LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở nước ta, cho đến nay, quyền của đội ngũ những người lao động công nghiệp,
về cơ bản, vẫn gắn bó trên nhiều phương diện với doanh nghiệp nhà nước. Vì thế,
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã và đang tác động sâu sắc đến
quyền lợi, trách nhiệm, và cả đặc điểm, vai trò của đội ngũ này, đòi hỏi phải chú ý
thể chế hoá quyền của người lao động trong điều kiện phát triển doanh nghiệp cổ
phần ở nước ta.
Sự biến đổi của đội ngũ lao động công nghiệp trong quá trình sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp Nhà nước Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa,việc Nhà nước tổ chức lại và đổi mới cách quản lý
các hoạt động kinh tế phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trước hết liên quan trực tiếp đến các doanh nghiệp nhà nước.
Vấn đề quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hiện nay
là vô cùng cấp bách và cần thiết. Chính vì điều này chúng em đã chọn đề tài “
quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa” để tìm hiểu.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần cũng như
các loại hình doanh nghiệp khác. Từ đó đúc kết kinh nghiệm chi tương lai của
mình.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 1
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
NỘI DUNG
I. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một trong những hướng quan trọng của
quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước – bộ phận không thể thiếu trong thành
phần kinh tế nhà nước. Trong đổi mới kinh tế, một vấn đề lớn được đặt ra là phải
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Để giải phóng lực lượng sản xuất, tất
yếu phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường và xây dựng thể chế
kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo. Muốn vậy, phải đổi mới mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà
nước. Theo hướng đó, sau nhiều năm tìm tòi và thử nghiệm trong thực tế, Đảng ta
đã lựa chọn cổ phần hóa như một cách có hiệu quả để đổi mới các doanh
nghiệp nhà nước như các Nghị quyết 3 và Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX đã chỉ rõ.
Cho đến nay, với sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và tinh thần chủ động
trong thực hiện của các cấp, các ngành, từ trung ương tới địa phương, tiến trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã thu được những thành tựu bước đầu đáng
khích lệ, đủ để chứng minh tính đúng đắn của sự lựa chọn đó. Tuy nhiên, trong xã
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 2
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
hội cũng như trong tư tưởng, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn
có những băn khoăn, lo lắng. Dựa vào những khiếm khuyết thực tế ở một số doanh
nghiệp đã cổ phần hóa, có ý kiến e sợ rằng, đó là cơ hội cho tình trạng chiếm
đoạt tài sản của Nhà nước, là một hình thức tránh né thuật ngữ “tư nhân hóa”, là
sự thủ tiêu hay làm suy yếu vai trò điều tiết nền kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,…
Về cơ bản, đó là những suy nghĩ thật tâm của những người đã từng gắn bó rất
lâu với mô hình kinh tế cũ, bởi quan điểm cho rằng “càng nhiều quốc doanh thì
càng nhiều chủ nghĩa xã hội”. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cho
tới nay đã thực sự trở thành một trong những thách thức phải vượt qua, trên con
đường tiếp tục đổi mới kinh tế, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Không vượt qua được thách thức này là
rất nguy hại cho chính thành phần kinh tế nhà nước nói riêng và cho cả nền kinh tế
quốc dân nói chung.
Theo số liệu của các cơ quan hữu quan, đến cuối năm 2005, có 5.000 doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta, tạo ra khoảng 30% GDP và 15% việc làm phi nông
nghiệp, nhưng lại chiếm gần 50% tổng số dư nợ tín dụng của các ngân hàng trong
nước. Xét về hiệu quả kinh tế – xã hội, đây thực sự là vấn đề đáng lưu ý. Tỷ lệ nợ
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 3
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
xấu của khu vực này lại đang có chiều hướng gia tăng (8 tháng đầu năm 2005 là
3,08% so với cùng kỳ năm 2004 là 2,41% và năm 2003 là 2,72%)
(1)
. Những vướng
mắc từ việc thu hồi nợ đối với doanh nghiệp nhà nước là một bài toán rất nan giải
trong suốt thời kỳ đổi mới. Điều đáng lưu ý là, nhóm doanh nghiệp nhà nước “hoạt
động yếu kém nhất” theo phân loại dựa trên mức lợi nhuận và mức nợ lại bao gồm
tất cả các loại hình doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ. Rõ ràng là, quy mô không phải
là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng như trên của doanh nghiệp nhà nước.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vấn đề có ý nghĩa quyết
định là phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Bài học của các nền kinh tế phát triển
nhanh nhưng không bền vững là hết sức rõ ràng và cần xem xét một cách nghiêm
túc. Nếu phát triển nhanh trong một vài thập niên như các “con rồng”, “con hổ”
châu Á, để rồi phải gánh chịu khủng hoảng tài chính như năm 1997, chấp nhận các
điều kiện của IMF làm một lối thoát duy nhất là rất nguy hiểm. Tư nhân hóa ồ ạt để
được công nhận là một nền kinh tế thị trường như các nước Đông Âu và SNG,
cũng có nghĩa là chấp nhận một giai đoạn đổ vỡ về kinh tế và xã hội, chấp nhận
một đa số cùng kiệt đi để có một thiểu số giàu lên rất nhanh đến mức có thay mặt trong
số vài chục người giàu nhất thế giới. Nước Nga vào cuối năm 2005, với 2% số
người giàu nhất chiếm 30% của cải xã hội, còn 10% dân số cùng kiệt nhất chỉ có 2,4%
của cải và qua thăm dò dư luận có 74% người dân tiếc nuối về Liên bang Xô-viết.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 4
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
Trung Quốc trong tiến trình cải cách và mở cửa, nhất là trong cải cách kinh tế, xây
dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đã chú ý thử nghiệm chế độ cổ
phần và có những tìm tòi lý luận về vấn đề này đáng để chúng ta tham khảo.
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa ở hầu hết các nước, tăng
trưởng GDP thường được coi là nhu cầu cấp bách, là ưu tiên số một trong chiến
lược phát triển, nhưng về lâu dài người ta càng thấy rõ nó không phải là duy nhất
của sự phát triển. Càng ngày nhân loại càng ý thức được một cách rõ ràng hơn tầm
quan trọng sống còn của sự phát triển bền vững cả về kinh tế và xã hội. Thực tiễn
thế giới cho thấy, chất lượng sống cao nhất không phải là ở những quốc gia giàu có
nhất theo mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa triệt để nhất. Nhiều công
trình nghiên cứu từ những góc độ khác nhau về thực tiễn đều có chung một kết
luận rằng, loại hình sở hữu hỗn hợp dưới hình thức phổ biến là các doanh nghiệp
cổ phần, có sức cạnh tranh cao nhất và tạo nên chất lượng tăng trưởng tốt nhất.
Không phải ngẫu nhiên các nhà cải cách Trung Quốc đề xuất chế độ cổ phần là
hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu. Việc cổ phần hóa phần lớn các
doanh nghiệp nhà nước mà chúng ta đang nỗ lực thực hiện, cũng chính là xác lập
chế độ cổ phần trong kinh tế nhà nước, nhằm đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
thực chất là phát triển hình thức sở hữu hỗn hợp để từng bước làm tăng thực lực
kinh tế của chế độ sở hữu công cộng toàn dân.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 5
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
Xét về mặt lịch sử và lý luận, chế độ cổ phần (biểu hiện thành giải pháp kinh tế
là cổ phần hóa doanh nghiệp) đã ra đời trong quá trình phát triển kinh tế tư bản chủ
nghĩa từ mấy thế kỷ trước đây. Do sản xuất – kinh doanh càng phát triển, nên yêu
cầu tập trung và tích tụ vốn càng cao. Cổ phần hóa đáp ứng yêu cầu đó. Nó chính
là hình thức hùn vốn trong sản xuất, kinh doanh, trong đó những ai tham gia vào
quá trình này sẽ được hưởng lợi (hay chịu rủi ro), theo tỷ lệ đóng góp cổ phần.
Công ty Đông Ấn Độ của Anh trong thời kỳ thực dân Anh thống trị Ấn Độ là một
loại hình chế độ cổ phần. Nước Mỹ hồi cuối thế kỷ XIX, khi cần tập trung một
nguồn vốn lớn để xây dựng đường sắt, cũng đã tổ chức xí nghiệp theo chế độ cổ
phần.
Áp dụng chế độ cổ phần bằng cách cổ phần hóa doanh nghiệp, sẽ liên kết được
những nguồn vốn và tư liệu sản xuất phân tán của các sở hữu tư nhân lại với nhau,
làm cho nó trở thành nguồn vốn xã hội, thúc đẩy nhanh việc xã hội hóa nguồn vốn
và tư liệu sản xuất. Đây là điều được rút ra từ thực tiễn xã hội hóa sản xuất tư bản
chủ nghĩa ở thế kỷ XIX, mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt quan
tâm nghiên cứu. C. Mác cho rằng, chế độ cổ phần là đòn bẩy mạnh mẽ để phát
triển sức sản xuất của xã hội hiện đại. Ph. Ăng-ghen cũng chỉ rõ, sản xuất tư bản
chủ nghĩa do công ty cổ phần kinh doanh đã không còn là sản xuất tư nhân, quá
trình chuyển đổi vốn tư nhân thành vốn xã hội đã thúc đẩy mạnh mẽ việc xã hội
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 6
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
hóa sản xuất và phát triển sức sản xuất. Lô-gíc nhận thức ở đây, nhìn từ góc độ
kinh tế và phát triển kinh tế cho thấy: đã thừa nhận kinh tế thị trường thì một cách
tất yếu tự nhiên cần thừa nhận chế độ cổ phần và cổ phần hóa. Với chế độ sở
hữu tư nhân (tư hữu) tư bản chủ nghĩa, chế độ cổ phần phục vụ cho việc tăng
nguồn vốn cho sản xuất – kinh doanh tư bản chủ nghĩa, chủ yếu đem lại lợi ích cho
nhà tư bản. Với chế độ sở hữu xã hội (công hữu), cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước phục vụ cho việc tăng nguồn lực cho sản xuất – kinh doanh, vì lợi ích
của người lao động.
Trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, công nhân và người lao động tham
gia mua cổ phiếu, có cổ phần và có vị thế làm chủ của những người cổ đông. Họ
trở thành đồng sở hữu cùng với doanh nghiệp và Nhà nước. Đó là sự hiện diện của
sở hữu cá nhân, hợp thành cơ sở để hình thành sở hữu xã hội. Đây thực sự là sở
hữu vốn và tư liệu sản xuất, tạo cho công nhân và lao động địa vị kinh tế để thực
sự làm chủ doanh nghiệp. Cần khắc phục trong nhận thức là, chỉ thấy sở hữu cá
nhân về tư liệu sinh hoạt, trong khi không ý thức được hay phủ nhận sở hữu cá
nhân về tư liệu sản xuất, mà đây mới là bản chất của vấn đề làm chủ kinh tế của
người lao động. Không có sự tham gia của sở hữu cá nhân thì sở hữu xã hội không
có nội dung hiện thực, trừu tượng, phi lịch sử. Cá nhân người lao động không có
sở hữu của mình, thì hành vi lao động của anh ta thiếu vắng căn bản động lực kích
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 7
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
thích và trên thực tế anh ta chỉ có thể làm chủ một cách hình thức, danh nghĩa mà
thôi. Trước đây do bệnh giáo điều, chúng ta đã đồng nhất sở hữu tư nhân với sở
hữu cá nhân, đó là chưa kể đến sự giản lược, đồng nhất mọi hình thức tư nhân (tư
nhân tư hữu, chiếm hữu bằng bóc lột, phi lao động của tư sản là hoàn toàn khác với
tư nhân của người lao động cá thể). Vượt qua được những hạn chế và định kiến
này, tôn trọng lợi ích cá nhân, tôn trọng sở hữu cá nhân của người lao động, chúng
ta sẽ thấy cổ phần hóa là giải pháp thực hiện hình thức sở hữu hỗn hợp giữa sở hữu
tư nhân (bao gồm cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) với sở hữu tập thể và sở hữu
Nhà nước. Sức mạnh sở hữu toàn dân là hợp thành từ nhiều đồng sở hữu mà Nhà
nước (doanh nghiệp nhà nước) có vị trí chi phối chủ đạo.
Kinh nghiệm của Trung Quốc qua hơn 28 năm cải cách cho thấy, cải cách chế
độ cổ phần được coi là một đột phá lý luận kinh tế để xây dựng lý luận kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc đạt được những bước tiến đáng kể trong lĩnh
vực này, từ năm 1997 đến 2001, xí nghiệp chế độ cổ phần (cổ phần hóa) tăng từ
7.200 lên tới gần 300.000, số lao động từ 6,437 triệu người lên 27,466 triệu người,
doanh thu từ 813,1 tỉ nhân dân tệ (NDT) lên 5.673,3 tỉ NDT. Thực tế đó có sức
thuyết phục, đem lại nhận thức đúng đắn về vai trò của chế độ cổ phần, của cổ
phần hóa trong xây dựng kinh tế quốc hữu.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 8
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
Trong điều kiện của nước ta, khi chuyển từ mô hình kinh tế có tỷ lệ doanh
nghiệp nhà nước rất cao nhưng hiệu quả kinh tế – xã hội lại rất thấp, sang mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cổ phần hóa bộ phận lớn doanh
nghiệp nhà nước là một bước đi tất yếu, không chỉ vì mục tiêu thoát khỏi tình trạng
năng suất thấp, mà còn vì sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Sự đóng góp của
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vào sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội là
ở chỗ, nó làm tăng vốn, tăng lợi nhuận, giảm nợ xấu, chia xẻ rủi ro cho các chủ sở
hữu riêng lẻ, tạo động lực làm chủ cho người lao động, tạo sức mạnh kinh tế để
giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường… Sau hàng chục năm thực hiện, tuy
rằng tiến độ còn rất chậm, song nguyên nhân không phải vì tính không hiệu quả
của doanh nghiệp cổ phần mà là do nhiều nguyên nhân khác. Cổ phần hóa doanh
nghiệp của Việt Nam không phải là “sự rút lui toàn diện của doanh nghiệp nhà
nước” hay là tư nhân hóa, như một số người lo lắng. Tính đến ngày 27-10-2005, cả
nước đã cổ phần hóa được 1.960 doanh nghiệp nhà nước, hầu hết đều hoạt động có
hiệu quả, vốn điều lệ và doanh thu tăng, thu nhập của người lao động được cải
thiện rõ rệt. Riêng 10 tháng của năm 2005, đã cổ phần hóa được 400 doanh nghiệp
nhà nước. Tại Hà Nội, bình quân của 86 doanh nghiệp đã cổ phần hóa tăng doanh
thu tới 1,5 lần. Vốn nhà nước được bảo toàn và tiếp tục tăng. Doanh nghiệp “tự
thân vận động” tốt hơn khi còn được bảo lãnh vay vốn của Nhà nước, xóa bỏ được
tình trạng giãn nợ và khoanh nợ cho Nhà nước, tiến dần tới sự liên doanh giữa
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 9
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
ngân hàng và doanh nghiệp cùng có lợi và cùng chia sẻ rủi ro như thông lệ của
kinh tế thị trường. Điều đáng lưu ý là, có rất ít doanh nghiệp cổ phần kinh doanh
có hiệu quả mà không hề có cổ đông là Nhà nước. Thực tế cho thấy những doanh
nghiệp mà Nhà nước định bán hết 100% cổ phần, đều rất khó thực hiện cổ phần
hóa. Đó là một vấn đề cần được quan tâm, tìm hiểu kỹ lưỡng.
Khi tham gia cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, các cá nhân sẽ vững tin
hơn nhiều nếu thấy Nhà nước còn nắm giữ tỷ lệ cổ phiếu nhất định, không phải vì
đó là di sản của thời bao cấp như một số người quan niệm, mà bởi vì người ta
chưa tin có cá nhân hay pháp nhân kinh tế nào có đủ độ tin cậy hơn Nhà nước, cho
dù Nhà nước của ta vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém về mặt quản lý kinh tế. Chừng
nào kinh tế nhà nước còn đủ sức để đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thì
chừng đó Nhà nước vẫn là nhân tố quan trọng nhất bảo đảm cho sự phát triển bền
vững của các thành phần kinh tế khác. Nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu nhất định, Nhà
nước có thể định hướng được doanh nghiệp sau cổ phần hóa tiếp tục phục vụ lợi
ích của các cổ đông và bảo đảm lợi ích hợp pháp của người lao động, trong điều
kiện kinh doanh một cách thân thiện với môi trường. Hơn thế, với tư cách là một
một cổ đông quan trọng, Nhà nước bảo đảm thực thi các chính sách, luật pháp của
mình hữu hiệu hơn tại chính doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, cổ
phần hóa tạo ra khả năng phát triển nguồn vốn nhà nước bằng cách thu hút và tổ
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 10
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
chức thêm nhiều nguồn vốn từ xã hội, mở rộng phạm vi chi phối của nguồn vốn
nhà nước.
Cổ phần hóa còn tạo thuận tiện cho việc lưu động vốn nhà nước giữa các doanh
nghiệp và ngành nghề khác nhau, thông qua thị trường vốn, làm tăng hiệu quả vốn
trong sản xuất – kinh doanh. Đối với người lao động, cổ phần hóa tạo điều kiện
cho họ trở thành cổ đông, tăng thêm lợi ích thông qua vốn đầu tư.
Vấn đề là ở chỗ, làm thế nào để việc thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước không gây ra những tiêu cực trong kiểm kê tài sản, đánh giá, thẩm định
tổng lượng vốn của doanh nghiệp, đánh giá toàn bộ tài sản doanh nghiệp, định mức
cổ phiếu và thu hút được đông đảo công nhân tham gia cổ phần. Do đó, cần tăng
cường các biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát và phát huy được vai trò làm chủ
của công nhân để ngăn chặn những tiêu cực có thể xảy ra. Bởi lẽ, giải pháp, chủ
trương nào, ngoài tính đúng đắn, hợp lý của nó cũng có thể phát sinh những mặt
trái phải phòng ngừa.
II. Quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa
Ðiều 4 Chương I, Nghị định số 187/2004/NÐ-CP của Chính phủ, ngày
16/11/2004 về việc chuyển đổi công ty Nhà nước thành công ty cổ phần quy định
đối tượng và điều kiện mua cổ phần như sau: Tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hoạt
động theo luật pháp Việt Nam và cá nhân người Việt Nam định cư ở trong nước
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 11
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
(sau đây gọi tắt là nhà đầu tư trong nước) được quyền mua cổ phần của các doanh
nghiệp cổ phần hoá với số lượng không hạn chế. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài (sau đây gọi tắt là nhà đầu tư nước ngoài) được mua cổ phần
của các doanh nghiệp cổ phần hoá theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Ðiều 37 Nghị định này quy định về người lao động trong doanh nghiệp cổ phần
hoá được hưởng các chính sách ưu đãi sau: Người lao động có tên trong danh sách
thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định cổ phần hoá được mua tối
đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại khu vực Nhà nước với giá giảm
40% so với giá đấu bình quân bán cho nhà đầu tư khác. Ðược tiếp tục tham gia và
hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội theo chế độ hiện hành nếu chuyển sang làm
việc tại công ty cổ phần.Ðược hưởng chế độ hưu trí và các quyền lợi theo chế độ
hiện hành nếu đã có đủ điều kiện tại thời điểm cổ phần hóa. Nếu bị mất việc, thôi
việc tại thời điểm cổ phần hoá được thanh toán trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy
định của pháp luật.
Sự bền vững trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, được bảo đảm bởi rất
nhiều nhân tố chứ không phải chỉ có cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Như đã
phân tích ở trên, cổ phần hóa là một trong những giải pháp chủ yếu để phát triển
kinh tế nhà nước. Tính chất bền vững của một quốc gia, một nền kinh tế đang trên
chặng đường vừa chuyển đổi mô hình, vừa thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xét cho cùng lại tùy thuộc rất nhiều vào sự bền tâm, vững chí của đại đa số
nhân dân. Đến lượt nó, sự bền tâm, vững chí đó lại được xây dựng trên nền tảng
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 12
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
của lợi ích trước mắt và lâu dài của người lao động và của cộng đồng xã hội. Bảo
đảm lợi ích thiết thân cho người lao động và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa
các chủ thể lợi ích trong cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, đó là thực hiện
dân chủ hóa kinh tế. Theo ý nghĩa này, đối với đại đa số người lao động ở nước ta,
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (nơi họ đang làm việc, hay được hưởng
lợi từ các dịch vụ và hàng hóa làm ra) có tầm vóc của một giải pháp mang tính đột
phá trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước vì sự phát triển kinh tế – xã hội
bền vững, tạo động lực để thực hiện có hiệu quả mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Tác động tích cực của cổ phần hóa đến người lao động
1.Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tạo thêm nhiều việc làm
Trong thực tế, không có doanh nghiệp nào sa thải người lao động khi thực hiện
cổ phần hóa. Việc sắp xếp lao động và giải quyết chính sách đối với lao động dôi
dư được thực hiện đúng theo quy định hiện hành. Kết quả điều tra của Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam tại hơn 100 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa cho
thấy, số lao động mới vào làm việc tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa chiếm
15% tổng số lao động hiện có. Nhiều doanh nghiệp khi tiến hành sắp xếp lao động,
số người dôi dư nghỉ hưởng trợ cấp theo Nghị định 41/CP chiếm từ 20% đến 40%
tổng số lao động trong doanh nghiệp, nhưng sau khi chuyển thành công ty cổ phần,
nhờ phát hành thêm cổ phiếu, huy động được vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, nên tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút thêm nhiều lao động hơn cả số lao
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 13
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
động đã nghỉ trước đó. Những công ty điển hình có số lao động tăng mạnh sau cổ
phần hóa là: Công ty cổ phần Đại lý Liên hiệp vận chuyển (tăng 430%), Công ty
cổ phần May Hồ Gươm (tăng 280%), Công ty cổ phần Giấy HAPACO Hải Phòng
(tăng gần 200%, chưa kể số lao động được tuyển vào các đơn vị thành viên mới
thành lập của công ty, v.v )
2.Tiền lương và thu nhập của người lao động được bảo đảm.
Một trong những vấn đề mà người lao động rất băn khoăn, e sợ khi chuyển
sang công ty cổ phần là tiền lương và thu nhập sẽ ra sao? Kết quả khảo sát và báo
cáo của công đoàn các cấp cho thấy, thu nhập của người lao động tại doanh nghiệp
sau cổ phần hóa tăng đáng kể so với trước, bình quân 12%, chưa kể thu nhập có
được từ cổ tức. Ví dụ: Công ty cổ phần Đại lý Liên hiệp vận chuyển tăng gấp 4 lần,
Công ty cổ phần Thủy sản Hoài Nhơn tăng 200%, Công ty cổ phần Hóa chất Minh
Đức tăng gấp đôi. Ngoài ra, người lao động là cổ đông trong các công ty cổ phần,
hằng năm còn được nhận cổ tức từ phần vốn cổ phần mà họ có trong công ty. Khảo
sát cho thấy, mức cổ tức bình quân của các công ty cổ phần cao gấp 2 - 3 lần lãi
suất ngân hàng (phổ biến từ 12% đến 20%/năm). Nhiều doanh nghiệp có mức cổ
tức ổn định và cao như: Công ty cổ phần May Bình Minh (49%), Công ty cổ phần
Chế biến Lâm - Thủy sản (48%), Công ty cổ phần Sản xuất và Kinh doanh Kim
khí (41%), Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng Bình Chánh (35%), Công ty cổ phần
Khai thác đá và Vật liệu xây dựng Hóa An (30%) v.v
Sở dĩ tiền lương và thu nhập của người lao động không ngừng tăng, bởi lẽ: cơ
chế quản lý ở công ty cổ phần về cơ bản được đổi mới; đặc biệt, ban kiểm soát do
đại hội cổ đông bầu có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát các hoạt
động sản xuất, kinh doanh của công ty cổ phần. Tổ chức bộ máy của công ty cổ
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 14
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
phần được sắp xếp lại gọn nhẹ, năng động, khu vực hành chính được giảm tối đa.
Ở nhiều công ty cổ phần, số cán bộ gián tiếp chỉ còn chiếm 7% - 8% tổng số lao
động trong công ty. Vấn đề chi tiêu trong công ty cổ phần được giám sát chặt chẽ,
giảm tối đa những khoản chi lãng phí. Mọi khoản chi và mức chi trong công ty đều
phải công khai, do đại hội cổ đông và hội đồng quản trị quyết định. Nhờ công khai,
dân chủ, nên giá cả nguyên vật liệu, thiết bị và dịch vụ đầu vào và bán thành phẩm
đầu ra được kiểm soát chặt chẽ, tránh được các hiện tượng thỏa thuận tăng giá "đầu
vào", giảm giá "đầu ra" để thu lợi bất chính
3.Quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động là cổ đông được bảo
đảm.
Theo báo cáo của các công ty cổ phần đã được chuyển đổi, người lao động hiện
đang nắm giữ 38% vốn điều lệ, hầu như họ đều mua hết số cổ phần ưu đãi mà họ
được hưởng. Nhiều người còn vay mượn hay hoãn chi tiêu riêng nhiều khoản để
dành tiền mua cổ phần. Trong công ty cổ phần, người lao động là cổ đông không
những có quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động mà còn có quyền và nghĩa vụ của
cổ đông, đó là quyền được bầu cử, ứng cử tại đại hội cổ đông, quyền biểu quyết,
quyền được hưởng cổ tức khi công ty kinh doanh có lãi, quyền chất vấn, phê bình,
kiến nghị về công việc của hội đồng quản trị, giám đốc và kiểm soát viên về hoạt
động của công ty. Nhóm cổ đông thay mặt cho 25% vốn điều lệ được yêu cầu triệu
tập đại hội cổ đông bất thường khi có dấu hiệu không lành mạnh về hoạt động tài
chính của giám đốc, thành viên hội đồng quản trị và ban kiểm soát. Đây chính là
những yếu tố quan trọng làm tăng tiền lương và thu nhập của người lao động.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 15
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
4.Chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp và cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước được các doanh nghiệp và người lao động hoan nghênh, đón
nhận tích cực.
Do có chính sách này, các doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa đã
sắp xếp lại lao động một cách cơ bản. Người lao động vì nhiều lý do khác nhau
không đáp ứng được yêu cầu mới trong sản xuất kinh doanh được giải quyết phù
hợp (nghỉ chờ hưu, đào tạo lại ). Doanh nghiệp có cơ hội tuyển dụng lao động có
trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều phát
triển khá vững chắc, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm được nâng lên rõ rệt.
Người lao động dôi dư khi rời khỏi doanh nghiệp được Nhà nước trợ cấp, hỗ trợ.
Nhiều người đã sử dụng số tiền này để tìm việc làm hay tự tạo cho mình việc làm
mới phù hợp hơn, bảo đảm cuộc sống cho bản thân và gia đình. Thực tế cho thấy,
điều làm cho người lao động dôi dư phấn khởi và yên tâm, nhất là được bảo lưu
chế độ bảo hiểm xã hội, được tạo điều kiện để tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội khi
làm việc ở các doanh nghiệp khác thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Đặc biệt, với
nhóm đối tượng lao động dôi dư đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ 15
năm đến dưới 20 năm, nhưng vì tuổi cao (nam trên 55, nữ trên 50) không có cơ hội
tìm việc làm mới, được tự đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi đủ tuổi hưu để hưởng
chế độ hưu trí.
III. Thực trạng người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa hiện
nay.
Căn cứ phương án cổ phần hoá về sắp xếp lao động, các doanh nghiệp đánh giá
thực trạng của doanh nghiệp mình để có phương án sắp xếp lại lao động, dự kiến
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 16
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
số lao động tiếp tục làm việc tại công ty, số lao động tiếp tục tuyển dụng thêm hay
giải quyết số LĐ dôi dư từ đó phân loại và lập phương án hỗ trợ kinh phí đào tạo
lại theo quy định của Chính phủ…
Việc cổ phần hoá DN nhà nước nhằm khắc phục những tồn tại, nhược điểm cố
hữu. Đó là thay đổi cơ chế quản lý điều hành của doanh nghiệp, bố trí hợp lý bộ
máy tổ chức doanh nghiệp, tinh giảm được lao động gián tiếp để quyền của doanh
nghiệp được mở rộng, quá trình ra quyết định của doanh nghiệp được hợp lý hoá
hơn, đáp ứng kịp thời của cơ chế thị trường, tạo được động lực và buộc người lao
động, cán bộ quản lý phải có tinh thần trách nhiệm cao hơn trong mọi hoạt động,
có ý thức tự giác làm việc, có tác phong công nghiệp, từ đó tránh được những lãng
phí, tiêu cực không cần thiết thường thấy ở doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên, một trong số những vấn đề cần được quan tâm trong quá trình cổ
phần hoá là số lao động dôi dư sau khi DN chuyển đổi được giải quyết chế độ
chính sách, họ sẽ về đâu? Khi mất việc làm, dù được giải quyết đầy đủ chế độ theo
quy định Nhà nước nhưng những lao động dôi dư không dễ kiếm việc làm trong
một thời gian ngắn, vì hầu hết lực lượng này tay nghề yếu, trình độ năng lực hạn
chế, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp
và người lao động vẫn chịu ảnh hưởng của mô hình cũ, tư duy và tác phong cũ.
Bên cạnh đó, có một số công ty sau cổ phần hoá hoạt động kém hiệu quả nên dẫn
đến phá sản, NLĐ tại DN bị mất việc làm. Lúc này, việc giải quyết hết sức phức
tạp, từ khâu giải quyết quyền lợi cho người lao động, cổ đông đến việc tạo điều
kiện để NLĐ đi tìm kiếm cơ hội làm việc mới.
Bằng các hình thức sát nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản, giao bán, khoán, cho
thuê và cổ phần hóa nên doanh nghiệp Nhà nước từ số lượng 12.000 vào năm 1992
giảm xuống còn 4.296 doanh nghiệp và 18 tổng công ty “91”, 74 tổng công ty “90”
vào năm 1993, trong đó, đã cổ phần hoá 1.557 doanh nghiệp và bộ phận doanh
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 17
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
nghiệp. Các doanh nghiệp được cổ phần hóa ở giai đoạn này chủ yếu thuộc loại
nhỏ do các tỉnh quản lý (74%). Các doanh nghiệp loại vừa thuộc các tổng công ty
“90” được cổ phần hóa, chiếm 20% và số doanh nghiệp lớn thuộc các tổng công ty
“91” được cổ phần hóa, chỉ chiếm 6% tổng số các doanh nghiệp được cổ phần hóa.
Trong số các doanh nghiệp được cổ phần hóa, chỉ có 15% doanh nghiệp do Nhà
nước nắm cổ phần chi phối (trên 50%). Bình quân trong 1.557 doanh nghiệp đã cổ
phần hóa, Nhà nước giữ 38%; cán bộ công nhân viên doanh nghiệp giữ 54%; cổ
đông bên ngoài giữ 8%. Từ năm 2003 đến nay các Bộ, ngành, địa phương và tổng
công ty “91” đã hoàn thành về cơ bản các đề án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp Nhà
nước. Trong lộ trình sắp xếp lại, phương hướng là Nhà nước nắm giữ 100% tại
1.654 doanh nghiệp; tức là chiếm 38,67% tổng số doanh nghiệp hiện có; trong đó
số doanh nghiệp có vốn trên 20 tỷ đồng chiếm 42,4%; còn lại là các doanh nghiệp
nhỏ. Các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn, chủ yếu là doanh nghiệp
công ích, doanh nghiệp đặc thù, doanh nghiệp phục vụ đồng bào miền núi, vùng
sâu, vùng xa và do các địa phương quản lý. Cho đến nay đã cổ phần hóa khoảng
3.700 doanh nghiệp với khoảng 18% tổng số vốn của Nhà nước. Doanh nghiệp
Nhà nước hiện nắm giữ hơn 70% tài sản quốc gia, nhưng chỉ đóng góp khoảng
38% GDP và tạo được khoảng 20% việc làm cho xã hội với thu nhập thấp. Hiện
nay, việc sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước diễn ra chậm so
với lộ trình đặt ra. Theo lộ trình, sẽ sắp xếp 2.620 doanh nghiệp; trong đó: 698
doanh nghiệp thuộc các bộ, ngành quản lý, 242 doanh nghiệp thuộc tổng công ty
91, 1.680 doanh nghiệp thuộc các địa phương quản lý. Tuy nhiên, thực tế triển khai
đã chậm hơn kế hoạch, nguyên nhân chủ yếu là do các quy định về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước chưa phù hợp với tình hình thực tế; đối tượng cổ phần hóa
bao gồm cả những doanh nghiệp có quy mô lớn (các tổng công ty, các nông, lâm
trường ); và việc thực hiện nguyên tắc thị trường đã làm phát sinh nhiều vấn đề xã
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 18
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
hội phức tạp, đặc biệt sự biến động về việc làm của đội ngũ lao động công nghiệp.
Vào đầu thập niên 90 thế kỷ trước, đội ngũ lao động công nghiệp gồm khoảng 4,0
triệu người; trong đó lao động quốc doanh có khoảng 2,7 triệu người. Trong quá
trình củng cố, sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước trong các năm 1989-1992, có
khoảng 70 vạn lao động không có việc làm và phải “về một cục” với khoản trợ cấp
thôi việc là 300 tỷ đồng; trong đó nhà nước hỗ trợ khoảng 168 tỷ; còn lại doanh
nghiệp chi trả. Trong giai đoạn sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa mạnh mẽ vào các
năm 1998-2003, số lao động công nghiệp dư thừa, theo báo cáo chính thức, chiếm
hơn 4% (theo điều tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là 6%), tổng số
lao động làm việc tại các doanh nghiệp Nhà nước. Tại các doanh nghiệp do địa
phương quản lý, số lao động dư thừa chiếm 5,5%; doanh nghiệp do các bộ, ngành
của trung ương quản lý, chiếm 4,8%. Có tới 21 địa phương có số lao động dôi dư
hơn 50%; trong đó Hải Dương (33%), Nam Định (27%), Hà Tĩnh (23%), Nghệ An
(16%), Hải Phòng (15%), Thái Nguyên (11,84%), Thanh Hóa (10%). Tổng công ty
lương thực miền Bắc dôi dư 23% lao động; Tổng công ty thép Việt Nam dôi dư
12% lao động; Các doanh nghiệp Nhà nước của Cục Dự trữ quốc gia dôi dư 46,8%
lao động; Bộ Thủy sản dôi dư 14% lao động.
Vấn đề giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hoá, giải quyết số lao động dôi dư
sau cổ phần hoá là vấn đề nan giải đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là khi Nghị
định 41 của Chính phủ không được áp dụng cho những đơn vị cổ phần hoá trước
12 tháng khi Nghị định ra đời. Số lao động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá cần
đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới trong công ty cổ phần trước đây được
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, đến nay thì doanh nghiệp
không còn được hỗ trợ nữa khiến cho khả năng hoạt động của doanh nghiệp bị hạn
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 19
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
chế. Hơn nữa, vẫn còn tình trạng cán bộ quản lý chủ chốt của một số doanh nghiệp
còn kém về năng lực cũng như phẩm chất, được đề bạt trong cơ chế cũ, nay chuyển
sang công ty cổ phần không đảm đương được nhiệm vụ được giao.Trên thực tế có
nhiều doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sở hữu, người sử dụng lao động muốn cơ
cấu lại lao động đã gặp phải vướng mắc vì nhiều người lao động không muốn rời
khỏi doanh nghiệp nên việc đàm phán lại hợp đồng lao động gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt là đối với số lượng lao động cũ có hợp đồng không xác định thời hạn. Một
khó khăn nữa đối với việc giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hoá là các cổ
đông không muốn chi trả trợ cấp một lần cho những lao động này vì sợ giảm cổ tức
của mình.Có thể nhận thấy rằng các chế độ giải quyết lao động dôi dư tuy đã được
Nhà nước quan tâm song chủ yếu mới tập trung vào mục tiêu giải quyết cho người
lao động rời khỏi doanh nghiệp mà chưa chú ý đến việc tạo điều kiện và cơ hội cho
lao động dôi dư tìm việc làm mới, để người lao động yên tâm khi rời khỏi doanh
nghiệp. Vì vậy, để tháo gỡ những vướng mắc này, Nhà nước cần có chính sách để
xử lý lao động dôi dư, có nguồn tài chính để thực hiện chính sách này trước khi cổ
phần hoá.
* Một số giải pháp trước mắt nhằm giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần
hoá
- Chính sách đối với người lao động phải phù hợp với thực tế, quyền lợi cần
được bảo đảm, nhất là đối tượng lao động không bố trí được việc làm được hưởng
các quyền lợi như: được mua cổ phần ưu đãi, hưởng quỹ phúc lợi khen thưởng còn
dư tại thời điểm cổ phần hoá công bằng như những người lao động tiếp tục được
làm việc tại công ty cổ phần, chế độ bảo hiểm xã hội được hưởng theo thời gian đã
đóng.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 20
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
- Cần có chính sách kích cầu lao động như hỗ trợ vốn ban đầu cho những người
kinh doanh nhỏ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các chương trình tạo
công ăn việc làm cho người lao động, xuất khẩu lao động, qua đó giảm sức ép về
dư thừa lao động, chuyển dịch lao động dư thừa ở doanh nghiệp sau cổ phần hoá
sang khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt chính sách
giảm cung về lao động, bao gồm các chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình,
chính sách di dân sang khu vực ít bị sức ép dư thừa lao động.
- Công ty khi cổ phần hoá phải luôn luôn kịp thời cập nhật các thông tin, văn bản
pháp quy của Nhà nước quy định cho các doanh nghiệp cổ phần để thực hiện cho
đúng quy định của pháp luật và điều hành công ty được tốt đồng thời bảo đảm
được quyền lợi của người lao động và các cổ đông. Cần thu thập thông tin, học hỏi
kinh nghiệm kinh nghiệm tốt, các mô hình hay của các doanh nghiệp đã thực hiện
cổ phần hoá về giải quyết lao động dôi dư để phổ biến cho người lao động hiểu rõ
hơn các chế độ chính sách Thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát
việc thực hiện chính sách đối với người lao động để kịp thời ngăn chặn tình trạng
thực hiện không đúng theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp cần chủ động
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc theo đặc thù riêng của mỗi doanh nghiệp.
- Công ty cần thực hiện các biện pháp tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng
cho người lao động và cán bộ quản lý công ty về quyền của cổ đông, của các cơ
quan quản lý trong công ty, trình tự, thủ tục thông qua các quyết định quan trọng
của công ty nhằm làm cho cổ đông nắm được các quy định pháp lý, tránh tình
trạng xung đột trong nội bộ công ty hay là chủ “hình thức” của các cổ đông nhỏ
trong công ty sau chuyển đổi do không hiểu pháp luật để đảm bảo hiệu quả hoạt
động của công ty sau CPH.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 21
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
- Phát huy dân chủ, tinh thần chủ động, sáng tạo, đảm bảo quyền lợi, trách
nhiệm của người lao động và cổ đông trong công ty. Người lao động nắm cổ phần
của công ty với tư cách là người chủ doanh nghiệp nên hành vi của họ cần được
khích lệ. Con đường căn bản để phát huy đầy đủ tính tích cực của người lao động
là chủ động tạo điều kiện cho họ tham gia vào việc phân phối quyền sở hữu tài sản
của công ty. Cụ thể là thông qua mối quan hệ giữa cống hiến lao động, thù lao lao
động của người lao động với hiệu quả kinh doanh của công ty. Làm cho họ đồng
thời trở thành người lao động và người chủ sở hữu của doanh nghiệp, thực hiện sự
thống nhất hữu cơ giữa nhân lực và tài lực.
- Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc giải quyết lao động dôi dư,
vì tổ chức công đoàn thực hiện những công việc như: tổ chức tuyên truyền cho
người lao động, cổ đông về chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá, các
chế độ chính sách đối với công ty cổ phần để người lao động hiểu rõ mục đích, yêu
cầu, quyền lợi, trách nhiệm của người lao động nhằm tạo ra sự nhất trí cao trong
công ty để thực hiện đạt kết quả tốt.
Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đang từng bước được thực hiện theo
đúng quy định của Bộ luật Lao động và có sự cải thiện ở một số khu vực. Nhiều
doanh nghiệp, cơ quan tổ chức đã có những giải pháp tích cực để bảo đảm thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi cho người lao động. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều doanh
nghiệp vi phạm quy định về thời giờ làm việc, buộc người lao động phải làm từ 10
đến 12 giờ/ngày, thậm chí không trả lương làm thêm giờ, không giải quyết chế độ
nghỉ bù. Trong nhiều trường hợp người lao động làm việc quá sức, đã bị ngất tại
nơi làm việc hay phải đi cấp cứu tại các trung tâm y tế. Tình trạng làm thêm giờ
liên tục, số giờ làm thêm quá 200 giờ/năm phổ biến ở các doanh nghiệp sử dụng
lao động thời vụ, lao động với hợp đồng ngắn hạn và ở các doanh nghiệp làm hàng
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 22
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
gia công dệt may, giày da, chế biến thủy sản. Hiện tình trạng nợ đọng, không đóng,
hay trốn bảo hiểm xã hội đang diễn ra khá phổ biến. Tính đến tháng 6-2009, số
tiền các doanh nghiệp nợ BHXH lên tới 2.000 tỷ đồng, ảnh hưởng đến quyền lợi
của người lao động. Qua số liệu phân tích từng năm cho thấy, tình hình đình công
đã xảy ra trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, số vụ đình công trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn chiếm tỷ lệ cao nhất. Hầu hết các cuộc đình
công đều xảy ra có mục đích kinh tế và thuộc phạm vi quan hệ lao động, không do
công đoàn cơ sở lãnh đạo và chưa bảo đảm đúng trình tự theo quy định của pháp
luật. Tuy nhiên, khi có đình công xảy ra, tổ chức công đoàn luôn luôn có mặt sớm
nhất để tham gia giải quyết. Nguyên nhân chủ yếu của các cuộc đình công đều do
người sử dụng lao động vi phạm các quy định của pháp luật lao động và các cam
kết, thỏa thuận với người lao động: chậm trả lương, phạt lương, trốn đóng bảo
hiểm y tế, không bảo đảm điều kiện an toàn vệ sinh lao động, sa thải hay đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với người lao động Một
số cuộc đình công còn có nguyên nhân do người lao động bị xúc phạm danh dự,
nhân phẩm. Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân do một bộ phận người lao động trình
độ chuyên môn tay nghề chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, nhận thức pháp luật còn hạn chế, chưa hình thành tác phong công nghiệp
trong lao động sản xuất. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật lao
động chưa thường xuyên, chế tài và biện pháp xử lý vi phạm pháp luật lao động
chưa nghiêm minh. Quy định của pháp luật còn thiếu chặt chẽ và chưa đồng bộ.
Trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát
triển, đồng thời với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, quan hệ lao động đã có
những diễn biến mới phức tạp, đòi hỏi tổ chức công đoàn phải đổi mới nội dung và
phương pháp hoạt động để thực hiện hiệu quả Nghị quyết T.Ư 6 của Đảng và thực
hiện tốt ba chức năng của tổ chức công đoàn, trong đó chức năng bảo vệ quyền, lợi
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 23
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
ích hợp pháp của người lao động có vị trí trung tâm, quan trọng. Để làm tốt chức
năng này, trong thời gian tới các cấp công đoàn cần làm tốt các nhiệm vụ sau đây:
Đại diện, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công
nhân, viên chức, lao động: Chủ động tham gia xây dựng và kiểm tra, giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến công nhân, viên chức, lao
động. Trước mắt là chính sách về nhà ở, đặc biệt là nhà ở cho công nhân các khu
công nghiệp và công nhân, viên chức, lao động có thu nhập thấp; chính sách bảo
đảm việc làm, tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, xây dựng nhà
trẻ, mẫu giáo và các thiết chế văn hóa phục vụ công nhân lao động. Nghiên cứu,
kiến nghị và tham gia sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật
Bảo hiểm xã hội; quy định pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; chính sách,
pháp luật về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo vệ môi
trường; chính sách đối với lao động nữ; chính sách đào tạo, đào tạo lại nghề cho
công nhân; chính sách khuyến khích công nhân tự học tập nâng cao trình độ học
vấn, tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ; chính sách đãi ngộ đặc biệt đối
với công nhân có sáng kiến, có tay nghề cao. Phối hợp chặt chẽ với người sử dụng
lao động tổ chức thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở: Tổ chức Đại hội công
nhân, viên chức, Hội nghị cán bộ, công chức, Hội nghị người lao động bảo đảm
thiết thực, hiệu quả. Hướng dẫn, giúp đỡ công nhân, lao động giao kết Hợp đồng
lao động. Đại diện tập thể người lao động đối thoại, thương lượng, ký kết và tổ
chức thực hiện Thỏa ước lao động tập thể với nội dung quy định có lợi hơn cho
người lao động; đẩy mạnh việc ký Thỏa ước lao động tập thể cấp tổng công ty, tiến
tới thực hiện ký Thỏa ước lao động tập thể cấp ngành nghề toàn quốc. Chủ động
tham gia sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước, bảo đảm việc làm cho người lao động và thực hiện đầy đủ chính sách đối với
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 24
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
lao động dôi dư theo quy định của Nhà nước: Hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ công
đoàn cơ sở tham gia với người sử dụng lao động xây dựng thang bảng lương, định
mức lao động; vận động công nhân mua và giữ cổ phần trong các doanh nghiệp cổ
phần hóa Phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, tổ chức thực
hiện các biện pháp xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, phòng
ngừa tranh chấp lao động, đình công tự phát tại doanh nghiệp: Hướng dẫn, chỉ đạo
công đoàn cơ sở hay thay mặt tập thể lao động thực hiện quyền tổ chức, lãnh đạo
đình công theo thủ tục, trình tự pháp luật; tổ chức thực hiện có hiệu quả việc tham
gia tố tụng các vụ án lao động nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công nhân,
lao động. Tích cực tham gia thực hiện Chương trình Quốc gia về an toàn lao động,
vệ sinh lao động, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định về
bảo hộ lao động: Tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm
công tác bảo hộ lao động của công đoàn các cấp. Đổi mới tổ chức, nâng cao năng
lực nghiên cứu và ứng dụng của Viện Nghiên cứu Khoa học kỹ thuật Bảo hộ lao
động. Tăng cường chỉ đạo, thực hiện công tác bảo hộ lao động ở những ngành
nghề, địa phương trọng điểm, doanh nghiệp có đông công nhân, lao động thường
xuyên phải làm việc ở nơi có nguy cơ cao xảy ra tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp.
IV. Một số giải pháp đảm bảo quyền lợi của người lao động trong các doanh
nghiệp cổ phần hóa
1.Có chính sách ưu đãi đối với người lao động nghèo.
Đa số người lao động trong các doanh nghiệp còn rất khó khăn, một phần không
nhỏ trong số họ rất nghèo, không có tiền mua cổ phần khi doanh nghiệp thực hiện
cổ phần hóa. Để bảo đảm quyền lợi về kinh tế, chính trị cho người lao động nghèo
1. Lý do chọn đề tài
Ở nước ta, cho đến nay, quyền của đội ngũ những người lao động công nghiệp,
về cơ bản, vẫn gắn bó trên nhiều phương diện với doanh nghiệp nhà nước. Vì thế,
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã và đang tác động sâu sắc đến
quyền lợi, trách nhiệm, và cả đặc điểm, vai trò của đội ngũ này, đòi hỏi phải chú ý
thể chế hoá quyền của người lao động trong điều kiện phát triển doanh nghiệp cổ
phần ở nước ta.
Sự biến đổi của đội ngũ lao động công nghiệp trong quá trình sắp xếp, đổi mới
doanh nghiệp Nhà nước Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa,việc Nhà nước tổ chức lại và đổi mới cách quản lý
các hoạt động kinh tế phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trước hết liên quan trực tiếp đến các doanh nghiệp nhà nước.
Vấn đề quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hiện nay
là vô cùng cấp bách và cần thiết. Chính vì điều này chúng em đã chọn đề tài “
quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa” để tìm hiểu.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần cũng như
các loại hình doanh nghiệp khác. Từ đó đúc kết kinh nghiệm chi tương lai của
mình.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 1
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
NỘI DUNG
I. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một trong những hướng quan trọng của
quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước – bộ phận không thể thiếu trong thành
phần kinh tế nhà nước. Trong đổi mới kinh tế, một vấn đề lớn được đặt ra là phải
phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất. Để giải phóng lực lượng sản xuất, tất
yếu phải phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, xóa bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường và xây dựng thể chế
kinh tế thị trường, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước
đóng vai trò chủ đạo. Muốn vậy, phải đổi mới mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà
nước. Theo hướng đó, sau nhiều năm tìm tòi và thử nghiệm trong thực tế, Đảng ta
đã lựa chọn cổ phần hóa như một cách có hiệu quả để đổi mới các doanh
nghiệp nhà nước như các Nghị quyết 3 và Nghị quyết 9 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX đã chỉ rõ.
Cho đến nay, với sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và tinh thần chủ động
trong thực hiện của các cấp, các ngành, từ trung ương tới địa phương, tiến trình cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã thu được những thành tựu bước đầu đáng
khích lệ, đủ để chứng minh tính đúng đắn của sự lựa chọn đó. Tuy nhiên, trong xã
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 2
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
hội cũng như trong tư tưởng, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn
có những băn khoăn, lo lắng. Dựa vào những khiếm khuyết thực tế ở một số doanh
nghiệp đã cổ phần hóa, có ý kiến e sợ rằng, đó là cơ hội cho tình trạng chiếm
đoạt tài sản của Nhà nước, là một hình thức tránh né thuật ngữ “tư nhân hóa”, là
sự thủ tiêu hay làm suy yếu vai trò điều tiết nền kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,…
Về cơ bản, đó là những suy nghĩ thật tâm của những người đã từng gắn bó rất
lâu với mô hình kinh tế cũ, bởi quan điểm cho rằng “càng nhiều quốc doanh thì
càng nhiều chủ nghĩa xã hội”. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cho
tới nay đã thực sự trở thành một trong những thách thức phải vượt qua, trên con
đường tiếp tục đổi mới kinh tế, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Không vượt qua được thách thức này là
rất nguy hại cho chính thành phần kinh tế nhà nước nói riêng và cho cả nền kinh tế
quốc dân nói chung.
Theo số liệu của các cơ quan hữu quan, đến cuối năm 2005, có 5.000 doanh
nghiệp nhà nước ở nước ta, tạo ra khoảng 30% GDP và 15% việc làm phi nông
nghiệp, nhưng lại chiếm gần 50% tổng số dư nợ tín dụng của các ngân hàng trong
nước. Xét về hiệu quả kinh tế – xã hội, đây thực sự là vấn đề đáng lưu ý. Tỷ lệ nợ
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 3
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
xấu của khu vực này lại đang có chiều hướng gia tăng (8 tháng đầu năm 2005 là
3,08% so với cùng kỳ năm 2004 là 2,41% và năm 2003 là 2,72%)
(1)
. Những vướng
mắc từ việc thu hồi nợ đối với doanh nghiệp nhà nước là một bài toán rất nan giải
trong suốt thời kỳ đổi mới. Điều đáng lưu ý là, nhóm doanh nghiệp nhà nước “hoạt
động yếu kém nhất” theo phân loại dựa trên mức lợi nhuận và mức nợ lại bao gồm
tất cả các loại hình doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ. Rõ ràng là, quy mô không phải
là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng như trên của doanh nghiệp nhà nước.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, vấn đề có ý nghĩa quyết
định là phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Bài học của các nền kinh tế phát triển
nhanh nhưng không bền vững là hết sức rõ ràng và cần xem xét một cách nghiêm
túc. Nếu phát triển nhanh trong một vài thập niên như các “con rồng”, “con hổ”
châu Á, để rồi phải gánh chịu khủng hoảng tài chính như năm 1997, chấp nhận các
điều kiện của IMF làm một lối thoát duy nhất là rất nguy hiểm. Tư nhân hóa ồ ạt để
được công nhận là một nền kinh tế thị trường như các nước Đông Âu và SNG,
cũng có nghĩa là chấp nhận một giai đoạn đổ vỡ về kinh tế và xã hội, chấp nhận
một đa số cùng kiệt đi để có một thiểu số giàu lên rất nhanh đến mức có thay mặt trong
số vài chục người giàu nhất thế giới. Nước Nga vào cuối năm 2005, với 2% số
người giàu nhất chiếm 30% của cải xã hội, còn 10% dân số cùng kiệt nhất chỉ có 2,4%
của cải và qua thăm dò dư luận có 74% người dân tiếc nuối về Liên bang Xô-viết.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 4
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
Trung Quốc trong tiến trình cải cách và mở cửa, nhất là trong cải cách kinh tế, xây
dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đã chú ý thử nghiệm chế độ cổ
phần và có những tìm tòi lý luận về vấn đề này đáng để chúng ta tham khảo.
Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa ở hầu hết các nước, tăng
trưởng GDP thường được coi là nhu cầu cấp bách, là ưu tiên số một trong chiến
lược phát triển, nhưng về lâu dài người ta càng thấy rõ nó không phải là duy nhất
của sự phát triển. Càng ngày nhân loại càng ý thức được một cách rõ ràng hơn tầm
quan trọng sống còn của sự phát triển bền vững cả về kinh tế và xã hội. Thực tiễn
thế giới cho thấy, chất lượng sống cao nhất không phải là ở những quốc gia giàu có
nhất theo mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa triệt để nhất. Nhiều công
trình nghiên cứu từ những góc độ khác nhau về thực tiễn đều có chung một kết
luận rằng, loại hình sở hữu hỗn hợp dưới hình thức phổ biến là các doanh nghiệp
cổ phần, có sức cạnh tranh cao nhất và tạo nên chất lượng tăng trưởng tốt nhất.
Không phải ngẫu nhiên các nhà cải cách Trung Quốc đề xuất chế độ cổ phần là
hình thức thực hiện chủ yếu của chế độ công hữu. Việc cổ phần hóa phần lớn các
doanh nghiệp nhà nước mà chúng ta đang nỗ lực thực hiện, cũng chính là xác lập
chế độ cổ phần trong kinh tế nhà nước, nhằm đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
thực chất là phát triển hình thức sở hữu hỗn hợp để từng bước làm tăng thực lực
kinh tế của chế độ sở hữu công cộng toàn dân.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 5
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
Xét về mặt lịch sử và lý luận, chế độ cổ phần (biểu hiện thành giải pháp kinh tế
là cổ phần hóa doanh nghiệp) đã ra đời trong quá trình phát triển kinh tế tư bản chủ
nghĩa từ mấy thế kỷ trước đây. Do sản xuất – kinh doanh càng phát triển, nên yêu
cầu tập trung và tích tụ vốn càng cao. Cổ phần hóa đáp ứng yêu cầu đó. Nó chính
là hình thức hùn vốn trong sản xuất, kinh doanh, trong đó những ai tham gia vào
quá trình này sẽ được hưởng lợi (hay chịu rủi ro), theo tỷ lệ đóng góp cổ phần.
Công ty Đông Ấn Độ của Anh trong thời kỳ thực dân Anh thống trị Ấn Độ là một
loại hình chế độ cổ phần. Nước Mỹ hồi cuối thế kỷ XIX, khi cần tập trung một
nguồn vốn lớn để xây dựng đường sắt, cũng đã tổ chức xí nghiệp theo chế độ cổ
phần.
Áp dụng chế độ cổ phần bằng cách cổ phần hóa doanh nghiệp, sẽ liên kết được
những nguồn vốn và tư liệu sản xuất phân tán của các sở hữu tư nhân lại với nhau,
làm cho nó trở thành nguồn vốn xã hội, thúc đẩy nhanh việc xã hội hóa nguồn vốn
và tư liệu sản xuất. Đây là điều được rút ra từ thực tiễn xã hội hóa sản xuất tư bản
chủ nghĩa ở thế kỷ XIX, mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt quan
tâm nghiên cứu. C. Mác cho rằng, chế độ cổ phần là đòn bẩy mạnh mẽ để phát
triển sức sản xuất của xã hội hiện đại. Ph. Ăng-ghen cũng chỉ rõ, sản xuất tư bản
chủ nghĩa do công ty cổ phần kinh doanh đã không còn là sản xuất tư nhân, quá
trình chuyển đổi vốn tư nhân thành vốn xã hội đã thúc đẩy mạnh mẽ việc xã hội
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 6
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
hóa sản xuất và phát triển sức sản xuất. Lô-gíc nhận thức ở đây, nhìn từ góc độ
kinh tế và phát triển kinh tế cho thấy: đã thừa nhận kinh tế thị trường thì một cách
tất yếu tự nhiên cần thừa nhận chế độ cổ phần và cổ phần hóa. Với chế độ sở
hữu tư nhân (tư hữu) tư bản chủ nghĩa, chế độ cổ phần phục vụ cho việc tăng
nguồn vốn cho sản xuất – kinh doanh tư bản chủ nghĩa, chủ yếu đem lại lợi ích cho
nhà tư bản. Với chế độ sở hữu xã hội (công hữu), cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước phục vụ cho việc tăng nguồn lực cho sản xuất – kinh doanh, vì lợi ích
của người lao động.
Trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, công nhân và người lao động tham
gia mua cổ phiếu, có cổ phần và có vị thế làm chủ của những người cổ đông. Họ
trở thành đồng sở hữu cùng với doanh nghiệp và Nhà nước. Đó là sự hiện diện của
sở hữu cá nhân, hợp thành cơ sở để hình thành sở hữu xã hội. Đây thực sự là sở
hữu vốn và tư liệu sản xuất, tạo cho công nhân và lao động địa vị kinh tế để thực
sự làm chủ doanh nghiệp. Cần khắc phục trong nhận thức là, chỉ thấy sở hữu cá
nhân về tư liệu sinh hoạt, trong khi không ý thức được hay phủ nhận sở hữu cá
nhân về tư liệu sản xuất, mà đây mới là bản chất của vấn đề làm chủ kinh tế của
người lao động. Không có sự tham gia của sở hữu cá nhân thì sở hữu xã hội không
có nội dung hiện thực, trừu tượng, phi lịch sử. Cá nhân người lao động không có
sở hữu của mình, thì hành vi lao động của anh ta thiếu vắng căn bản động lực kích
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 7
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
thích và trên thực tế anh ta chỉ có thể làm chủ một cách hình thức, danh nghĩa mà
thôi. Trước đây do bệnh giáo điều, chúng ta đã đồng nhất sở hữu tư nhân với sở
hữu cá nhân, đó là chưa kể đến sự giản lược, đồng nhất mọi hình thức tư nhân (tư
nhân tư hữu, chiếm hữu bằng bóc lột, phi lao động của tư sản là hoàn toàn khác với
tư nhân của người lao động cá thể). Vượt qua được những hạn chế và định kiến
này, tôn trọng lợi ích cá nhân, tôn trọng sở hữu cá nhân của người lao động, chúng
ta sẽ thấy cổ phần hóa là giải pháp thực hiện hình thức sở hữu hỗn hợp giữa sở hữu
tư nhân (bao gồm cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) với sở hữu tập thể và sở hữu
Nhà nước. Sức mạnh sở hữu toàn dân là hợp thành từ nhiều đồng sở hữu mà Nhà
nước (doanh nghiệp nhà nước) có vị trí chi phối chủ đạo.
Kinh nghiệm của Trung Quốc qua hơn 28 năm cải cách cho thấy, cải cách chế
độ cổ phần được coi là một đột phá lý luận kinh tế để xây dựng lý luận kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc đạt được những bước tiến đáng kể trong lĩnh
vực này, từ năm 1997 đến 2001, xí nghiệp chế độ cổ phần (cổ phần hóa) tăng từ
7.200 lên tới gần 300.000, số lao động từ 6,437 triệu người lên 27,466 triệu người,
doanh thu từ 813,1 tỉ nhân dân tệ (NDT) lên 5.673,3 tỉ NDT. Thực tế đó có sức
thuyết phục, đem lại nhận thức đúng đắn về vai trò của chế độ cổ phần, của cổ
phần hóa trong xây dựng kinh tế quốc hữu.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 8
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
Trong điều kiện của nước ta, khi chuyển từ mô hình kinh tế có tỷ lệ doanh
nghiệp nhà nước rất cao nhưng hiệu quả kinh tế – xã hội lại rất thấp, sang mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cổ phần hóa bộ phận lớn doanh
nghiệp nhà nước là một bước đi tất yếu, không chỉ vì mục tiêu thoát khỏi tình trạng
năng suất thấp, mà còn vì sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Sự đóng góp của
cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vào sự phát triển bền vững kinh tế – xã hội là
ở chỗ, nó làm tăng vốn, tăng lợi nhuận, giảm nợ xấu, chia xẻ rủi ro cho các chủ sở
hữu riêng lẻ, tạo động lực làm chủ cho người lao động, tạo sức mạnh kinh tế để
giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường… Sau hàng chục năm thực hiện, tuy
rằng tiến độ còn rất chậm, song nguyên nhân không phải vì tính không hiệu quả
của doanh nghiệp cổ phần mà là do nhiều nguyên nhân khác. Cổ phần hóa doanh
nghiệp của Việt Nam không phải là “sự rút lui toàn diện của doanh nghiệp nhà
nước” hay là tư nhân hóa, như một số người lo lắng. Tính đến ngày 27-10-2005, cả
nước đã cổ phần hóa được 1.960 doanh nghiệp nhà nước, hầu hết đều hoạt động có
hiệu quả, vốn điều lệ và doanh thu tăng, thu nhập của người lao động được cải
thiện rõ rệt. Riêng 10 tháng của năm 2005, đã cổ phần hóa được 400 doanh nghiệp
nhà nước. Tại Hà Nội, bình quân của 86 doanh nghiệp đã cổ phần hóa tăng doanh
thu tới 1,5 lần. Vốn nhà nước được bảo toàn và tiếp tục tăng. Doanh nghiệp “tự
thân vận động” tốt hơn khi còn được bảo lãnh vay vốn của Nhà nước, xóa bỏ được
tình trạng giãn nợ và khoanh nợ cho Nhà nước, tiến dần tới sự liên doanh giữa
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 9
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
ngân hàng và doanh nghiệp cùng có lợi và cùng chia sẻ rủi ro như thông lệ của
kinh tế thị trường. Điều đáng lưu ý là, có rất ít doanh nghiệp cổ phần kinh doanh
có hiệu quả mà không hề có cổ đông là Nhà nước. Thực tế cho thấy những doanh
nghiệp mà Nhà nước định bán hết 100% cổ phần, đều rất khó thực hiện cổ phần
hóa. Đó là một vấn đề cần được quan tâm, tìm hiểu kỹ lưỡng.
Khi tham gia cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, các cá nhân sẽ vững tin
hơn nhiều nếu thấy Nhà nước còn nắm giữ tỷ lệ cổ phiếu nhất định, không phải vì
đó là di sản của thời bao cấp như một số người quan niệm, mà bởi vì người ta
chưa tin có cá nhân hay pháp nhân kinh tế nào có đủ độ tin cậy hơn Nhà nước, cho
dù Nhà nước của ta vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém về mặt quản lý kinh tế. Chừng
nào kinh tế nhà nước còn đủ sức để đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thì
chừng đó Nhà nước vẫn là nhân tố quan trọng nhất bảo đảm cho sự phát triển bền
vững của các thành phần kinh tế khác. Nắm giữ một tỷ lệ cổ phiếu nhất định, Nhà
nước có thể định hướng được doanh nghiệp sau cổ phần hóa tiếp tục phục vụ lợi
ích của các cổ đông và bảo đảm lợi ích hợp pháp của người lao động, trong điều
kiện kinh doanh một cách thân thiện với môi trường. Hơn thế, với tư cách là một
một cổ đông quan trọng, Nhà nước bảo đảm thực thi các chính sách, luật pháp của
mình hữu hiệu hơn tại chính doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, cổ
phần hóa tạo ra khả năng phát triển nguồn vốn nhà nước bằng cách thu hút và tổ
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 10
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
chức thêm nhiều nguồn vốn từ xã hội, mở rộng phạm vi chi phối của nguồn vốn
nhà nước.
Cổ phần hóa còn tạo thuận tiện cho việc lưu động vốn nhà nước giữa các doanh
nghiệp và ngành nghề khác nhau, thông qua thị trường vốn, làm tăng hiệu quả vốn
trong sản xuất – kinh doanh. Đối với người lao động, cổ phần hóa tạo điều kiện
cho họ trở thành cổ đông, tăng thêm lợi ích thông qua vốn đầu tư.
Vấn đề là ở chỗ, làm thế nào để việc thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước không gây ra những tiêu cực trong kiểm kê tài sản, đánh giá, thẩm định
tổng lượng vốn của doanh nghiệp, đánh giá toàn bộ tài sản doanh nghiệp, định mức
cổ phiếu và thu hút được đông đảo công nhân tham gia cổ phần. Do đó, cần tăng
cường các biện pháp quản lý, kiểm tra, giám sát và phát huy được vai trò làm chủ
của công nhân để ngăn chặn những tiêu cực có thể xảy ra. Bởi lẽ, giải pháp, chủ
trương nào, ngoài tính đúng đắn, hợp lý của nó cũng có thể phát sinh những mặt
trái phải phòng ngừa.
II. Quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa
Ðiều 4 Chương I, Nghị định số 187/2004/NÐ-CP của Chính phủ, ngày
16/11/2004 về việc chuyển đổi công ty Nhà nước thành công ty cổ phần quy định
đối tượng và điều kiện mua cổ phần như sau: Tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội hoạt
động theo luật pháp Việt Nam và cá nhân người Việt Nam định cư ở trong nước
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 11
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
(sau đây gọi tắt là nhà đầu tư trong nước) được quyền mua cổ phần của các doanh
nghiệp cổ phần hoá với số lượng không hạn chế. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, người nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài (sau đây gọi tắt là nhà đầu tư nước ngoài) được mua cổ phần
của các doanh nghiệp cổ phần hoá theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Ðiều 37 Nghị định này quy định về người lao động trong doanh nghiệp cổ phần
hoá được hưởng các chính sách ưu đãi sau: Người lao động có tên trong danh sách
thường xuyên của doanh nghiệp tại thời điểm quyết định cổ phần hoá được mua tối
đa 100 cổ phần cho mỗi năm thực tế làm việc tại khu vực Nhà nước với giá giảm
40% so với giá đấu bình quân bán cho nhà đầu tư khác. Ðược tiếp tục tham gia và
hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội theo chế độ hiện hành nếu chuyển sang làm
việc tại công ty cổ phần.Ðược hưởng chế độ hưu trí và các quyền lợi theo chế độ
hiện hành nếu đã có đủ điều kiện tại thời điểm cổ phần hóa. Nếu bị mất việc, thôi
việc tại thời điểm cổ phần hoá được thanh toán trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy
định của pháp luật.
Sự bền vững trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, được bảo đảm bởi rất
nhiều nhân tố chứ không phải chỉ có cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Như đã
phân tích ở trên, cổ phần hóa là một trong những giải pháp chủ yếu để phát triển
kinh tế nhà nước. Tính chất bền vững của một quốc gia, một nền kinh tế đang trên
chặng đường vừa chuyển đổi mô hình, vừa thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xét cho cùng lại tùy thuộc rất nhiều vào sự bền tâm, vững chí của đại đa số
nhân dân. Đến lượt nó, sự bền tâm, vững chí đó lại được xây dựng trên nền tảng
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 12
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
của lợi ích trước mắt và lâu dài của người lao động và của cộng đồng xã hội. Bảo
đảm lợi ích thiết thân cho người lao động và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa
các chủ thể lợi ích trong cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, đó là thực hiện
dân chủ hóa kinh tế. Theo ý nghĩa này, đối với đại đa số người lao động ở nước ta,
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (nơi họ đang làm việc, hay được hưởng
lợi từ các dịch vụ và hàng hóa làm ra) có tầm vóc của một giải pháp mang tính đột
phá trong quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước vì sự phát triển kinh tế – xã hội
bền vững, tạo động lực để thực hiện có hiệu quả mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
* Tác động tích cực của cổ phần hóa đến người lao động
1.Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước tạo thêm nhiều việc làm
Trong thực tế, không có doanh nghiệp nào sa thải người lao động khi thực hiện
cổ phần hóa. Việc sắp xếp lao động và giải quyết chính sách đối với lao động dôi
dư được thực hiện đúng theo quy định hiện hành. Kết quả điều tra của Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam tại hơn 100 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa cho
thấy, số lao động mới vào làm việc tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa chiếm
15% tổng số lao động hiện có. Nhiều doanh nghiệp khi tiến hành sắp xếp lao động,
số người dôi dư nghỉ hưởng trợ cấp theo Nghị định 41/CP chiếm từ 20% đến 40%
tổng số lao động trong doanh nghiệp, nhưng sau khi chuyển thành công ty cổ phần,
nhờ phát hành thêm cổ phiếu, huy động được vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh
doanh, nên tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút thêm nhiều lao động hơn cả số lao
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 13
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
động đã nghỉ trước đó. Những công ty điển hình có số lao động tăng mạnh sau cổ
phần hóa là: Công ty cổ phần Đại lý Liên hiệp vận chuyển (tăng 430%), Công ty
cổ phần May Hồ Gươm (tăng 280%), Công ty cổ phần Giấy HAPACO Hải Phòng
(tăng gần 200%, chưa kể số lao động được tuyển vào các đơn vị thành viên mới
thành lập của công ty, v.v )
2.Tiền lương và thu nhập của người lao động được bảo đảm.
Một trong những vấn đề mà người lao động rất băn khoăn, e sợ khi chuyển
sang công ty cổ phần là tiền lương và thu nhập sẽ ra sao? Kết quả khảo sát và báo
cáo của công đoàn các cấp cho thấy, thu nhập của người lao động tại doanh nghiệp
sau cổ phần hóa tăng đáng kể so với trước, bình quân 12%, chưa kể thu nhập có
được từ cổ tức. Ví dụ: Công ty cổ phần Đại lý Liên hiệp vận chuyển tăng gấp 4 lần,
Công ty cổ phần Thủy sản Hoài Nhơn tăng 200%, Công ty cổ phần Hóa chất Minh
Đức tăng gấp đôi. Ngoài ra, người lao động là cổ đông trong các công ty cổ phần,
hằng năm còn được nhận cổ tức từ phần vốn cổ phần mà họ có trong công ty. Khảo
sát cho thấy, mức cổ tức bình quân của các công ty cổ phần cao gấp 2 - 3 lần lãi
suất ngân hàng (phổ biến từ 12% đến 20%/năm). Nhiều doanh nghiệp có mức cổ
tức ổn định và cao như: Công ty cổ phần May Bình Minh (49%), Công ty cổ phần
Chế biến Lâm - Thủy sản (48%), Công ty cổ phần Sản xuất và Kinh doanh Kim
khí (41%), Công ty cổ phần Đầu tư xây dựng Bình Chánh (35%), Công ty cổ phần
Khai thác đá và Vật liệu xây dựng Hóa An (30%) v.v
Sở dĩ tiền lương và thu nhập của người lao động không ngừng tăng, bởi lẽ: cơ
chế quản lý ở công ty cổ phần về cơ bản được đổi mới; đặc biệt, ban kiểm soát do
đại hội cổ đông bầu có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát các hoạt
động sản xuất, kinh doanh của công ty cổ phần. Tổ chức bộ máy của công ty cổ
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 14
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
phần được sắp xếp lại gọn nhẹ, năng động, khu vực hành chính được giảm tối đa.
Ở nhiều công ty cổ phần, số cán bộ gián tiếp chỉ còn chiếm 7% - 8% tổng số lao
động trong công ty. Vấn đề chi tiêu trong công ty cổ phần được giám sát chặt chẽ,
giảm tối đa những khoản chi lãng phí. Mọi khoản chi và mức chi trong công ty đều
phải công khai, do đại hội cổ đông và hội đồng quản trị quyết định. Nhờ công khai,
dân chủ, nên giá cả nguyên vật liệu, thiết bị và dịch vụ đầu vào và bán thành phẩm
đầu ra được kiểm soát chặt chẽ, tránh được các hiện tượng thỏa thuận tăng giá "đầu
vào", giảm giá "đầu ra" để thu lợi bất chính
3.Quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động là cổ đông được bảo
đảm.
Theo báo cáo của các công ty cổ phần đã được chuyển đổi, người lao động hiện
đang nắm giữ 38% vốn điều lệ, hầu như họ đều mua hết số cổ phần ưu đãi mà họ
được hưởng. Nhiều người còn vay mượn hay hoãn chi tiêu riêng nhiều khoản để
dành tiền mua cổ phần. Trong công ty cổ phần, người lao động là cổ đông không
những có quyền lợi, nghĩa vụ của người lao động mà còn có quyền và nghĩa vụ của
cổ đông, đó là quyền được bầu cử, ứng cử tại đại hội cổ đông, quyền biểu quyết,
quyền được hưởng cổ tức khi công ty kinh doanh có lãi, quyền chất vấn, phê bình,
kiến nghị về công việc của hội đồng quản trị, giám đốc và kiểm soát viên về hoạt
động của công ty. Nhóm cổ đông thay mặt cho 25% vốn điều lệ được yêu cầu triệu
tập đại hội cổ đông bất thường khi có dấu hiệu không lành mạnh về hoạt động tài
chính của giám đốc, thành viên hội đồng quản trị và ban kiểm soát. Đây chính là
những yếu tố quan trọng làm tăng tiền lương và thu nhập của người lao động.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 15
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
4.Chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp và cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước được các doanh nghiệp và người lao động hoan nghênh, đón
nhận tích cực.
Do có chính sách này, các doanh nghiệp nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa đã
sắp xếp lại lao động một cách cơ bản. Người lao động vì nhiều lý do khác nhau
không đáp ứng được yêu cầu mới trong sản xuất kinh doanh được giải quyết phù
hợp (nghỉ chờ hưu, đào tạo lại ). Doanh nghiệp có cơ hội tuyển dụng lao động có
trình độ chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển sản xuất kinh doanh. Nhờ đó, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều phát
triển khá vững chắc, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm được nâng lên rõ rệt.
Người lao động dôi dư khi rời khỏi doanh nghiệp được Nhà nước trợ cấp, hỗ trợ.
Nhiều người đã sử dụng số tiền này để tìm việc làm hay tự tạo cho mình việc làm
mới phù hợp hơn, bảo đảm cuộc sống cho bản thân và gia đình. Thực tế cho thấy,
điều làm cho người lao động dôi dư phấn khởi và yên tâm, nhất là được bảo lưu
chế độ bảo hiểm xã hội, được tạo điều kiện để tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội khi
làm việc ở các doanh nghiệp khác thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Đặc biệt, với
nhóm đối tượng lao động dôi dư đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội từ 15
năm đến dưới 20 năm, nhưng vì tuổi cao (nam trên 55, nữ trên 50) không có cơ hội
tìm việc làm mới, được tự đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi đủ tuổi hưu để hưởng
chế độ hưu trí.
III. Thực trạng người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa hiện
nay.
Căn cứ phương án cổ phần hoá về sắp xếp lao động, các doanh nghiệp đánh giá
thực trạng của doanh nghiệp mình để có phương án sắp xếp lại lao động, dự kiến
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 16
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
số lao động tiếp tục làm việc tại công ty, số lao động tiếp tục tuyển dụng thêm hay
giải quyết số LĐ dôi dư từ đó phân loại và lập phương án hỗ trợ kinh phí đào tạo
lại theo quy định của Chính phủ…
Việc cổ phần hoá DN nhà nước nhằm khắc phục những tồn tại, nhược điểm cố
hữu. Đó là thay đổi cơ chế quản lý điều hành của doanh nghiệp, bố trí hợp lý bộ
máy tổ chức doanh nghiệp, tinh giảm được lao động gián tiếp để quyền của doanh
nghiệp được mở rộng, quá trình ra quyết định của doanh nghiệp được hợp lý hoá
hơn, đáp ứng kịp thời của cơ chế thị trường, tạo được động lực và buộc người lao
động, cán bộ quản lý phải có tinh thần trách nhiệm cao hơn trong mọi hoạt động,
có ý thức tự giác làm việc, có tác phong công nghiệp, từ đó tránh được những lãng
phí, tiêu cực không cần thiết thường thấy ở doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên, một trong số những vấn đề cần được quan tâm trong quá trình cổ
phần hoá là số lao động dôi dư sau khi DN chuyển đổi được giải quyết chế độ
chính sách, họ sẽ về đâu? Khi mất việc làm, dù được giải quyết đầy đủ chế độ theo
quy định Nhà nước nhưng những lao động dôi dư không dễ kiếm việc làm trong
một thời gian ngắn, vì hầu hết lực lượng này tay nghề yếu, trình độ năng lực hạn
chế, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp
và người lao động vẫn chịu ảnh hưởng của mô hình cũ, tư duy và tác phong cũ.
Bên cạnh đó, có một số công ty sau cổ phần hoá hoạt động kém hiệu quả nên dẫn
đến phá sản, NLĐ tại DN bị mất việc làm. Lúc này, việc giải quyết hết sức phức
tạp, từ khâu giải quyết quyền lợi cho người lao động, cổ đông đến việc tạo điều
kiện để NLĐ đi tìm kiếm cơ hội làm việc mới.
Bằng các hình thức sát nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản, giao bán, khoán, cho
thuê và cổ phần hóa nên doanh nghiệp Nhà nước từ số lượng 12.000 vào năm 1992
giảm xuống còn 4.296 doanh nghiệp và 18 tổng công ty “91”, 74 tổng công ty “90”
vào năm 1993, trong đó, đã cổ phần hoá 1.557 doanh nghiệp và bộ phận doanh
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 17
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
nghiệp. Các doanh nghiệp được cổ phần hóa ở giai đoạn này chủ yếu thuộc loại
nhỏ do các tỉnh quản lý (74%). Các doanh nghiệp loại vừa thuộc các tổng công ty
“90” được cổ phần hóa, chiếm 20% và số doanh nghiệp lớn thuộc các tổng công ty
“91” được cổ phần hóa, chỉ chiếm 6% tổng số các doanh nghiệp được cổ phần hóa.
Trong số các doanh nghiệp được cổ phần hóa, chỉ có 15% doanh nghiệp do Nhà
nước nắm cổ phần chi phối (trên 50%). Bình quân trong 1.557 doanh nghiệp đã cổ
phần hóa, Nhà nước giữ 38%; cán bộ công nhân viên doanh nghiệp giữ 54%; cổ
đông bên ngoài giữ 8%. Từ năm 2003 đến nay các Bộ, ngành, địa phương và tổng
công ty “91” đã hoàn thành về cơ bản các đề án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp Nhà
nước. Trong lộ trình sắp xếp lại, phương hướng là Nhà nước nắm giữ 100% tại
1.654 doanh nghiệp; tức là chiếm 38,67% tổng số doanh nghiệp hiện có; trong đó
số doanh nghiệp có vốn trên 20 tỷ đồng chiếm 42,4%; còn lại là các doanh nghiệp
nhỏ. Các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn, chủ yếu là doanh nghiệp
công ích, doanh nghiệp đặc thù, doanh nghiệp phục vụ đồng bào miền núi, vùng
sâu, vùng xa và do các địa phương quản lý. Cho đến nay đã cổ phần hóa khoảng
3.700 doanh nghiệp với khoảng 18% tổng số vốn của Nhà nước. Doanh nghiệp
Nhà nước hiện nắm giữ hơn 70% tài sản quốc gia, nhưng chỉ đóng góp khoảng
38% GDP và tạo được khoảng 20% việc làm cho xã hội với thu nhập thấp. Hiện
nay, việc sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước diễn ra chậm so
với lộ trình đặt ra. Theo lộ trình, sẽ sắp xếp 2.620 doanh nghiệp; trong đó: 698
doanh nghiệp thuộc các bộ, ngành quản lý, 242 doanh nghiệp thuộc tổng công ty
91, 1.680 doanh nghiệp thuộc các địa phương quản lý. Tuy nhiên, thực tế triển khai
đã chậm hơn kế hoạch, nguyên nhân chủ yếu là do các quy định về cổ phần hóa
doanh nghiệp nhà nước chưa phù hợp với tình hình thực tế; đối tượng cổ phần hóa
bao gồm cả những doanh nghiệp có quy mô lớn (các tổng công ty, các nông, lâm
trường ); và việc thực hiện nguyên tắc thị trường đã làm phát sinh nhiều vấn đề xã
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 18
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
hội phức tạp, đặc biệt sự biến động về việc làm của đội ngũ lao động công nghiệp.
Vào đầu thập niên 90 thế kỷ trước, đội ngũ lao động công nghiệp gồm khoảng 4,0
triệu người; trong đó lao động quốc doanh có khoảng 2,7 triệu người. Trong quá
trình củng cố, sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước trong các năm 1989-1992, có
khoảng 70 vạn lao động không có việc làm và phải “về một cục” với khoản trợ cấp
thôi việc là 300 tỷ đồng; trong đó nhà nước hỗ trợ khoảng 168 tỷ; còn lại doanh
nghiệp chi trả. Trong giai đoạn sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa mạnh mẽ vào các
năm 1998-2003, số lao động công nghiệp dư thừa, theo báo cáo chính thức, chiếm
hơn 4% (theo điều tra của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là 6%), tổng số
lao động làm việc tại các doanh nghiệp Nhà nước. Tại các doanh nghiệp do địa
phương quản lý, số lao động dư thừa chiếm 5,5%; doanh nghiệp do các bộ, ngành
của trung ương quản lý, chiếm 4,8%. Có tới 21 địa phương có số lao động dôi dư
hơn 50%; trong đó Hải Dương (33%), Nam Định (27%), Hà Tĩnh (23%), Nghệ An
(16%), Hải Phòng (15%), Thái Nguyên (11,84%), Thanh Hóa (10%). Tổng công ty
lương thực miền Bắc dôi dư 23% lao động; Tổng công ty thép Việt Nam dôi dư
12% lao động; Các doanh nghiệp Nhà nước của Cục Dự trữ quốc gia dôi dư 46,8%
lao động; Bộ Thủy sản dôi dư 14% lao động.
Vấn đề giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hoá, giải quyết số lao động dôi dư
sau cổ phần hoá là vấn đề nan giải đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là khi Nghị
định 41 của Chính phủ không được áp dụng cho những đơn vị cổ phần hoá trước
12 tháng khi Nghị định ra đời. Số lao động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá cần
đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới trong công ty cổ phần trước đây được
Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh
nghiệp nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính, đến nay thì doanh nghiệp
không còn được hỗ trợ nữa khiến cho khả năng hoạt động của doanh nghiệp bị hạn
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 19
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
chế. Hơn nữa, vẫn còn tình trạng cán bộ quản lý chủ chốt của một số doanh nghiệp
còn kém về năng lực cũng như phẩm chất, được đề bạt trong cơ chế cũ, nay chuyển
sang công ty cổ phần không đảm đương được nhiệm vụ được giao.Trên thực tế có
nhiều doanh nghiệp sau khi chuyển đổi sở hữu, người sử dụng lao động muốn cơ
cấu lại lao động đã gặp phải vướng mắc vì nhiều người lao động không muốn rời
khỏi doanh nghiệp nên việc đàm phán lại hợp đồng lao động gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt là đối với số lượng lao động cũ có hợp đồng không xác định thời hạn. Một
khó khăn nữa đối với việc giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần hoá là các cổ
đông không muốn chi trả trợ cấp một lần cho những lao động này vì sợ giảm cổ tức
của mình.Có thể nhận thấy rằng các chế độ giải quyết lao động dôi dư tuy đã được
Nhà nước quan tâm song chủ yếu mới tập trung vào mục tiêu giải quyết cho người
lao động rời khỏi doanh nghiệp mà chưa chú ý đến việc tạo điều kiện và cơ hội cho
lao động dôi dư tìm việc làm mới, để người lao động yên tâm khi rời khỏi doanh
nghiệp. Vì vậy, để tháo gỡ những vướng mắc này, Nhà nước cần có chính sách để
xử lý lao động dôi dư, có nguồn tài chính để thực hiện chính sách này trước khi cổ
phần hoá.
* Một số giải pháp trước mắt nhằm giải quyết lao động dôi dư sau cổ phần
hoá
- Chính sách đối với người lao động phải phù hợp với thực tế, quyền lợi cần
được bảo đảm, nhất là đối tượng lao động không bố trí được việc làm được hưởng
các quyền lợi như: được mua cổ phần ưu đãi, hưởng quỹ phúc lợi khen thưởng còn
dư tại thời điểm cổ phần hoá công bằng như những người lao động tiếp tục được
làm việc tại công ty cổ phần, chế độ bảo hiểm xã hội được hưởng theo thời gian đã
đóng.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 20
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
- Cần có chính sách kích cầu lao động như hỗ trợ vốn ban đầu cho những người
kinh doanh nhỏ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các chương trình tạo
công ăn việc làm cho người lao động, xuất khẩu lao động, qua đó giảm sức ép về
dư thừa lao động, chuyển dịch lao động dư thừa ở doanh nghiệp sau cổ phần hoá
sang khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt chính sách
giảm cung về lao động, bao gồm các chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình,
chính sách di dân sang khu vực ít bị sức ép dư thừa lao động.
- Công ty khi cổ phần hoá phải luôn luôn kịp thời cập nhật các thông tin, văn bản
pháp quy của Nhà nước quy định cho các doanh nghiệp cổ phần để thực hiện cho
đúng quy định của pháp luật và điều hành công ty được tốt đồng thời bảo đảm
được quyền lợi của người lao động và các cổ đông. Cần thu thập thông tin, học hỏi
kinh nghiệm kinh nghiệm tốt, các mô hình hay của các doanh nghiệp đã thực hiện
cổ phần hoá về giải quyết lao động dôi dư để phổ biến cho người lao động hiểu rõ
hơn các chế độ chính sách Thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra, giám sát
việc thực hiện chính sách đối với người lao động để kịp thời ngăn chặn tình trạng
thực hiện không đúng theo quy định của pháp luật. Các doanh nghiệp cần chủ động
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc theo đặc thù riêng của mỗi doanh nghiệp.
- Công ty cần thực hiện các biện pháp tăng cường tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng
cho người lao động và cán bộ quản lý công ty về quyền của cổ đông, của các cơ
quan quản lý trong công ty, trình tự, thủ tục thông qua các quyết định quan trọng
của công ty nhằm làm cho cổ đông nắm được các quy định pháp lý, tránh tình
trạng xung đột trong nội bộ công ty hay là chủ “hình thức” của các cổ đông nhỏ
trong công ty sau chuyển đổi do không hiểu pháp luật để đảm bảo hiệu quả hoạt
động của công ty sau CPH.
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 21
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
- Phát huy dân chủ, tinh thần chủ động, sáng tạo, đảm bảo quyền lợi, trách
nhiệm của người lao động và cổ đông trong công ty. Người lao động nắm cổ phần
của công ty với tư cách là người chủ doanh nghiệp nên hành vi của họ cần được
khích lệ. Con đường căn bản để phát huy đầy đủ tính tích cực của người lao động
là chủ động tạo điều kiện cho họ tham gia vào việc phân phối quyền sở hữu tài sản
của công ty. Cụ thể là thông qua mối quan hệ giữa cống hiến lao động, thù lao lao
động của người lao động với hiệu quả kinh doanh của công ty. Làm cho họ đồng
thời trở thành người lao động và người chủ sở hữu của doanh nghiệp, thực hiện sự
thống nhất hữu cơ giữa nhân lực và tài lực.
- Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn trong việc giải quyết lao động dôi dư,
vì tổ chức công đoàn thực hiện những công việc như: tổ chức tuyên truyền cho
người lao động, cổ đông về chủ trương của Đảng và Nhà nước về cổ phần hoá, các
chế độ chính sách đối với công ty cổ phần để người lao động hiểu rõ mục đích, yêu
cầu, quyền lợi, trách nhiệm của người lao động nhằm tạo ra sự nhất trí cao trong
công ty để thực hiện đạt kết quả tốt.
Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi đang từng bước được thực hiện theo
đúng quy định của Bộ luật Lao động và có sự cải thiện ở một số khu vực. Nhiều
doanh nghiệp, cơ quan tổ chức đã có những giải pháp tích cực để bảo đảm thời giờ
làm việc, thời giờ nghỉ ngơi cho người lao động. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều doanh
nghiệp vi phạm quy định về thời giờ làm việc, buộc người lao động phải làm từ 10
đến 12 giờ/ngày, thậm chí không trả lương làm thêm giờ, không giải quyết chế độ
nghỉ bù. Trong nhiều trường hợp người lao động làm việc quá sức, đã bị ngất tại
nơi làm việc hay phải đi cấp cứu tại các trung tâm y tế. Tình trạng làm thêm giờ
liên tục, số giờ làm thêm quá 200 giờ/năm phổ biến ở các doanh nghiệp sử dụng
lao động thời vụ, lao động với hợp đồng ngắn hạn và ở các doanh nghiệp làm hàng
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 22
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
gia công dệt may, giày da, chế biến thủy sản. Hiện tình trạng nợ đọng, không đóng,
hay trốn bảo hiểm xã hội đang diễn ra khá phổ biến. Tính đến tháng 6-2009, số
tiền các doanh nghiệp nợ BHXH lên tới 2.000 tỷ đồng, ảnh hưởng đến quyền lợi
của người lao động. Qua số liệu phân tích từng năm cho thấy, tình hình đình công
đã xảy ra trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, số vụ đình công trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn chiếm tỷ lệ cao nhất. Hầu hết các cuộc đình
công đều xảy ra có mục đích kinh tế và thuộc phạm vi quan hệ lao động, không do
công đoàn cơ sở lãnh đạo và chưa bảo đảm đúng trình tự theo quy định của pháp
luật. Tuy nhiên, khi có đình công xảy ra, tổ chức công đoàn luôn luôn có mặt sớm
nhất để tham gia giải quyết. Nguyên nhân chủ yếu của các cuộc đình công đều do
người sử dụng lao động vi phạm các quy định của pháp luật lao động và các cam
kết, thỏa thuận với người lao động: chậm trả lương, phạt lương, trốn đóng bảo
hiểm y tế, không bảo đảm điều kiện an toàn vệ sinh lao động, sa thải hay đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với người lao động Một
số cuộc đình công còn có nguyên nhân do người lao động bị xúc phạm danh dự,
nhân phẩm. Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân do một bộ phận người lao động trình
độ chuyên môn tay nghề chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, nhận thức pháp luật còn hạn chế, chưa hình thành tác phong công nghiệp
trong lao động sản xuất. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật lao
động chưa thường xuyên, chế tài và biện pháp xử lý vi phạm pháp luật lao động
chưa nghiêm minh. Quy định của pháp luật còn thiếu chặt chẽ và chưa đồng bộ.
Trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát
triển, đồng thời với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, quan hệ lao động đã có
những diễn biến mới phức tạp, đòi hỏi tổ chức công đoàn phải đổi mới nội dung và
phương pháp hoạt động để thực hiện hiệu quả Nghị quyết T.Ư 6 của Đảng và thực
hiện tốt ba chức năng của tổ chức công đoàn, trong đó chức năng bảo vệ quyền, lợi
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 23
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
ích hợp pháp của người lao động có vị trí trung tâm, quan trọng. Để làm tốt chức
năng này, trong thời gian tới các cấp công đoàn cần làm tốt các nhiệm vụ sau đây:
Đại diện, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, công
nhân, viên chức, lao động: Chủ động tham gia xây dựng và kiểm tra, giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật liên quan trực tiếp đến công nhân, viên chức, lao
động. Trước mắt là chính sách về nhà ở, đặc biệt là nhà ở cho công nhân các khu
công nghiệp và công nhân, viên chức, lao động có thu nhập thấp; chính sách bảo
đảm việc làm, tiền lương, thu nhập, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, xây dựng nhà
trẻ, mẫu giáo và các thiết chế văn hóa phục vụ công nhân lao động. Nghiên cứu,
kiến nghị và tham gia sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật
Bảo hiểm xã hội; quy định pháp luật về thực hiện quy chế dân chủ trong các doanh
nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; chính sách,
pháp luật về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động, bảo vệ môi
trường; chính sách đối với lao động nữ; chính sách đào tạo, đào tạo lại nghề cho
công nhân; chính sách khuyến khích công nhân tự học tập nâng cao trình độ học
vấn, tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ; chính sách đãi ngộ đặc biệt đối
với công nhân có sáng kiến, có tay nghề cao. Phối hợp chặt chẽ với người sử dụng
lao động tổ chức thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở: Tổ chức Đại hội công
nhân, viên chức, Hội nghị cán bộ, công chức, Hội nghị người lao động bảo đảm
thiết thực, hiệu quả. Hướng dẫn, giúp đỡ công nhân, lao động giao kết Hợp đồng
lao động. Đại diện tập thể người lao động đối thoại, thương lượng, ký kết và tổ
chức thực hiện Thỏa ước lao động tập thể với nội dung quy định có lợi hơn cho
người lao động; đẩy mạnh việc ký Thỏa ước lao động tập thể cấp tổng công ty, tiến
tới thực hiện ký Thỏa ước lao động tập thể cấp ngành nghề toàn quốc. Chủ động
tham gia sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà
nước, bảo đảm việc làm cho người lao động và thực hiện đầy đủ chính sách đối với
GVHD: Trần Thị Thúy Hằng Lớp: CDQT13TH
SVTH : Nhóm 04 Trang 24
Quyền lợi của người lao động trong các doanh nghiệp cổ phần hóa
lao động dôi dư theo quy định của Nhà nước: Hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ công
đoàn cơ sở tham gia với người sử dụng lao động xây dựng thang bảng lương, định
mức lao động; vận động công nhân mua và giữ cổ phần trong các doanh nghiệp cổ
phần hóa Phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, tổ chức thực
hiện các biện pháp xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ, phòng
ngừa tranh chấp lao động, đình công tự phát tại doanh nghiệp: Hướng dẫn, chỉ đạo
công đoàn cơ sở hay thay mặt tập thể lao động thực hiện quyền tổ chức, lãnh đạo
đình công theo thủ tục, trình tự pháp luật; tổ chức thực hiện có hiệu quả việc tham
gia tố tụng các vụ án lao động nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công nhân,
lao động. Tích cực tham gia thực hiện Chương trình Quốc gia về an toàn lao động,
vệ sinh lao động, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định về
bảo hộ lao động: Tiếp tục kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm
công tác bảo hộ lao động của công đoàn các cấp. Đổi mới tổ chức, nâng cao năng
lực nghiên cứu và ứng dụng của Viện Nghiên cứu Khoa học kỹ thuật Bảo hộ lao
động. Tăng cường chỉ đạo, thực hiện công tác bảo hộ lao động ở những ngành
nghề, địa phương trọng điểm, doanh nghiệp có đông công nhân, lao động thường
xuyên phải làm việc ở nơi có nguy cơ cao xảy ra tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp.
IV. Một số giải pháp đảm bảo quyền lợi của người lao động trong các doanh
nghiệp cổ phần hóa
1.Có chính sách ưu đãi đối với người lao động nghèo.
Đa số người lao động trong các doanh nghiệp còn rất khó khăn, một phần không
nhỏ trong số họ rất nghèo, không có tiền mua cổ phần khi doanh nghiệp thực hiện
cổ phần hóa. Để bảo đảm quyền lợi về kinh tế, chính trị cho người lao động nghèo