hết các đối tượng
trong xã hội. Thực chất của thu NSNN là lấy về cho Nhà nước một phần thu
nhập của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Do đó, các tổ chức, cá nhân... có
thu nhập đều là đối tượng của hoạt động thu NSNN.
Thứ ba, thu NSNN được thực hiện với nhiều cách khác nhau.
Thực vậy, trong thu NSNN có nhiều cách được áp dụng như : Tự
nguyện - Bắt buộc ; Ngang giá - Không ngang giá; Có đối khoản - Không có
đối khoản trực tiếp; Kinh tế - Phi kinh tế ...Trong đó: bắt buộc, không ngang
giá, không có đối khoản trực tiếp, phi kinh tế... là rất phổ biến.
Thứ tư, thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các
phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập... Sự vận động của các phạm trù
đó vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác
dụng điều tiết của các công cụ thu NSNN.
1.1.2.3. Nội dung thu ngân sách nhà nước
Nguồn thu của NSNN là tất cả các nguồn tài chính hình thành trong quá
trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng cả trong và ngoài nước có khả
năng động viên vào NSNN để hình thành quỹ NSNN. Vấn đề quan trọng khi
bàn đến thu NSNN là cần xác định đúng đắn nguồn thu. Điều đó cho phép
xây dựng được chế độ động viên thích hợp, tránh bỏ sót nguồn thu, hạn chế
được tác động tiêu cực của thu NSNN đối với các hoạt động sản xuất kinh
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi12
doanh ở từng cơ sở. Như vậy, có thể coi giá trị tổng sản phẩm quốc gia và các
giá trị khác của tài sản quốc gia đều là nguồn tài chính. Song, không phải tất cả
các nguồn tài chính đều là nguồn thu của NSNN. Chỉ những nguồn tài chính
thông qua phân phối có khả năng động viên vào NSNN mới được coi là nguồn
thu của NSNN. Nguồn thu của NSNN là một đại lượng không ổn định, luôn
chịu ảnh hưởng của cơ cấu sản xuất và kết quả của sản xuất kinh doanh và cơ
chế động viên, phân phối.
Tùy theo nhu cầu của việc phân tích, đánh giá phục vụ cho công tác quản
lý cũng như phục vụ cho việc điều chỉnh các chính sách động viên, người ta có
thể phân loại nguồn thu NSNN theo các tiêu thức khác nhau: Chủ yếu bao gồm
các khoản theo 4 nhóm lớn sau đây:
- Thu nội địa : Gồm các khoản thu khác nhau, trong đó có nhiều sắc
thuế, chỉ tiêu thu, tính chất các khoản thu đa dạng, đối tượng thu lớn, phạm vi
điều chỉnh rộng, các đối tượng lớn như: sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, hộ cá thể kinh
doanh); các khoản thu từ nhà đất và một số sắc thuế tuỳ theo từng nước như:
thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân...
- Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu.
- Thu từ dầu thô (đối với các nước có dầu thô)
- Thu từ vay nợ, viện trợ (gồm các khoản thu từ viện trợ không hoàn lại
do các cam kết về tài chính với các nước và các tổ chức quốc tế; thu từ vay nợ
trong nước qua phát hành trái phiếu và thu từ vay nợ nước ngoài...)
Trong các nguồn thu của NSNN, thuế là một hình thức huy động tài
chính cho Nhà nước đã có từ lâu đời. Thuế trở thành công cụ để Nhà nước có
nguồn thu nhằm trang trải các chi tiêu của Nhà nước. Trải qua quá trình phát
triển lâu dài và cho đến nay, các Nhà nước đều sử dụng thuế để phân phối các
khoản thu nhập và huy động các nguồn thu cho Nhà nước. Nhà nước dùng
quyền lực của mình ban hành các luật thuế để bắt buộc dân cư và các tổ chức13
kinh tế đóng góp cho Nhà nước. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã
khẳng định: Một trong những quyền lực công của Nhà nước là thu thuế.
Các yếu tố cấu thành một sắc thuế gồm có: Người nộp thuế; người chịu
thuế; đối tượng đánh thuế; căn cứ tính thuế; thuế suất; đơn vị tính thuế; giá tính
thuế; khởi điểm đánh thuế; miễn giảm thuế; thưởng, phạt; thủ tục về thuế.
Trong nền kinh tế thị trường: Thuế tạo nguồn thu chủ yếu cho NSNN. Nguồn
tích luỹ của NSNN chỉ có thể tăng nhanh trên cơ sở nền kinh tế phát triển và
đạt hiệu quả cao. Thuế phải phát huy vai trò bồi dưỡng và khai thác nguồn thu
ngày càng tăng từ sự tăng trưởng kinh tế cho NSNN.
1.1.2.4. Vai trò của thu ngân sách nhà nước
Thứ nhất, thu NSNN có vai trò trong việc khai thác, động viên và tập
trung các nguồn tài chính cần thiết để tạo lập quỹ NSNN, đáp ứng nhu cầu chi
tiêu đã được dự tính cho từng giai đoạn phát triển. Dưới bất kỳ chế độ nào, nhà
nước muốn thực thi các chức năng, nhiệm vụ của mình, tất yếu phải có nguồn
tài chính. Các nguồn tài chính này có thể huy động từ các khu vực kinh tế, các
thành phần kinh tế, từ trong nước và ngoài nước.
Thứ hai, thu NSNN là công cụ điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, thu NSNN là một trong những công cụ
quan trọng của Nhà nước để định hướng, hướng dẫn, kích thích, điều tiết sản
xuất và tiêu dùng. Điều đó thể hiện trên một số mặt như sau:
- Thông qua thu NSNN, Nhà nước góp phần định hướng và hướng dẫn
sản xuất, kinh doanh. Mức thu cao hay thấp sẽ tác động đến lợi ích của các chủ
thể, và do đó có tác dụng định hướng đầu tư.
- Thu NSNN còn có tác dụng điều tiết sản xuất. Đối với các ngành, lĩnh
vực không khuyến khích sản xuất hay tiêu dùng, thì tỷ lệ thu cao sẽ làm giảm
nguồn lực trong các ngành, lĩnh vực đó. Ngược lại, đối với những ngành cần
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi14
khuyến khích, tỷ lệ thu thấp có tác dụng khuyến khích đầu tư, mở rộng sản
xuất. Những quy định về thu phí đối với các chất thải có ý nghĩa trong việc bảo
vệ môi trường.
Ngoài ra, thu NSNN là công cụ tham gia trực tiếp vào việc hình thành
các quan hệ tỷ lệ phân phối thu nhập, góp phần giúp Nhà nước thực hiện việc
hướng dẫn, kích thích hay điều tiết mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên
các mặt: thu nhập, cơ cấu ngành nghề, mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng,
mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng khuyến khích xuất khẩu
hay thay thế nhập khẩu...
Thứ ba, thu NSNN là công cụ góp phần thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm
soát của Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội. Đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường, vai trò kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước ngày
càng trở nên quan trọng. Bởi vì, với nền kinh tế thị trường, ngoài những ưu điểm
vốn có cũng có những khuyết tật khó tránh khỏi, nếu thiếu sự kiểm tra, kiểm soát
của Nhà nước. Những câu hỏi đặt ra cho người làm kinh tế ở bất cứ xã hội nào là:
Sản xuất những loại hàng hóa nào, sản xuất theo cách nào, hàng hóa được
sản xuất ra phân phối cho ai. Tất cả những vấn đề đó, không chỉ là thuộc về vai trò
của từng doanh nghiệp mà còn là vai trò của Nhà nước.
Tùy theo từng thời kỳ mà Nhà nước sử dụng những công cụ khác nhau
để can thiệp vào những vấn đề đó ở tầm vĩ mô cũng như vi mô. Ngày nay, Nhà
nước can thiệp vào các vấn đề đó chủ yếu ở tầm vĩ mô thông qua hoạt động
kiểm tra, kiểm soát bằng hệ thống pháp luật, hệ thống thuế. Thông qua công cụ
thuế, Nhà nước thực hiện việc kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất kinh
doanh trên các mặt chủ yếu như thu nhập, giá cả mặt hàng, hoạt động xuất nhập
khẩu...
Tóm lại, xét trên nhiều phương diện, thu NSNN có vai trò cực kỳ quan
trọng. Để phát huy vai trò tích cực của thu NSNN trong thực tế thì một trong15
những vấn đề quan trọng là thu đúng, thu đủ, thu kịp thời. Muốn vậy, phải xác
định đúng đắn nguồn thu và không ngừng bồi dưỡng nguồn thu.
1.1.2.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước
Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu NSNN là việc xác định mức
động viên và lĩnh vực động viên một cách đúng đắn, hợp lý. Điều đó không chỉ
ảnh hướng đến số thu NSNN, mà còn tác động mạnh mẽ đến quá trình phát
triển kinh tế, xã hội. Mức động viên và lĩnh vực động viên lại chịu tác động của
nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội của Quốc gia. Các nhân tố ảnh hưởng
đến thu NSNN cần kể đến là:
a. Thu nhập GDP bình quân đầu người:
Chỉ tiêu này phán ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một
quốc gia, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước, là
nhân tố quyết định đến mức động viên của NSNN để không ảnh hưởng tiêu cực
đến các vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của các tổ chức kinh tế, của các
tầng lớp dân cư.
3.3.2.6. Tăng cường công tác kế toán, kiểm toán, kiểm tra, thanh tra
thu NSNN
a. Công tác kế toán, kiểm toán: Từng bước hoàn chỉnh việc áp dụng các
chuẩn mực quốc tế về nghiệp vụ kế toán, kiểm toán. Thực hiện chế độ kiểm
toán bắt buộc đối với tất cả các đơn vị sử dụng ngân sách trên cơ sở tăng cường
hệ thống kiểm toán nhà nước; phát triển kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ.
Tổ chức thực hiện đưa Luật Kế toán vào cuộc sống.
b. Công tác kiểm tra, thanh tra: Cùng với việc mở cửa và hội nhập kinh
tế quốc tế, công tác kiểm tra, giám sát của ngành tài chính cần được tăng cường
và tập trung tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực hải quan và
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi108
lĩnh vực thuế nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời những gian lận
thương mại, vi phạm về thuế, đẩy mạnh công tác kiểm soát chi ngân sách thông
qua hệ thống kho bạc. Trong thời gian tới, cần tiến hành hiện đại hoá công tác
thanh tra thu NSNN bằng việc chuyển từ cơ chế thanh tra diện rộng theo
phương pháp thủ công, truyền thống dựa vào kinh nghiệm sang cơ chế thanh
tra dựa vào kỹ thuật quản lý theo rủi ro, tức là có vi phạm mới thanh tra, không
gian lận không thanh tra. Đồng thời phải xây dựng hệ thống phần mềm phân
tích thông tin thu nộp thuế, tình hình sản xuất kinh doanh của các đối tượng…
Ngoài ra, nên tăng quyền quyết định xử lý các vụ vi phạm thuế cho cơ
quan thuế, giao cho cơ quan thuế được quyền điều tra, khởi tố những trường
hợp vi phạm thuế với số tiền lớn, thành lập bộ máy cưỡng chế thuế thuộc
ngành thuế, thường xuyên triển khai công tác kiểm tra nội bộ ngành thuế, đảm
bảo các bộ phận trực thuộc cơ quan thuế thực thi nhiệm vụ đúng pháp luật,
đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tránh hiện tượng nhũng
nhiễu tiêu cực, gây phiền hà cho dân.
3.3.3. Giải pháp về tổ chức quản lý
3.3.3.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cường bồi dưỡng đào tạo
cán bộ làm công tác thu NSNN
Con người là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công của
công tác quản lý thu NSNN. Vì vậy, cần không ngừng thực hiện công tác
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý thu
NSNN nhằm tìm kiếm, sử dụng và phát huy cao nhất khả năng của mỗi con
người. Công tác nhân sự, cần coi trọng những vấn đề sau đây:
Trong thời gian tới, công tác đào tạo và đào tạo lại phải được đặc biệt
chú trọng để đảm bảo các cán bộ của ngành tài chính từ trung ương đến địa
phương phải hiểu rõ những chủ trương, chính sách của nhà nước và hội nhập
kinh tế, để từ đó vận dụng vào quá trình hoạch định chính sách cũng như quá
trình tổ chức thực hiện, gắn với các nội dung sau:109
- Tăng cường công tác đào tạo lại và phổ biến những kiến thức mới về
các lĩnh vực cụ thể, kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế cho các cán bộ
từ trung ương đến địa phương.
- Hoàn thiện, củng cố cơ chế đánh giá công thức để bố trí vào các công
việc phù hợp, những công chức không có đủ trình độ, khả năng chuyên môn sẽ
bố trí chuyển việc khác, đào tạo lại hay cho thôi việc.
- Thực hiện tiêu chuẩn hoá và chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ quản lý
thu NSNN, đặc biệt là những người trực tiếp làm công tác thu NSNN. Yêu cầu
những cán bộ này phải có năng lực chuyên môn cao, được đào tạo và bồi
dưỡng tốt, am hiểu và nắm vững tình hình kinh tế - xã hội cũng như các cơ chế
chính sách của Nhà nước. Đồng thời có tư cách, phẩm chất đạo đức tốt, có
trách nhiệm và tâm huyết với công việc được giao. Để thực hiện được những
yêu cầu nêu trên, hàng năm, các cơ quan phải rà soát và phân loại cán bộ theo
các tiêu chuẩn đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý,... Từ đó, có kế
hoạch bồi dưỡng, sắp xếp, phân công công tác theo đúng năng lực và trình độ
của từng người.
- Thực hiện luân phiên, luân chuyển cán bộ nhằm nâng cao chức năng
động, sáng tạo, chống bảo thủ, trì trệ và ngăn ngừa các sai phạm của cán bộ. Có
chế độ thưởng phạt nghiêm minh, tăng cường trách nhiệm cá nhân, tạo lòng tin
của Nhân dân đối với Nhà nước.
3.3.3.2. Về phân cấp quản lý nguồn thu
a. Về phân cấp nguồn thu giữa ngân sách TW và ngân sách địa phương
Thực hiện tăng các khoản thu phân chia giữa ngân sách TW và ngân
sách địa phương cho địa phương để nâng cao trách nhiệm của cả TW và địa
phương để đảm bảo nguồn lực cho phát triển kinh tế- xã hội theo hướng tích
cực. Sắp xếp lại các khoản thu TW hưởng 100% hay địa phương hưởng 100%.
Ngân sách TW hưởng 100% đối với các khoản thu liên quan đến chính sách
điều tiết vĩ mô nền kinh tế và không gắn trực tiếp với công tác tổ chức thực
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi110
hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh ở địa phương như: nguồn thu từ dầu thô, từ
hoạt động xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch
toán toàn ngành. Ngân sách địa phương hưởng 100% các khoản thu gắn với địa
phương, gắn với xã như: Thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử
dụng đất, thuế trước bạ nhà, đất, thuế nhà đất và thuế môn bài.
Các khoản thu còn lại thực hiện phân chia hợp lý giữa ngân sách TW và
ngân sách địa phương (kể cả thuế tiêu thụ đặc biệt nội địa TW hưởng 100%).
b. Sửa cơ chế thưởng vượt thu NSNN: Để công tác lập dự toán thu từ
hoạt động xuất nhập khẩu khách quan và phù hợp với thực tế đề nghị không
thưởng vượt thu thuế xuất, nhập khẩu. Đối với các khoản thưởng thu vượt dự
toán của địa phương nên có hướng dẫn để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng
và thực hiện các nhiệm vụ quan trọng khác.
3.3.4. Các giải pháp hỗ trợ
3.3.4.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và cung cấp dịch
vụ thuế để nâng cao tính tự giác và trách nhiệm của người nộp thuế
Công tác tập trung các khoản thu NSNN có kịp thời đầy đủ và có hiệu
quả hay không phụ thuộc rất lớn vào ý thức tự giác chấp hành các quy định về
việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, về thời hạn, quy trình thu NSNN của các đối
tượng nộp.
Kinh nghiệm ở hầu hết các nước cho thấy, yếu tố cơ bản để thực hiện
thành công một sắc thuế mới không chỉ phụ thuộc vào hệ thống văn bản pháp
luật mà còn rất cần có sự hiểu biết sâu sắc, kỹ lưỡng và ý thức tự giác chấp
hành của mỗi cán bộ thuế và của quảng đại quần chúng nhân dân, đặc biệt là là111
của những người nộp thuế. Cơ quan Thuế cần có sự phối hợp chặt chẽ với các
cấp chính quyền địa phương và các cơ quan thông tin tuyên truyền đại chúng
để tiến hành các công việc cụ thể sau :
Soạn thảo, phổ biến rộng rãi các tài liệu, lập trang Web trên mạng
Internet, thiết lập đường dây nóng để giải thích, tuyên truyền về thuế cho mọi
người dân biết để họ có hiểu biết đầy đủ, tường tận về chính sách thuế, phương
pháp kê khai thuế, cách tính thuế và thời hạn nộp thuế;
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về chính sách thuế, viết bài tuyên truyền
về thuế, chiến dịch tuyên truyền về thuế; Thực hiện tuyên truyền giáo dục pháp
luật thuế sâu rộng tới các tầng lớp dân cư thông qua các tổ chức đoàn thể như :
Trung tâm xúc tiến thương mại đầu tư, Phòng thương mại và công nghiệp Việt
nam, Hiệp hội doanh nghiệp trẻ. Đưa giáo dục về thuế vào chương trình giảng
dạy ở các trường học.
- Thành lập trung tâm tư vấn giải đáp thắc mắc, trả lời các vấn đề liên
quan đến chính sách thuế miễn phí cho mọi đối tượng.
Ngoài ra, cơ quan thu cần tổ chức các buổi toạ đàm, đối thoại với nhân
dân, với các cơ sở kinh doanh để thăm dò nguyện vọng của nhân dân, kịp thời
giúp đỡ cơ sở sản xuất - kinh doanh tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc
chấp hành chính sách thuế, qua đó phản ánh kịp thời các bất cập của cơ chế
hiện hành lên cơ quan quản lý cấp trên để có những sửa đổi, bổ sung nhằm làm
cho chính sách thuế ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập
trung ngày càng nhiều nguồn thu cho NSNN.
3.3.4.2. Tăng cường cơ sở vật chất, thực hiện quy chế thưởng phạt
trong công tác thu NSNN
a. Về cơ sở vật chất: Từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị
làm việc cho cán bộ làm công tác quản lý thu NSNN. Đảm bảo các thiết bị
chuyên ngành như máy đếm tiền, máy soi phát hiện tiền giả, két sắt, phương
tiện vận chuyển, các máy móc, thiết bị tin học, máy rút tiền, thẻ thanh toán, hệ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi112
thống kho tàng, trụ sở và các phương tiện làm việc khác, đảm bảo yêu cầu thu
hiện tại và yêu cầu hiện đại hóa công nghệ thu NSNN.
b. Về chế độ thưởng phạt: Công tác thu thuế trực tiếp qua KBNN được
thực hiện từ năm 1994 theo Thông tư số 39/TC/KBNN ngày 25/04/1994 của
Bộ Tài chính và đã đạt được nhiều kết quả tích cực: tiền thuế được tập trung
nhanh hơn vào NSNN; số thuế tồn đọng ở các cơ quan thu giảm nhiều. Tuy
nhiên cần có chế độ thưởng cho cán bộ quản lý thu NSNN thích đáng và phạt
nghiêm minh đối với các đối tượng chậm nộp thuế, thực hiện đúng chính sách
ưu đãi đối với các đôi tượng được miễn giảm thuế.
3.3.4.3. Tăng cường sự lãnh đạo của chính quyền các cấp và sự phối
hợp giữa cơ quan thu, cơ quan tài chính và các ngành hữu quan
Chính quyền các cấp cần coi thu NSNN là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm cần thực hiện, từ đó có các biện pháp hỗ trợ thiết thực cho công tác
này về mặt con người, cơ sở vật chất. Thường xuyên đôn đốc nhắc nhở các cơ
quan có liên quan tổ chức tốt công tác tập trung thu NSNN.
Các cơ quan Tài chính, Thuế, Hải quan, Kho bạc Nhà nước cần tăng
cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong công tác quản lý thu NSNN nhằm tổ
chức tốt việc theo dõi tình hình thu nộp thuế, nắm bắt chặt chẽ tình hình sản
xuất, kinh doanh của đối tượng nộp để có biện pháp đôn đốc thu nộp nhanh
gọn, kịp thời, đầy đủ; cơ quan Thuế cần phối hợp với KBNN trong việc phân
định lịch thu, xác định chính xác mục lục ngân sách của các khoản thu, bên
cạnh đó các cơ quan này cần có sự phối hợp kịp thời với các cơ quan công an,
toà án, viện kiểm sát trong việc xử lý các trường hợp vi phạm dây dưa, chây ỳ,
trốn lậu thuế. Hệ hống Thuế – Hải quan – KBNN cần phối hợp chặt chẽ theo
từng nội dung, từng cấp quản lý, định kỳ trao đổi thông tin trong công tác quản
lý thu thuế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phối hợp;
xây dựng hệ thống thông tin chung và có một cơ sở dữ liệu để khai thác.
Ngoài ra, các cơ quan thu, Kho bạc Nhà nước cần có các thoả thuận chặt113
chẽ với các ngân hàng trong việc trích chuyển kịp thời tài khoản của đơn vị nộp
thuế tại ngân hàng nhằm tập trung nhanh nguồn thu thuế, đồng thời góp phần
giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông.
Tóm lại, để hoàn thiện công tác quản lý thu NSNN đòi hỏi các cấp, các
cơ quan ban ngành phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau.
Từ những giải pháp mang tính định hướng cho đến những giải pháp cụ thể để
hoàn thiện từng quy trình thu, cách thu qua KBNN... Đồng thời, để
những giải pháp đó có thể áp dụng được trong thực tiễn, thì cần tạo lập
được đầy đủ các điều kiện về cơ chế, chính sách, về tổ chức bộ máy, trình độ
cán bộ, sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành và hiện đại hoá công nghệ
thông tin...
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi114
KẾT LUẬN
Quản lý thu NSNN là công việc hết sức cần thiết và có vai trò vô cùng
quan trọng trong việc đảm bảo nguồn thu cho NSNN, đáp ứng kịp thời nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, là công cụ giúp Chính phủ điều tiết,
điều chỉnh nền kinh tế. Bên cạnh đó, quản lý tốt nguồn thu NSNN còn góp
phần thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với toàn bộ
hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội.
Kinh nghiệm quốc tế (Trung Quốc, Pháp, Hàn Quốc) cũng cho thấy:
nguồn thu của NSNN là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong thực
thi các nhiệm vụ của Nhà nước và chính sách phát triển kinh tế của tất cả các
quốc gia. Vì vậy, công tác quản lý thu NSNN luôn được các quốc gia quan tâm
như một nhiệm vụ trọng yếu và không ngừng hoàn thiện.
Trong thời gian qua, quản lý thu NSNN ở Việt Nam đã đạt được những
kết quả rất đáng kể trong việc luật hóa các khoản thu NSNN trong Luật NSNN,
cải cách chính sách thuế, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ thu NSNN; từng
bước hiện đại hóa qui trình thủ tục nghiệp vụ, cách thu NSNN; Số thu
NSNN không ngừng gia tăng về qui mô, cơ cấu nguồn thu đã thay đổi theo
chiều hướng tích cực, nguồn thu tăng đều theo khu vực kinh tế và các địa
phương, đáp ứng yêu cầu bức thiết của Nhà nước về chi cho tiêu dùng và chi
cho đầu tư phát triển, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân.
Tuy nhiên, công tác thu NSNN vẫn còn những bất cập như: Hệ thống
văn bản chính sách về thu NSNN chưa đồng bộ, các Luật về quản lý như Luật
quản lý ngân sách, Luật quản lý thuế chưa được ban hành; qui trình lập dự toán
thu còn cồng kềnh; qui trình thu chưa thực sự hiện đại, thủ tục hành chính về
thu còn rườm rà, phức tạp chưa khai thác những công nghệ thông tin hiện đại115
vào quản lý thu; cơ cấu nguồn thu chưa bền vững; việc quản lý nguồn thu từ
vay nợ chưa hiệu quả; hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm soát, thẩm định thu
NSNN còn thiếu và yếu; sự phối hợp giữa các cơ quan, chính quyền trong quản
lý thu còn chưa chặt chẽ; Công tác tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp NSNN
còn yếu, cơ sở vật chất và trình độ của cán bộ làm công tác quản lý thu còn
nhiều bất cập, trình độ thanh toán của nền kinh tế còn thấp... Nhằm khắc phục
những hạn chế đã nêu trên; trước yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế
đòi hỏi quản lý thu NSNN phải được quan tâm hàng đầu và đặt lên một tầm cao
mới.
Để giải quyết các vấn đề trên, cần có một hệ thống các giải pháp đồng
bộ, tập trung vào 4 nhóm cơ bản là:
- Các giải pháp về cơ chế chính sách : hoàn thiện hệ thống văn bản về
quản lý thu NSNN, quản lý thuế, quản lý hải quan – xuất nhập khẩu, các khoản
vay nợ, viện trợ, sớm ban hành Luật quản lý ngân sách, Luật quản lý Thuế....
Đổi mới qui trình lập dự toán thu, cơ cấu nguồn thu, cải cách quản lý thu
NSNN trong cải cách hành chính của Nhà nước về tài chính.
- Các giải pháp về qui trình, thủ tục nghiệp vụ: Đổi mới qui trình thu,
hình thức thu, ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý thu, tăng cường thu qua
hệ thống Ngân hàng và xây dựng hệ cơ sở dự liệu thống nhất về thu NSNN
nhằm mục đích thống kê, tổng hợp, phân tích và dự báo thu, là cơ sở để Chính
phủ điều tiết nền kinh tế.
- Các giải pháp về tổ chức quản lý: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy,
đào tạo cán bộ quản lý thu NSNN, tăng cường phân cấp về thu NSNN.
- Các giải pháp hỗ trợ: Tăng cường công tác tuyên truyền cho đối tượng
nộp thuế, tăng cường cơ sở vật chất điều kiện làm việc cho cán bộ quản lý thu
NSNN và sự phối hợp của các ngành, các cấp trong quản lý thu NSNN./.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nhà xuất bản: Khoa Kinh tế
Ngày: 2006
Chủ đề: Kinh tế tài chính
Ngân sách nhà nước
Quản lý kinh tế
Miêu tả: Hệ thống hóa các vấn đề về khái niệm, đặc điểm và vai trò của thu ngân sách nhà nước (NSNN), các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý thu NSNN. Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng công tác thu NSNN ở Việt Nam thời gián qua, chỉ rõ các nguyên nhân ảnh hưởng dến hiệu quả quản lý thu NSNN. Đề xuất giải pháp tập trung 4 nhóm cơ bản: các giải pháp về cơ chế chính sách, giải pháp về quy trình thủ tục nghiệp vụ, giải pháp về tổ chức, quản lý và các giải pháp hỗ trợ
Luận văn ThS Kinh tế chính trị 60.31.01 Khoa Kinh tế Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ THU NSNN 7
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý thu NSNN 7
1.1.1. Ngân sách Nhà nước 7
1.1.2. Thu Ngân sách Nhà nước 10
1.1.3. Quản lý thu Ngân sách Nhà nước 16
1.2. Kinh nghiệm quản lý thu NSNN ở một số nƣớc trên thế giới 26
1.2.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc 26
1.2.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp
1.2.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
29
34
CHƢƠNG 2 : THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THU NSNN Ở VIỆT NAM 38
2.1. Quản lý thu NSNN ở Việt Nam trƣớc khi có Luật NSNN 38
2.1.1. Quản lý thu NSNN từ năm 1945 - 1990 38
2.1.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan thu 1990-1996 40
2.2. Quản lý thu NSNN sau khi có Luật NSNN năm 1996 43
2.2.1. Nội dung các khoản thu NSNN 44
2.2.2. Các khoản mục thu NSNN 44
2.2.3. Phân cấp quản lý thu NSNN 45
2.2.4. Bộ máy quản lý thu NSNN 46
2.2.5. Qui trình thu NSNN 47
2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam 54
2.3.1. Những kết quả đã đạt được trong quản lý thu NSNN 54
2.3.2. Một số hạn chế trong quản lý thu NSNN 65
2.3.3. Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế trong quản lý thu NSNN 77
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiCHƢƠNG 3 : GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ THU NSNN Ở VIỆT NAM 83
3.1. Mục tiêu và những thách thức đặt ra cho công tác quản lý thu
NSNN giai đoạn 2006-2010 và đến năm 2020
83
3.1.1. Mục tiêu 83
3.1.2. Những thách thức đặt ra cho nguồn thu của NSNN trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế
84
3.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện quản lý thu NSNN 86
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý thu NSNN ở Việt Nam 87
3.3.1. Giải pháp về cơ chế chính sách 87
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện qui trình, thủ tục nghiệp vụ 96
3.3.3. Giải pháp về tổ chức, quản lý 105
3.3.4. Các giải pháp hỗ trợ 107
KẾT LUẬN 110
DANH MỤC PHỤ LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Ngân sách Nhà nước (NSNN) đã trở
thành công cụ tài chính rất quan trọng, góp phần to lớn vào việc phát triển kinh
tế-xã hội. Thu NSNN không chỉ đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước mà còn
là công cụ hữu hiệu để điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế. Những năm gần đây,
thu NSNN hàng năm liên tục gia tăng, chiếm trên 20% GDP. Thu NSNN liên
quan đến rất nhiều ngành, lĩnh vực, đối tượng khác nhau.
Với vị trí, vai trò quan trọng như vậy nên thời gian qua, lĩnh vực quản lý
thu NSNN đã được chú trọng: Luật NSNN ban hành năm 1996 (có hiệu lực từ
1/1/1997); Luật NSNN sửa đổi năm 1998, Luật NSNN sửa đổi năm 2002 (có hiệu
lực 1/1/2004) và các văn bản dưới luật đã góp phần đổi mới cơ chế quản lý NSNN
cũng như cơ chế thu NSNN, góp phần xây dựng và hoàn thiện bộ máy cơ quan
thu thống nhất từ trung ương (TW) đến địa phương (cơ quan Tài chính, Thuế, Hải
quan, Kho bạc Nhà nước (KBNN)...), góp phần đổi mới quy trình thu, phương
thức quản lý thu NSNN. Nhờ đó, công tác quản lý thu NSNN đã đạt được những
kết quả nhất định: số thu được tập trung đầy đủ và nhanh chóng vào NSNN và
được quản lý ngày một chặt chẽ, thống nhất, đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi của
ngân sách các cấp, góp phần ổn định và phát triển kinh tế của cả nước. Tuy
nhiên, trong điều kiện hiện nay, NSNN còn bội chi, yêu cầu của thu NSNN là:
đảm bảo tập trung nguồn thu, thu đúng, thu đủ, thu kịp thời, tăng cường bồi
dưỡng nguồn thu vẫn được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm
nhằm bảo đảm đủ nguồn lực, phục vụ tốt các nhiệm vụ chiến lược mà Đảng và
Nhà nước đã đề ra.
Mục tiêu cụ thể của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta giai
đoạn 2006 – 2010 được xác định trong Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi2
thứ X, và được cụ thể hoá trong Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết
Đại hội X của Bộ Tài chính là “kết quả thu NSNN giai đoạn 2006-2010 đạt
tổng thu khoảng 1.500 nghìn tỷ đồng (tăng 90% so với giai đoạn 2001 - 2005),
tỷ lệ huy động bình quân vào NSNN khoảng 21 - 22% GDP, trong đó động
viên từ thuế, phí là 20- 21% GDP”. Để đạt được mục tiêu đó, việc huy động
các nguồn lực đảm bảo nhu cầu nguồn vốn cho phát triển có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng. Và đáng chú ý là từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997,
nguồn vốn đầu tư nước ngoài không ổn định và luôn trong tình trạng cạnh tranh
quyết liệt, cho nên việc gia tăng huy động nguồn vốn trong nước, trong đó đầu
tư từ NSNN là bộ phận quan trọng nhất, chiếm tỷ lệ cao nhất, có tầm quan
trọng sống còn.
Hiện nay, công tác quản lý thu NSNN vẫn còn nhiều hạn chế như: chính
sách chế độ chưa đồng bộ, qui trình lập dự toán còn cồng kềnh, tổ chức thu còn
do nhiều cơ quan thực hiện; quản lý thu còn thiếu thống nhất; các cách
thu còn cùng kiệt nàn, chưa khai thác tốt những thành tựu công nghệ thông tin vào
quản lý thu... nên còn gây khó khăn cho người nộp. Những bất cập này đã tác
động không nhỏ đến việc thu và quản lý nguồn thu NSNN trong những năm
vừa qua.
Điều rõ ràng là, từ yêu cầu gia tăng nguồn thu, trước yêu cầu của phát
triển và hội nhập kinh tế quốc tế, để khắc phục những hạn chế trên đây đòi hỏi
phải tiếp tục nghiên cứu cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm tìm ra
những giải pháp hữu hiệu để tiếp tục đổi mới công tác quản lý thu NSNN của
chúng ta.
Từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề "Quản lý thu ngân sách
nhà nước ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu của Luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu3
Từ khi Luật NSNN (1996) được ban hành, công tác quản lý thu NSNN
được chuyển đổi theo Luật NSNN (1996), đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến quản lý thu NSNN. Có thể nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có
liên quan như:
- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tập trung, quản lý các khoản
thu NSNN và kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nước trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành của TS.Nguyễn
Thanh Dương, Kho bạc Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, hoàn thành tháng 3
năm 2001. Đề tài đã đánh giá thực trạng, đề xuất những giải pháp nhằm hướng
đến hoàn thiện cơ chế quản lý quĩ NSNN trên địa bàn và quĩ NSNN nói chung
cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, năm 2002 Việt Nam đã thông
qua Luật Ngân sách sửa đổi, nên rất cần có những nghiên cứu khảo sát thực tế
kịp thời, làm cơ sở cho những điều chỉnh, định hướng trong xây dựng chính
sách và chỉ đạo điều hành thực tiễn.
- Hoàn thiện quản lý thu NSNN qua KBNN trên địa bàn thành phố Hà
Nội – Luận văn Thạc sĩ kinh tế của Đặng Văn Hiền - năm 2004. Luận văn đã
làm rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp để quản lý tốt nguồn thu NSNN
trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, đề tài cũng mới chỉ khảo sát trên địa
bàn Hà Nội, chưa có phân tích, đánh giá một cách tổng thể trên bình diện cả
nước, chưa có sự so sánh cần thiết giữa các địa phương, khu vực để rút ra
những đặc điểm chung làm cơ sở đề xuất các giải pháp toàn diện.
- Vận dụng cách Lập ngân sách theo kết quả đầu ra trong quản
lý, chi tiêu công của Việt nam, Sách chuyên khảo của TS.Sử Đình Thành –
Khoa Tài chính Nhà nước, Đại học Kinh tế T.P Hồ Chí Minh- Nhà xuất bản
Tài chính ấn hành 2005. Cuốn sách đã cung cấp nhiều thông tin qua các giai
đoạn về quá trình quản lý, lập ngân sách và giới thiệu cách lập ngân
sách theo kết quả đầu ra tại Việt nam. Tuy nhiên chưa đề cập một cách chuyên
sâu riêng đối với lĩnh vực thu NSNN.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi4
- Công trình: Trao đổi thêm về qui trình thu NSNN bằng tiền mặt của tác
giả Nguyễn Thanh Hiếu – Tạp chí Quản lý Ngân quĩ Quốc gia, số 17, tháng
11/2003. Bài viết đã đề cập đến phần thu bằng tiền mặt - một phần quan trọng
về nghiệp vụ thu NSNN qua KBNN. Song các nghiệp vụ thu qua chuyển
khoản, thu qua cơ quan thu còn chưa được đề cập tới.
- Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp thu NSNN giữa các cơ quan
Thuế – Hải quan- Kho bạc Nhà nước – Nguyễn Hữu Hiệp – Tạp chí quản lý
Ngân quĩ Quốc gia, số 33 tháng 3/2005. Bài viết đã đề cập đến việc phối hợp
công tác thu NSNN giữa các cơ quan thu với KBNN. Tuy nhiên những vấn đề
về phối hợp ở mức cao hơn như qua mạng diện rộng, hợp nhất kế toán thu
NSNN, cũng chưa được đề cập có hệ thống.
Tóm lại: Phần lớn các công trình nghiên cứu và các bài viết trên đều tập
trung làm rõ quản lý NSNN nói chung và tại một số địa phương hay đề cập
đến một phần của công tác quản lý thu NSNN. Hiện chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về quản lý thu NSNN ở Việt Nam. Vì
lý do đó tác giả đã lựa chọn đề tài trên với hy vọng có cái nhìn xác thực, hệ
thống trên bình diện cả nước về công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Tìm những giải pháp tiếp tục đổi mới quản lý thu nhằm nâng
cao hiệu quả công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam, góp phần thu đúng, thu
đủ, thu kịp thời các khoản thu vào NSNN, đồng thời tăng cường bồi dưỡng
nguồn thu cho NSNN để phục vụ cho các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển kinh
tế – xã hội của đất nước.
Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nói trên, các nhiệm vụ cần thực hiện
là: - Phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về quản lý thu NSNN.
- Đánh giá thực trạng quản lý thu NSNN ở Việt Nam thời gian qua.5
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý thu NSNN ở Việt Nam .
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn quản lý thu NSNN
ở Việt Nam. Trong khi nghiên cứu, phân tích, luận văn sẽ khảo sát trên bình
diện quốc gia và có phân tích sâu ở một số lĩnh vực như theo sắc thuế, khu vực
kinh tế, địa phương và so sánh với quản lý thu NSNN ở một số quốc gia trên
thế giới. Trong các nguồn thu của NSNN, luận văn chủ yếu tập trung nghiên
cứu nguồn thu từ thuế và phân tích sâu vai trò của KBNN trong công tác quản
lý thu NSNN ở Việt Nam. Đánh giá thực trạng thu NSNN ở Việt Nam trong
những năm gần đây. Về thời gian nghiên cứu tập trung vào giai đoạn gần mười
năm trở lại đây- từ khi có Luật NSNN, tất nhiên để có cái nhìn chiều sâu, trong
khi phân tích tác giả sẽ so sánh với các giai đoạn trước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử và các phương pháp như: thống kê, tổng hợp,
phân tích kinh tế nhằm tìm ra những căn cứ, số liệu minh hoạ cho các luận
điểm, đồng thời góp phần đoán cho giai đoạn tiếp theo. Bên cạnh đó, tác
giả còn sử dụng phương pháp phân kỳ, so sánh nhằm tìm ra những nét đặc thù
của các giai đoạn khác nhau.
6. Những đóng góp của luận văn
Thứ nhất: Hệ thống hoá và làm rõ thêm những vấn đề chung như khái
niệm, đặc điểm và vai trò của thu NSNN, các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý thu
NSNN.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi6
Thứ hai: Nghiên cứu, phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng công
tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam và chỉ rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu
quả quản lý thu NSNN của nước ta thời gian qua.
Thứ ba: Đề xuất được các giải pháp có tính khả thi, tiếp tục đổi mới
công tác quản lý thu NSNN ở Việt Nam tập trung vào 4 nhóm cơ bản là: Các
giải pháp về cơ chế chính sách; giải pháp về qui trình thủ tục nghiệp vụ; giải
pháp về tổ chức, quản lý và một số giải pháp hỗ trợ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về quản lý thu NSNN.
Chương 2: Thực trạng quản lý thu NSNN ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản lý thu NSNN ở Việt nam.7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ THU NSNN
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý thu NSNN
1.1.1. Ngân sách nhà nước
1.1.1.1.Khái niệm ngân sách nhà nước
NSNN là phạm trù kinh tế và phạm trù lịch sử. Sự hình thành và phát
triển của NSNN gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hoá -
tiền tệ trong các cách sản xuất của các cộng đồng và Nhà nước của
từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của Nhà nước, sự tồn tại của kinh tế
hàng hoá - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của
NSNN.
Nhà nước xuất hiện với tư cách là cơ quan có quyền lực công cộng để
duy trì và phát triển xã hội. Để thực hiện chức năng đó, Nhà nước phải có
nguồn lực tài chính. Bằng quyền lực công cộng, Nhà nước đã ấn định các thứ
thuế, bắt công dân phải đóng góp để chi tiêu cho bộ máy nhà nước, quân đội,
cảnh sát...
Dưới chế độ phong kiến, chi tiêu của Nhà nước và chi tiêu của Nhà vua
không có sự tách biệt nhau. Khi giai cấp tư sản ra đời, sự lớn mạnh về kinh tế
của giai cấp này đòi hỏi phải phá bỏ cát cứ phong kiến, mở rộng thị trường và
lưu thông hàng hoá tự do. Giai cấp tư sản gây áp lực về kinh tế, tài chính đối
với Nhà vua, từng bước tham gia và khống chế Nghị viện. Giai cấp tư sản đấu
tranh đòi Nhà vua không được quyền quyết định thu thuế mà phải do Nghị viện
quyết định. Sau đó, cuộc đấu tranh chuyển sang đòi tách chi tiêu của Nhà vua
ra khỏi chi tiêu của Nhà nước và toàn bộ chi tiêu của Nhà nước phải do Nghị
viện quyết định. Tất nhiên, Nhà vua không dễ dàng chấp nhận, nhưng với thế
lực đang lên và ngày càng lớn mạnh, nhất là khi đã khống chế Nghị viện, giai
cấp tư sản đã giành được thắng lợi. Tuy nhiên, thu của Nhà nước và chi tiêu
của Nhà nước vẫn là hai mảng riêng biệt. Giai cấp tư sản tiếp tục cuộc đấu
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi8
tranh đòi hỏi thống nhất thu nhập và chi tiêu của Nhà nước vào một và NSNN
đã ra đời.
NSNN chỉ các khoản thu nhập và các khoản chi tiêu của Nhà nước được
thể chế hoá bằng pháp luật. Quốc hội thực hiện quyền lập pháp về NSNN, còn
quyền hành pháp giao cho Chính phủ thực hiện [12].
NSNN đã có quá trình ra đời và hình thành suốt từ thế kỷ XII đến thế kỷ
XVIII. Cho đến nay, các Nhà nước khác nhau đều tạo lập và sử dụng NSNN,
thuật ngữ NSNN được sử dụng khá phổ biến ở hầu khắp các quốc gia trên thế
giới. Tuy nhiên, khái niệm NSNN chưa thống nhất và NSNN được nhìn nhận dưới
nhiều góc độ khác nhau: pháp lý, kinh tế, xã hội.
Một số nhà kinh tế Anh cho rằng: NSNN là kế hoạch chi tiêu và tài trợ
của chính phủ: "Ngân sách là bản tường trình các kế hoạch chi tiêu và tài trợ...
của chính phủ" [17, tr.55].
Theo Từ điển thuật ngữ Tài chính - tín dụng: "NSNN là dự toán và thực
hiện các khoản thu chi bằng tiền của nhà nước trong khoảng thời gian (thường
là một năm)".
Theo một số tác giả, “NSNN là dự toán hàng năm về toàn bộ các nguồn
tài chính được huy động cho nhà nước và sử dụng các nguồn tài chính đó,
nhằm bảo đảm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước do Hiến pháp quy
định" [36, tr. 32].
Theo Luật NSNN năm 1996 và Luật NSNN sửa đổi năm 2002 của Việt
Nam, tại Điều 1 quy định: "NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước
trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước" [ 25].
Tóm lại : NSNN được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài
chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà9
nước nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. Nó
phản ánh các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát
sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo
nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
1.1.1.2. Đặc điểm của ngân sách nhà nước
NSNN là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia. NSNN bao
gồm những quan hệ tài chính nhất định trong tổng thể các quan hệ tài chính của
quốc gia. Có thể kể ra các quan hệ đó là:
Quan hệ tài chính giữa Nhà nước với dân cư, các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế (đặc biệt là với doanh nghiệp nhà nước), các tổ chức xã
hội, các Nhà nước khác và với các tổ chức quốc tế. Đồng thời bao gồm cả
quan hệ tài chính giữa Nhà nước với tư cách là bên tham gia hình thành quỹ
công như quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ đầu tư...
Các quan hệ tài chính thuộc NSNN có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN gắn với quyền lực của Nhà
nước và việc thực hiện các chức năng của Nhà nước. Nhà nước quyết định mức
thu chi, nội dung và cơ cấu thu chi NSNN.
Thứ hai, hoạt động thu chi NSNN được thực hiện trên cơ sở những luật
lệ do Nhà nước quy định. Nhà nước thống nhất quản lý và sử dụng cho nhu cầu
chung của cả nước.
Thứ ba, NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước, luôn chứa đựng lợi
ích chung, lợi ích công cộng. Hoạt động thu chi NSNN là sự thể hiện các mặt
hoạt động kinh tế - xã hội của Nhà nước, là việc xử lý các quan hệ lợi ích trong
xã hội khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia. Lợi ích
của Nhà nước (lợi ích chung của quốc gia) thể hiện cả trong phân phối thu nhập
của doanh nghiệp, của dân cư, phân phối GDP, GNP và cả trong phân bổ các
nguồn lực tài chính cho các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của
quốc gia.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi10
Thứ tư, NSNN cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét
riêng biệt của NSNN với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước là
nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng riêng và chỉ sau đó NSNN mới
được chi dùng cho những mục đích nhất định, đã định trước.
Nghiên cứu những đặc điểm của NSNN giúp ta tìm được cách và
phương pháp quản lý NSNN một cách có hiệu quả.
1.1.2. Thu ngân sách nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN là một trong hai nội dung hoạt động cơ bản của NSNN (Thu
và Chi). Đó là quá trình Nhà nước sử dụng các quyền lực có được của mình để
động viên, phân phối một bộ phận của cải của xã hội dưới dạng tiền tệ về tay
Nhà nước, hình thành nên quỹ NSNN.
Qua định nghĩa trên cho thấy:
Thứ nhất, thu NSNN là quá trình của nhiều hành vi, hành động kế tiếp
nhau của Nhà nước. Thật vậy, hoạt động thu NSNN thực chất là bao gồm rất
nhiều hành vi, hành động khác nhau của Nhà nước và có thể khái quát chúng
thành ba nhóm đó là: Nhà nước đề ra các chủ trương, phương hướng, mục
tiêu... về thu NSNN cho một khoảng thời gian hay một chu kỳ nào đó; Nhà
nước ban hành các chính sách, chế độ về thu NSNN: Ban hành các Luật, Pháp
lệnh. Nghị định... về thu thuế, phí, lệ phí... và Nhà nước tổ chức cơ chế hành
thu: Tổ chức các cơ chế thu các khoản thu cụ thể cho NSNN...
Thứ hai, thu NSNN được dựa trên các quyền lực vốn có của Nhà nước.
Nhà nước có rất nhiều quyền lực (sức mạnh), như: Quyền lực chính trị, quyền
lực quân sự, quyền lực kinh tế, quyền lực tôn giáo... và chúng đều là cơ sở, chỗ
dựa cho hoạt động thu NSNN.
Thứ ba, thu NSNN được thực hiện dưới dạng tiền tệ. Đó là một bộ phận
của cải vật chất của xã hội được huy động về tay Nhà nước nhưng khi được ghi
thu NSNN là phải dưới dạng tiền tệ.11
1.1.2.2. Đặc điểm của thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, thu NSNN phản ánh các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong
quá trình phân chia các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các chủ thể
trong xã hội. Sự phân chia đó là một tất yếu khách quan, xuất phát từ yêu cầu
tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu thực hiện các chức
năng kinh tế - xã hội của Nhà nước.
Thứ hai, thu NSNN có phạm vi rộng, liên quan đến hầu hết các đối tượng
trong xã hội. Thực chất của thu NSNN là lấy về cho Nhà nước một phần thu
nhập của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Do đó, các tổ chức, cá nhân... có
thu nhập đều là đối tượng của hoạt động thu NSNN.
Thứ ba, thu NSNN được thực hiện với nhiều cách khác nhau.
Thực vậy, trong thu NSNN có nhiều cách được áp dụng như : Tự
nguyện - Bắt buộc ; Ngang giá - Không ngang giá; Có đối khoản - Không có
đối khoản trực tiếp; Kinh tế - Phi kinh tế ...Trong đó: bắt buộc, không ngang
giá, không có đối khoản trực tiếp, phi kinh tế... là rất phổ biến.
Thứ tư, thu NSNN gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các
phạm trù giá trị như giá cả, lãi suất, thu nhập... Sự vận động của các phạm trù
đó vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra yêu cầu nâng cao tác
dụng điều tiết của các công cụ thu NSNN.
1.1.2.3. Nội dung thu ngân sách nhà nước
Nguồn thu của NSNN là tất cả các nguồn tài chính hình thành trong quá
trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng cả trong và ngoài nước có khả
năng động viên vào NSNN để hình thành quỹ NSNN. Vấn đề quan trọng khi
bàn đến thu NSNN là cần xác định đúng đắn nguồn thu. Điều đó cho phép
xây dựng được chế độ động viên thích hợp, tránh bỏ sót nguồn thu, hạn chế
được tác động tiêu cực của thu NSNN đối với các hoạt động sản xuất kinh
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi12
doanh ở từng cơ sở. Như vậy, có thể coi giá trị tổng sản phẩm quốc gia và các
giá trị khác của tài sản quốc gia đều là nguồn tài chính. Song, không phải tất cả
các nguồn tài chính đều là nguồn thu của NSNN. Chỉ những nguồn tài chính
thông qua phân phối có khả năng động viên vào NSNN mới được coi là nguồn
thu của NSNN. Nguồn thu của NSNN là một đại lượng không ổn định, luôn
chịu ảnh hưởng của cơ cấu sản xuất và kết quả của sản xuất kinh doanh và cơ
chế động viên, phân phối.
Tùy theo nhu cầu của việc phân tích, đánh giá phục vụ cho công tác quản
lý cũng như phục vụ cho việc điều chỉnh các chính sách động viên, người ta có
thể phân loại nguồn thu NSNN theo các tiêu thức khác nhau: Chủ yếu bao gồm
các khoản theo 4 nhóm lớn sau đây:
- Thu nội địa : Gồm các khoản thu khác nhau, trong đó có nhiều sắc
thuế, chỉ tiêu thu, tính chất các khoản thu đa dạng, đối tượng thu lớn, phạm vi
điều chỉnh rộng, các đối tượng lớn như: sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, hộ cá thể kinh
doanh); các khoản thu từ nhà đất và một số sắc thuế tuỳ theo từng nước như:
thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân...
- Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu.
- Thu từ dầu thô (đối với các nước có dầu thô)
- Thu từ vay nợ, viện trợ (gồm các khoản thu từ viện trợ không hoàn lại
do các cam kết về tài chính với các nước và các tổ chức quốc tế; thu từ vay nợ
trong nước qua phát hành trái phiếu và thu từ vay nợ nước ngoài...)
Trong các nguồn thu của NSNN, thuế là một hình thức huy động tài
chính cho Nhà nước đã có từ lâu đời. Thuế trở thành công cụ để Nhà nước có
nguồn thu nhằm trang trải các chi tiêu của Nhà nước. Trải qua quá trình phát
triển lâu dài và cho đến nay, các Nhà nước đều sử dụng thuế để phân phối các
khoản thu nhập và huy động các nguồn thu cho Nhà nước. Nhà nước dùng
quyền lực của mình ban hành các luật thuế để bắt buộc dân cư và các tổ chức13
kinh tế đóng góp cho Nhà nước. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã
khẳng định: Một trong những quyền lực công của Nhà nước là thu thuế.
Các yếu tố cấu thành một sắc thuế gồm có: Người nộp thuế; người chịu
thuế; đối tượng đánh thuế; căn cứ tính thuế; thuế suất; đơn vị tính thuế; giá tính
thuế; khởi điểm đánh thuế; miễn giảm thuế; thưởng, phạt; thủ tục về thuế.
Trong nền kinh tế thị trường: Thuế tạo nguồn thu chủ yếu cho NSNN. Nguồn
tích luỹ của NSNN chỉ có thể tăng nhanh trên cơ sở nền kinh tế phát triển và
đạt hiệu quả cao. Thuế phải phát huy vai trò bồi dưỡng và khai thác nguồn thu
ngày càng tăng từ sự tăng trưởng kinh tế cho NSNN.
1.1.2.4. Vai trò của thu ngân sách nhà nước
Thứ nhất, thu NSNN có vai trò trong việc khai thác, động viên và tập
trung các nguồn tài chính cần thiết để tạo lập quỹ NSNN, đáp ứng nhu cầu chi
tiêu đã được dự tính cho từng giai đoạn phát triển. Dưới bất kỳ chế độ nào, nhà
nước muốn thực thi các chức năng, nhiệm vụ của mình, tất yếu phải có nguồn
tài chính. Các nguồn tài chính này có thể huy động từ các khu vực kinh tế, các
thành phần kinh tế, từ trong nước và ngoài nước.
Thứ hai, thu NSNN là công cụ điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, thu NSNN là một trong những công cụ
quan trọng của Nhà nước để định hướng, hướng dẫn, kích thích, điều tiết sản
xuất và tiêu dùng. Điều đó thể hiện trên một số mặt như sau:
- Thông qua thu NSNN, Nhà nước góp phần định hướng và hướng dẫn
sản xuất, kinh doanh. Mức thu cao hay thấp sẽ tác động đến lợi ích của các chủ
thể, và do đó có tác dụng định hướng đầu tư.
- Thu NSNN còn có tác dụng điều tiết sản xuất. Đối với các ngành, lĩnh
vực không khuyến khích sản xuất hay tiêu dùng, thì tỷ lệ thu cao sẽ làm giảm
nguồn lực trong các ngành, lĩnh vực đó. Ngược lại, đối với những ngành cần
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi14
khuyến khích, tỷ lệ thu thấp có tác dụng khuyến khích đầu tư, mở rộng sản
xuất. Những quy định về thu phí đối với các chất thải có ý nghĩa trong việc bảo
vệ môi trường.
Ngoài ra, thu NSNN là công cụ tham gia trực tiếp vào việc hình thành
các quan hệ tỷ lệ phân phối thu nhập, góp phần giúp Nhà nước thực hiện việc
hướng dẫn, kích thích hay điều tiết mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trên
các mặt: thu nhập, cơ cấu ngành nghề, mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng,
mối quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng khuyến khích xuất khẩu
hay thay thế nhập khẩu...
Thứ ba, thu NSNN là công cụ góp phần thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm
soát của Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội. Đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường, vai trò kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước ngày
càng trở nên quan trọng. Bởi vì, với nền kinh tế thị trường, ngoài những ưu điểm
vốn có cũng có những khuyết tật khó tránh khỏi, nếu thiếu sự kiểm tra, kiểm soát
của Nhà nước. Những câu hỏi đặt ra cho người làm kinh tế ở bất cứ xã hội nào là:
Sản xuất những loại hàng hóa nào, sản xuất theo cách nào, hàng hóa được
sản xuất ra phân phối cho ai. Tất cả những vấn đề đó, không chỉ là thuộc về vai trò
của từng doanh nghiệp mà còn là vai trò của Nhà nước.
Tùy theo từng thời kỳ mà Nhà nước sử dụng những công cụ khác nhau
để can thiệp vào những vấn đề đó ở tầm vĩ mô cũng như vi mô. Ngày nay, Nhà
nước can thiệp vào các vấn đề đó chủ yếu ở tầm vĩ mô thông qua hoạt động
kiểm tra, kiểm soát bằng hệ thống pháp luật, hệ thống thuế. Thông qua công cụ
thuế, Nhà nước thực hiện việc kiểm tra, giám sát các hoạt động sản xuất kinh
doanh trên các mặt chủ yếu như thu nhập, giá cả mặt hàng, hoạt động xuất nhập
khẩu...
Tóm lại, xét trên nhiều phương diện, thu NSNN có vai trò cực kỳ quan
trọng. Để phát huy vai trò tích cực của thu NSNN trong thực tế thì một trong15
những vấn đề quan trọng là thu đúng, thu đủ, thu kịp thời. Muốn vậy, phải xác
định đúng đắn nguồn thu và không ngừng bồi dưỡng nguồn thu.
1.1.2.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước
Một vấn đề hết sức quan trọng trong thu NSNN là việc xác định mức
động viên và lĩnh vực động viên một cách đúng đắn, hợp lý. Điều đó không chỉ
ảnh hướng đến số thu NSNN, mà còn tác động mạnh mẽ đến quá trình phát
triển kinh tế, xã hội. Mức động viên và lĩnh vực động viên lại chịu tác động của
nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội của Quốc gia. Các nhân tố ảnh hưởng
đến thu NSNN cần kể đến là:
a. Thu nhập GDP bình quân đầu người:
Chỉ tiêu này phán ánh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một
quốc gia, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước, là
nhân tố quyết định đến mức động viên của NSNN để không ảnh hưởng tiêu cực
đến các vấn đề tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của các tổ chức kinh tế, của các
tầng lớp dân cư.
3.3.2.6. Tăng cường công tác kế toán, kiểm toán, kiểm tra, thanh tra
thu NSNN
a. Công tác kế toán, kiểm toán: Từng bước hoàn chỉnh việc áp dụng các
chuẩn mực quốc tế về nghiệp vụ kế toán, kiểm toán. Thực hiện chế độ kiểm
toán bắt buộc đối với tất cả các đơn vị sử dụng ngân sách trên cơ sở tăng cường
hệ thống kiểm toán nhà nước; phát triển kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ.
Tổ chức thực hiện đưa Luật Kế toán vào cuộc sống.
b. Công tác kiểm tra, thanh tra: Cùng với việc mở cửa và hội nhập kinh
tế quốc tế, công tác kiểm tra, giám sát của ngành tài chính cần được tăng cường
và tập trung tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực hải quan và
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi108
lĩnh vực thuế nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời những gian lận
thương mại, vi phạm về thuế, đẩy mạnh công tác kiểm soát chi ngân sách thông
qua hệ thống kho bạc. Trong thời gian tới, cần tiến hành hiện đại hoá công tác
thanh tra thu NSNN bằng việc chuyển từ cơ chế thanh tra diện rộng theo
phương pháp thủ công, truyền thống dựa vào kinh nghiệm sang cơ chế thanh
tra dựa vào kỹ thuật quản lý theo rủi ro, tức là có vi phạm mới thanh tra, không
gian lận không thanh tra. Đồng thời phải xây dựng hệ thống phần mềm phân
tích thông tin thu nộp thuế, tình hình sản xuất kinh doanh của các đối tượng…
Ngoài ra, nên tăng quyền quyết định xử lý các vụ vi phạm thuế cho cơ
quan thuế, giao cho cơ quan thuế được quyền điều tra, khởi tố những trường
hợp vi phạm thuế với số tiền lớn, thành lập bộ máy cưỡng chế thuế thuộc
ngành thuế, thường xuyên triển khai công tác kiểm tra nội bộ ngành thuế, đảm
bảo các bộ phận trực thuộc cơ quan thuế thực thi nhiệm vụ đúng pháp luật,
đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tránh hiện tượng nhũng
nhiễu tiêu cực, gây phiền hà cho dân.
3.3.3. Giải pháp về tổ chức quản lý
3.3.3.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cường bồi dưỡng đào tạo
cán bộ làm công tác thu NSNN
Con người là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công của
công tác quản lý thu NSNN. Vì vậy, cần không ngừng thực hiện công tác
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý thu
NSNN nhằm tìm kiếm, sử dụng và phát huy cao nhất khả năng của mỗi con
người. Công tác nhân sự, cần coi trọng những vấn đề sau đây:
Trong thời gian tới, công tác đào tạo và đào tạo lại phải được đặc biệt
chú trọng để đảm bảo các cán bộ của ngành tài chính từ trung ương đến địa
phương phải hiểu rõ những chủ trương, chính sách của nhà nước và hội nhập
kinh tế, để từ đó vận dụng vào quá trình hoạch định chính sách cũng như quá
trình tổ chức thực hiện, gắn với các nội dung sau:109
- Tăng cường công tác đào tạo lại và phổ biến những kiến thức mới về
các lĩnh vực cụ thể, kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế cho các cán bộ
từ trung ương đến địa phương.
- Hoàn thiện, củng cố cơ chế đánh giá công thức để bố trí vào các công
việc phù hợp, những công chức không có đủ trình độ, khả năng chuyên môn sẽ
bố trí chuyển việc khác, đào tạo lại hay cho thôi việc.
- Thực hiện tiêu chuẩn hoá và chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ quản lý
thu NSNN, đặc biệt là những người trực tiếp làm công tác thu NSNN. Yêu cầu
những cán bộ này phải có năng lực chuyên môn cao, được đào tạo và bồi
dưỡng tốt, am hiểu và nắm vững tình hình kinh tế - xã hội cũng như các cơ chế
chính sách của Nhà nước. Đồng thời có tư cách, phẩm chất đạo đức tốt, có
trách nhiệm và tâm huyết với công việc được giao. Để thực hiện được những
yêu cầu nêu trên, hàng năm, các cơ quan phải rà soát và phân loại cán bộ theo
các tiêu chuẩn đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý,... Từ đó, có kế
hoạch bồi dưỡng, sắp xếp, phân công công tác theo đúng năng lực và trình độ
của từng người.
- Thực hiện luân phiên, luân chuyển cán bộ nhằm nâng cao chức năng
động, sáng tạo, chống bảo thủ, trì trệ và ngăn ngừa các sai phạm của cán bộ. Có
chế độ thưởng phạt nghiêm minh, tăng cường trách nhiệm cá nhân, tạo lòng tin
của Nhân dân đối với Nhà nước.
3.3.3.2. Về phân cấp quản lý nguồn thu
a. Về phân cấp nguồn thu giữa ngân sách TW và ngân sách địa phương
Thực hiện tăng các khoản thu phân chia giữa ngân sách TW và ngân
sách địa phương cho địa phương để nâng cao trách nhiệm của cả TW và địa
phương để đảm bảo nguồn lực cho phát triển kinh tế- xã hội theo hướng tích
cực. Sắp xếp lại các khoản thu TW hưởng 100% hay địa phương hưởng 100%.
Ngân sách TW hưởng 100% đối với các khoản thu liên quan đến chính sách
điều tiết vĩ mô nền kinh tế và không gắn trực tiếp với công tác tổ chức thực
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi110
hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh ở địa phương như: nguồn thu từ dầu thô, từ
hoạt động xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch
toán toàn ngành. Ngân sách địa phương hưởng 100% các khoản thu gắn với địa
phương, gắn với xã như: Thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử
dụng đất, thuế trước bạ nhà, đất, thuế nhà đất và thuế môn bài.
Các khoản thu còn lại thực hiện phân chia hợp lý giữa ngân sách TW và
ngân sách địa phương (kể cả thuế tiêu thụ đặc biệt nội địa TW hưởng 100%).
b. Sửa cơ chế thưởng vượt thu NSNN: Để công tác lập dự toán thu từ
hoạt động xuất nhập khẩu khách quan và phù hợp với thực tế đề nghị không
thưởng vượt thu thuế xuất, nhập khẩu. Đối với các khoản thưởng thu vượt dự
toán của địa phương nên có hướng dẫn để đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng
và thực hiện các nhiệm vụ quan trọng khác.
3.3.4. Các giải pháp hỗ trợ
3.3.4.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và cung cấp dịch
vụ thuế để nâng cao tính tự giác và trách nhiệm của người nộp thuế
Công tác tập trung các khoản thu NSNN có kịp thời đầy đủ và có hiệu
quả hay không phụ thuộc rất lớn vào ý thức tự giác chấp hành các quy định về
việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, về thời hạn, quy trình thu NSNN của các đối
tượng nộp.
Kinh nghiệm ở hầu hết các nước cho thấy, yếu tố cơ bản để thực hiện
thành công một sắc thuế mới không chỉ phụ thuộc vào hệ thống văn bản pháp
luật mà còn rất cần có sự hiểu biết sâu sắc, kỹ lưỡng và ý thức tự giác chấp
hành của mỗi cán bộ thuế và của quảng đại quần chúng nhân dân, đặc biệt là là111
của những người nộp thuế. Cơ quan Thuế cần có sự phối hợp chặt chẽ với các
cấp chính quyền địa phương và các cơ quan thông tin tuyên truyền đại chúng
để tiến hành các công việc cụ thể sau :
Soạn thảo, phổ biến rộng rãi các tài liệu, lập trang Web trên mạng
Internet, thiết lập đường dây nóng để giải thích, tuyên truyền về thuế cho mọi
người dân biết để họ có hiểu biết đầy đủ, tường tận về chính sách thuế, phương
pháp kê khai thuế, cách tính thuế và thời hạn nộp thuế;
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về chính sách thuế, viết bài tuyên truyền
về thuế, chiến dịch tuyên truyền về thuế; Thực hiện tuyên truyền giáo dục pháp
luật thuế sâu rộng tới các tầng lớp dân cư thông qua các tổ chức đoàn thể như :
Trung tâm xúc tiến thương mại đầu tư, Phòng thương mại và công nghiệp Việt
nam, Hiệp hội doanh nghiệp trẻ. Đưa giáo dục về thuế vào chương trình giảng
dạy ở các trường học.
- Thành lập trung tâm tư vấn giải đáp thắc mắc, trả lời các vấn đề liên
quan đến chính sách thuế miễn phí cho mọi đối tượng.
Ngoài ra, cơ quan thu cần tổ chức các buổi toạ đàm, đối thoại với nhân
dân, với các cơ sở kinh doanh để thăm dò nguyện vọng của nhân dân, kịp thời
giúp đỡ cơ sở sản xuất - kinh doanh tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc
chấp hành chính sách thuế, qua đó phản ánh kịp thời các bất cập của cơ chế
hiện hành lên cơ quan quản lý cấp trên để có những sửa đổi, bổ sung nhằm làm
cho chính sách thuế ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập
trung ngày càng nhiều nguồn thu cho NSNN.
3.3.4.2. Tăng cường cơ sở vật chất, thực hiện quy chế thưởng phạt
trong công tác thu NSNN
a. Về cơ sở vật chất: Từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị
làm việc cho cán bộ làm công tác quản lý thu NSNN. Đảm bảo các thiết bị
chuyên ngành như máy đếm tiền, máy soi phát hiện tiền giả, két sắt, phương
tiện vận chuyển, các máy móc, thiết bị tin học, máy rút tiền, thẻ thanh toán, hệ
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi112
thống kho tàng, trụ sở và các phương tiện làm việc khác, đảm bảo yêu cầu thu
hiện tại và yêu cầu hiện đại hóa công nghệ thu NSNN.
b. Về chế độ thưởng phạt: Công tác thu thuế trực tiếp qua KBNN được
thực hiện từ năm 1994 theo Thông tư số 39/TC/KBNN ngày 25/04/1994 của
Bộ Tài chính và đã đạt được nhiều kết quả tích cực: tiền thuế được tập trung
nhanh hơn vào NSNN; số thuế tồn đọng ở các cơ quan thu giảm nhiều. Tuy
nhiên cần có chế độ thưởng cho cán bộ quản lý thu NSNN thích đáng và phạt
nghiêm minh đối với các đối tượng chậm nộp thuế, thực hiện đúng chính sách
ưu đãi đối với các đôi tượng được miễn giảm thuế.
3.3.4.3. Tăng cường sự lãnh đạo của chính quyền các cấp và sự phối
hợp giữa cơ quan thu, cơ quan tài chính và các ngành hữu quan
Chính quyền các cấp cần coi thu NSNN là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm cần thực hiện, từ đó có các biện pháp hỗ trợ thiết thực cho công tác
này về mặt con người, cơ sở vật chất. Thường xuyên đôn đốc nhắc nhở các cơ
quan có liên quan tổ chức tốt công tác tập trung thu NSNN.
Các cơ quan Tài chính, Thuế, Hải quan, Kho bạc Nhà nước cần tăng
cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong công tác quản lý thu NSNN nhằm tổ
chức tốt việc theo dõi tình hình thu nộp thuế, nắm bắt chặt chẽ tình hình sản
xuất, kinh doanh của đối tượng nộp để có biện pháp đôn đốc thu nộp nhanh
gọn, kịp thời, đầy đủ; cơ quan Thuế cần phối hợp với KBNN trong việc phân
định lịch thu, xác định chính xác mục lục ngân sách của các khoản thu, bên
cạnh đó các cơ quan này cần có sự phối hợp kịp thời với các cơ quan công an,
toà án, viện kiểm sát trong việc xử lý các trường hợp vi phạm dây dưa, chây ỳ,
trốn lậu thuế. Hệ hống Thuế – Hải quan – KBNN cần phối hợp chặt chẽ theo
từng nội dung, từng cấp quản lý, định kỳ trao đổi thông tin trong công tác quản
lý thu thuế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phối hợp;
xây dựng hệ thống thông tin chung và có một cơ sở dữ liệu để khai thác.
Ngoài ra, các cơ quan thu, Kho bạc Nhà nước cần có các thoả thuận chặt113
chẽ với các ngân hàng trong việc trích chuyển kịp thời tài khoản của đơn vị nộp
thuế tại ngân hàng nhằm tập trung nhanh nguồn thu thuế, đồng thời góp phần
giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông.
Tóm lại, để hoàn thiện công tác quản lý thu NSNN đòi hỏi các cấp, các
cơ quan ban ngành phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau.
Từ những giải pháp mang tính định hướng cho đến những giải pháp cụ thể để
hoàn thiện từng quy trình thu, cách thu qua KBNN... Đồng thời, để
những giải pháp đó có thể áp dụng được trong thực tiễn, thì cần tạo lập
được đầy đủ các điều kiện về cơ chế, chính sách, về tổ chức bộ máy, trình độ
cán bộ, sự phối hợp giữa các cơ quan ban ngành và hiện đại hoá công nghệ
thông tin...
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phi114
KẾT LUẬN
Quản lý thu NSNN là công việc hết sức cần thiết và có vai trò vô cùng
quan trọng trong việc đảm bảo nguồn thu cho NSNN, đáp ứng kịp thời nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, là công cụ giúp Chính phủ điều tiết,
điều chỉnh nền kinh tế. Bên cạnh đó, quản lý tốt nguồn thu NSNN còn góp
phần thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với toàn bộ
hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội.
Kinh nghiệm quốc tế (Trung Quốc, Pháp, Hàn Quốc) cũng cho thấy:
nguồn thu của NSNN là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong thực
thi các nhiệm vụ của Nhà nước và chính sách phát triển kinh tế của tất cả các
quốc gia. Vì vậy, công tác quản lý thu NSNN luôn được các quốc gia quan tâm
như một nhiệm vụ trọng yếu và không ngừng hoàn thiện.
Trong thời gian qua, quản lý thu NSNN ở Việt Nam đã đạt được những
kết quả rất đáng kể trong việc luật hóa các khoản thu NSNN trong Luật NSNN,
cải cách chính sách thuế, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ thu NSNN; từng
bước hiện đại hóa qui trình thủ tục nghiệp vụ, cách thu NSNN; Số thu
NSNN không ngừng gia tăng về qui mô, cơ cấu nguồn thu đã thay đổi theo
chiều hướng tích cực, nguồn thu tăng đều theo khu vực kinh tế và các địa
phương, đáp ứng yêu cầu bức thiết của Nhà nước về chi cho tiêu dùng và chi
cho đầu tư phát triển, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân.
Tuy nhiên, công tác thu NSNN vẫn còn những bất cập như: Hệ thống
văn bản chính sách về thu NSNN chưa đồng bộ, các Luật về quản lý như Luật
quản lý ngân sách, Luật quản lý thuế chưa được ban hành; qui trình lập dự toán
thu còn cồng kềnh; qui trình thu chưa thực sự hiện đại, thủ tục hành chính về
thu còn rườm rà, phức tạp chưa khai thác những công nghệ thông tin hiện đại115
vào quản lý thu; cơ cấu nguồn thu chưa bền vững; việc quản lý nguồn thu từ
vay nợ chưa hiệu quả; hệ thống các công cụ kiểm tra, kiểm soát, thẩm định thu
NSNN còn thiếu và yếu; sự phối hợp giữa các cơ quan, chính quyền trong quản
lý thu còn chưa chặt chẽ; Công tác tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp NSNN
còn yếu, cơ sở vật chất và trình độ của cán bộ làm công tác quản lý thu còn
nhiều bất cập, trình độ thanh toán của nền kinh tế còn thấp... Nhằm khắc phục
những hạn chế đã nêu trên; trước yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế
đòi hỏi quản lý thu NSNN phải được quan tâm hàng đầu và đặt lên một tầm cao
mới.
Để giải quyết các vấn đề trên, cần có một hệ thống các giải pháp đồng
bộ, tập trung vào 4 nhóm cơ bản là:
- Các giải pháp về cơ chế chính sách : hoàn thiện hệ thống văn bản về
quản lý thu NSNN, quản lý thuế, quản lý hải quan – xuất nhập khẩu, các khoản
vay nợ, viện trợ, sớm ban hành Luật quản lý ngân sách, Luật quản lý Thuế....
Đổi mới qui trình lập dự toán thu, cơ cấu nguồn thu, cải cách quản lý thu
NSNN trong cải cách hành chính của Nhà nước về tài chính.
- Các giải pháp về qui trình, thủ tục nghiệp vụ: Đổi mới qui trình thu,
hình thức thu, ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý thu, tăng cường thu qua
hệ thống Ngân hàng và xây dựng hệ cơ sở dự liệu thống nhất về thu NSNN
nhằm mục đích thống kê, tổng hợp, phân tích và dự báo thu, là cơ sở để Chính
phủ điều tiết nền kinh tế.
- Các giải pháp về tổ chức quản lý: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy,
đào tạo cán bộ quản lý thu NSNN, tăng cường phân cấp về thu NSNN.
- Các giải pháp hỗ trợ: Tăng cường công tác tuyên truyền cho đối tượng
nộp thuế, tăng cường cơ sở vật chất điều kiện làm việc cho cán bộ quản lý thu
NSNN và sự phối hợp của các ngành, các cấp trong quản lý thu NSNN./.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: