echxanhdethuong17
New Member
Download miễn phí Đề tài Thực trạng chi trả các chế độ BHXH tại BHXH thành phố Việt Trì - Tỉnh Phú Thọ
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
I- Sự cần thiết khách quan và vai trò của Bảo hiểm xã hội.
1. Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm xã hội.
2. Vai trò của Bảo hiểm xã hội.
II- Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội
1. Bảo hiểm xã hội trên thế giới
1.1- Phạm vi đối tượng
1.2- Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội
1.3- Điều kiện hưởng, chế độ hưởng bảo hiểm xã hội
1.4- Quỹ bảo hiểm xã hội
1.5- Quản lý quỹ bảo hiểm xã hội
2. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam
2.1- Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
2.2- Hệ thống tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm xã hội qua
các thời kỳ
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU- CHI QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ- TỈNH PHÚ THỌ.
I- Vài nét về Bảo hiểm xã hội thành phố Việt Trì
II- Tình hình thu Bảo hiểm xã hội
1. Giai đoạn trước 1995
2. Giai đoạn từ 1995 đến nay
III- Tình hình chi bảo hiểm xã hội
1.Tình hình chi Bảo hiểm xã hội giai đoạn trước 1995
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-swf-2015-08-20-de_tai_thuc_trang_chi_tra_cac_che_do_bhxh_tai_bhxh_thanh_pho.2E4sTKDCWU.swf /tai-lieu/de-tai-thuc-trang-chi-tra-cac-che-do-bhxh-tai-bhxh-thanh-pho-viet-tri-tinh-phu-tho-81500/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
b- Giai đoạn 1961- 1987:
Sau khi hoà bình lập lại, ở Miền Bắc thi hành điều 32 Hiến pháp năm 1959, Chính phủ ta đã ban hành điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công chức, viên chức Nhà nước (theo Nghị định 218/CP ngày 27 tháng 12 năm 1961) và được áp dụng từ năm 1962, theo đó các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm 6 chế độ như đã nêu phần trên. Để có nguồn chi cho các chính sách bảo hiểm xã hội đã được ban hành Chính phủ ta đã quy định chế độ trích lập quỹ bảo hiểm xã hội là 4,7% tổng quỹ lương của công nhân viên chức Nhà nước do các cơ quan, xí nghiệp Nhà nước trích nộp hàng tháng.
b- Giai đoạn 1988- 1992:
Trước tình hình quỹ bảo hiểm xã hội trong thời kỳ 1976- 1987 có nhiều tồn tại và chưa phù hợp với tình hình thực tế của nền kinh tế xã hội. Sang đầu thập kỷ 80 Nhà nước ta đã có quyết định đột phá trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội. Theo quyết định số 181/HĐBT ngày 30 tháng 10 năm 1986 của Hội đồng Bộ trưởng đã quyết định nâng mức đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội do Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lý từ 3,7% quỹ lương lên 5%. Năm 1988 Chính phủ quy định mức thu bảo hiểm xã hội cho các chế độ bảo hiểm xã hội do Bộ Lao động thương binh và xã hội quản lý là 10% quỹ tiền lương do cơ quan, xí nghiệp Nhà nước trích nộp, nhưng sau đó do cuộc sống của công nhân viên chức Nhà nước có nhiều khó khăn nên trích lại 2% trong tổng số 10% từ tổng quỹ lương để chi trợ cấp khó khăn cho cán bộ công nhân viên chức Nhà nước. Như vậy thu bảo hiểm xã hội để chi trả 6 chế độ bảo hiểm xã hội do cơ quan quản lý từ năm 1988 là 13% tổng quỹ tiền lương. Mục đích của việc nâng tỷ lệ đóng góp là nhằm giảm bớt một phần trợ giúp của ngân sách Nhà nước cho quỹ bảo hiểm xã hội trong việc thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội.
c- Giai đoạn từ 1993 đến nay:
Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới nền kinh tế đất nước theo hướng kinh tế thị trường, chuyển từ hình thức “Đơn sở hữu” sang hình thức “Đa sở hữu” từ nền kinh tế với sự độc quyền của thành phần kinh tế Nhà nước sang nền kinh tế nhiều thành phần nhằm khuyến khích, tận dụng, phát huy mọi năng lực sản xuất trong xã hội. Cho đến giai đoạn này công cuộc đổi mới của đất nước đã thu được rất nhiều kết quả tốt đẹp và ngày càng đi vào chiều sâu, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng phát triển và thu hút lao động vào làm việc ngày càng đông.
Trong khu vực quốc doanh, Nhà nước chủ trương xoá bỏ dần chế độ bao cấp với các thành phần kinh tế quốc doanh và thực hiện cơ chế hạch toán kinh doanh trên nguyên tắc “Lời ăn lỗ chịu”, mở rộng thế chủ động trong kinh doanh cho các doanh nghiệp và buộc các doanh nghiệp phải hoàn thành đầy đủ các chỉ tiêu chất lượng với Nhà nước trên cơ sở đảm bảo đời sống cho người lao động, nếu không đáp ứng được các yêu cầu trên buộc phải giải thể hay chuyển hướng kinh doanh.
Đối với các quỹ ngân sách, Nhà nước chủ trương chỉ tiếp tục bao cấp với các quỹ có ý nghĩa sống còn về an ninh quốc gia, giảm dần trợ cấp các quỹ danh cho y tế, giáo dục. Các quỹ thuộc ngân sách Nhà nước buộc phải tách ra thực hiện chế độ tự đảm bảo thu- chi và Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần khi gặp khó khăn không thể khắc phục được hay để giải quyết những vấn đề là hậu quả của quá khứ. Quỹ bảo hiểm xã hội thuộc diện này.
Trước yêu cầu phải đổi mới các chính sách bảo hiểm xã hội cho phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội trong điều kiện mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định 43/CP ngày 22 tháng 6 năm 1993 quy định tạm thời các chế độ bảo hiểm xã hội, sau đó là Nghị định 12/CP ngày 26 tháng 01 năm 1995 về việc ban hành Điều lệ bảo hiểm xã hội, Nghị định 19/CP ngày 16 tháng 02 năm 1995 về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Theo điều lệ bảo hiểm xã hội mới này thì các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm: Chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ trợ cấp tử tuất. Như vậy là đã bỏ đi chế độ trợ cấp mất sức lao động vốn đã bộc lộ nhiều tiêu cực và không còn giữ được mục đích ý nghĩa ban đầu của nó nữa.
Về đối tượng bảo hiểm xã hội điều lệ quy định gồm có:
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên, hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên.
- Người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hay các tổ chức quốc tế khác tại Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hay tham gia có quy định khác.
- Người lao động làm việc trong các tổ chức liên doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc các lực lượng vũ trang.
- Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
- Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện.
- Những đối tượng trên được gọi chung là người lao động. Điều lệ cũng quy định quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành do người lao động và người sử dụng lao động đóng góp, ngân sách Nhà nước đóng và hỗ trợ, lãi hoạt động bảo tồn tăng trưởng quỹ và thu khác. Mức đóng góp của các bên vào quỹ bảo hiểm xã hội và việc sử dụng quỹ được quy định như sau:
- người lao động hàng tháng đóng 5% tiền lương vào quỹ bảo hiểm xã hội để thực hiện chế độ hưu trí, tử tuất.
- Người sử dụng lao động hàng tháng đóng 15% tổng quỹ tiền lương vào quỹ bảo hiểm xã hội. Trong đó: 10% để thực hiện các chế độ hưu trí, tử tuất; 5% để thực hiện chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp.
2.2- Hệ thống tổ chức quản lý quỹ bảo hiểm xã hội qua các thời kỳ:
Hệ thống chính sách chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam được hình thành và phát triển từ năm 1962 với mục đích hỗ trợ cho người lao động (những người tham gia bảo hiểm xã hội) khi họ gặp những rủi ro bất khả kháng. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau mà bảo hiểm xã hội mới chỉ thu hút được một bộ phận nhỏ người lao động gồm những người làm việc trong các khu vực Nhà nước và lực lượng vũ trang.
Về bộ máy quản lý và thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam có thể chia làm 02 thời kỳ lớn:
- Giai ...