daigai

Well-Known Member
B- NỘI DUNG THẢO LUẬN.
I. CƠ SỞ LÍ THUYẾT.
1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của ngân sách nhà nước.
1.1. Khái niệm và đặc điểm của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế mang tính chất lịch sử, nó phản ánh
những mặt nhất định của các quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực phân phối sản phẩm xã
hội và được sử dụng như một công cụ thực hiện các chức năng của Nhà nước. Sự
ra đời và tồn tại của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với sự ra đời và tồn tại của
Nhà nước và sự xuất hiện của sản xuất hàng hoá. Khi nhà nước ra đời, để đảm bảo
cho sự tồn tại của mình, Nhà nước đã đặt ra chế độ thuế khoá bắt toàn dân phải
cống nạp, các khoản thu này hình thành nên quỹ tiền tệ của Nhà nước và nó được
sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Thuật ngữ “ngân sách nhà nước” có từ lâu và được dùng phổ biến trong đời sống
kinh tế xã hội. Song hiểu thế nào là ngân sách nhà nước thì có nhiều quan niệm
khác nhau, hiện nay có hai quan niệm phổ biến về ngân sách nhà nước. Quan niệm
thứ nhất cho rằng: Ngân sách nhà nước là bản dự toán thu chi tài chính của Nhà
nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm. Quan niệm thứ hai
cho rằng: Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ của Nhà nước. Các quan niệm trên về
ngân sách nhà nước đã lột tả được mặt cụ thể, mặt vật chất của ngân sách nhà
nước, nhưng chưa thể hiện được nội dung kinh tế xã hội của ngân sách nhà nước.
Trong thực tế, nhìn bề ngoài hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động thu chi tài
chính của Nhà nước. Hoạt động đó được biểu hiện một cách đa dạng và phong phú,
được tiến hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế xã hội.
Tuy vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung như sau:
- Các hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực kinh
tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất
định.
- Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó chứa đựng nội dung kinh tế xã hội
nhất định, chứa đựng những quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định. Trong các
quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích tổng thể bao giờ cũng được đặt lên hàng
đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong hoạt động của ngân sách nhà nước.
Khái niệm ngân sách nhà nước không chỉ biểu hiện các quan hệ sản xuất nhất định,
mà còn có sự thể hiện vật chất hoá. Sự vật chất hoá các quan hệ ngân sách được
biểu hiện ở quỹ tiền tệ của Nhà nước. Đằng sau các con số phản ánh khối lượng
của ngân sách là quá trình phân phối hiện thực. Đó chính là tính hai mặt của phạm
trù kinh tế - mặt chất lượng và mặt số lượng. Quỹ tiền tệ của Nhà nước - ngân sách
nhà nước - cũng có những đặc trưng chung như các quỹ tiền tệ khác được tạo lập
trên cơ sở các quan hệ tài chính, được chia thành nhiều quỹ có tác dụng riêng và
chỉ sau đó ngân sách mới được chi dùng cho những mục đích đã định trước.
Từ những đặc điểm trên ta có thể đi đến khái niệm ngân sách nhà nước như sau:
Ngân sách nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các
chủ thể trong xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập
trung quan trọng nhất của Nhà nước - quỹ ngân sách - nhằm đảm bảo cho việc
thực hiện các chức năng của Nhà nước về mọi mặt.
1.2. Vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá - tiền tệ phát triển ở giai đoạn cao. Sự vận
hành của nền kinh tế chịu sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan như:
quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ đã bộc lộ những ưu
thế cũng như những khuyết tật của kinh tế thị trường. Để hạn chế và khắc phục
những khuyết tật đó, Nhà nước can thiệp vào quá trình vận hành của nền kinh tế là
một đòi hỏi khách quan để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định. Sự can
thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường là sự can thiệp gián tiếp thông qua
các công cụ chủ yếu như: pháp luật, kế hoạch, tổ chức, tài chính,tiền tệ trong đó
ngân sách nhà nước được coi là công cụ quan trọng nhất của Nhà nước. Vai trò
quan trọng đó của ngân sách nhà nước được thể hiện trên các mặt như sau:
- Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước.
Đây là vai trò truyền thống của ngân sách nhà nước trong mọi mô hình kinh tế, nó
gắn chặt với các chi phí của Nhà nước trong quá trình tồn tại và thực hiện nhiệm
vụ của mình. Mối quan hệ hữu cơ giữa Nhà nước với ngân sách được C.Mác tổng
kết như sau: “Sức mạnh chuyên chính của Nhà nước được quyết định bởi ngân
sách và ngược lại”.
-Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Vai trò này xuất phát từ yêu cầu khắc phục những khuyết tật vốn có của nền kinh
tế thị trường. Vai trò này được thể hiện trên các mặt như sau:
Thứ nhất, ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế
mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
Để khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, Nhà nước phải hướng
hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà Nhà nước đã hoạch
định, để hình thành nên cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát
triển ổn định và bền vững. Thông qua công cụ là ngân sách nhà nước đảm bảo
cung cấp kinh phí để Nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các
doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế. Việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp nhà nước là một trong những biện
pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng
cạnh tranh không hoàn hảo. Mặt khác, trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh
phí ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh
nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hay chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu
mối hợp lý hơn. Ngoài ra, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế,
ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc
hạn chế sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị
trường,bình ổn giá cả, chống lạm phát.
Trong nền kinh tế thị trường, sự biến động giá cả có nguyên nhân từ sự mất cân đối
cung cầu. Bằng công cụ thuế, phí, lệ phí, vay và chính sách chi tiêu của ngân sách
nhà nước, Nhà nước có thể tác động vào khía cạnh cung hay cầu để bình ổn giá
cả. Đặc biệt sự hình thành quỹ dự phòng trong ngân sách nhà nước để đối phó với
sự biến động của thị trường đóng vai trò quan trọng để bình ổn giá cả. Mặt khác,
hoạt động thu – chi của ngân sách nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề
lạm phát. Lạm phát là căn bệnh nguy hiểm đối với nền kinh tế và chống lạm phát
là một nội dung quan trọng trong quá trình điều chỉnh thị trường. Nguyên nhân gây
ra và thúc đẩy lạm phát có nhiều và xuất phát từ nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh
vực thu chi tài chính của Nhà nước. Do đó, bằng các biện pháp đúng đắn trong quá
trình thu-chi của ngân sách nhà nước như: thắt chặt và nâng cao hiệu quả các
khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước, tăng thuế tiêu dùng, giảm thuế đối với đầu
tư , Nhà nước có thể hạn chế và kiểm soát lạm phát.
- Ngân sách nhà nước là công cụ điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh tế
và các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo công bằng xã hội.
Từ năm 1986 nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước với mục tiêu xây
dựng một xã hội thịnh vượng, công bằng và văn minh. Nhưng nền kinh tế thị
trường với khuyết tật vốn có của nó là phân hoá giai cấp, phân hoá giàu nghèo. Do
vậy, để đạt được mục tiêu mà Đảng đã đề ra, Nhà nước phải sử dụng công cụ ngân
sách để điều tiết thu nhập, giảm bớt khoảng cách về thu nhập giữa các tầng lớp
trong xã hội. Việc điều tiết này được thực hiện thông qua hoạt động thu chi ngân
sách.
Thông qua hoạt động thu ngân sách, dưới hình thức kết hợp thuế gián thu và thuế
trực thu Nhà nước điều tiết bớt một phần thu nhập của tầng lớp có thu nhập cao
trong xã hội, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm, đảm bảo thu nhập chính đáng
của người lao động. Mặt khác, thông qua hoạt động chi ngân sách dưới hình thức
các khoản cấp phát, trợ cấp trong các chính sách về dân số kế hoạch hoá gia đình,
về bảo trợ xã hội, về việc làm Nhà nước hỗ trợ để nâng cao đời sống của tầng lớp
người cùng kiệt trong xã hội.
Tuy nhiên trong điều kiện ngân sách nhà nước còn eo hẹp, việc giải quyết các vấn
đề xã hội chưa thể thực hiện một cách triệt để, vấn đề này phải thực hiện theo
phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
2. Các chính sách thu ngân sách nhà nước.
2.1. Khái niệm, đặc điểm và cơ cấu thu ngân sách nhà nước.
- Khái niệm : Thu ngân sách nhà nước là hệ thống các quan hệ phân phối phát sinh
trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị tập trung các nguồn lực tài
chính trong xã hội để hình thành quỹ tiền tập trung quan trọng nhất của Nhà nước
- Đặc điểm :
+ Thu ngân sách nhà nước thực chất là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia giữa
Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội dựa trên quyền lực của Nhà nước nhằm
giải quyết hài hoà các mối quan hệ về lợi ích kinh tế . Sự phân chia đó là 1 tất yếu
quan xuất phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước và thực hiện
các chức năng của Nhà nước
+ Thu ngân sách nhà nước gắn chặt với thực trạng kinh tế và sự vận động của các
phạm trù như giá cả, thu nhập, lãi suất Chỉ tiêu quan trọng biểu hiện thực trạng
của nền kinh tế là tổng sản phẩm quốc nội (GDP). GDP là yếu tố khách quan quyết
định mức động viên của thu ngân sách nhà nước
-Cơ cấu thu ngân sách nhà nước bao gồm :
+ Thu trong cân đối ngân sách là các khoản thu nằm trong hoạch định của Nhà
nước nhằm cân đối ngân sách. Các khoản này gồm : thuế, lệ phí, lợi tức của Nhà
nước, thu tiền bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, và các khoản thu
khác.
+Thu ngoài cân đối ngân sách hay còn gọi là thu bù đắp thiếu hụt ngân sách.
Thu bù đắp thiếu hụt ngân sách thực chất là vay để bù đắp, bao gồm vay trong
nước và vay nước ngoài. Vay trong nước được thực hiện thông qua việc phát hành
công trái quốc gia, trái phiếu chính phủ…để huy động tiền nhàn rỗi trong các tầng
lớp dân cư. Vay nước ngoài được thực hiện thông qua vay nợ hay viện trợ Chính
phủ, các tổ chức tài chính quốc tế.
2.2. Nội dung kinh tế của thu ngân sách nhà nước.
2.2.1. Thu thuế.
- Thuế là sự đóng góp theo nghĩa vụ đối với Nhà nước được quy định bởi pháp luật
do các pháp nhân và thể nhân thực hiện.
- Thuế mang tính bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp. Thuế được nhà nước áp đặt
bằng quyền lực chính trị, được thể chế hoá bằng luật pháp, cho nên mọi tổ chức
phải chấp hành nghiêm chỉnh, nếu không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà
nước tức là phạm luật và sẽ bị xử lý theo pháp luật. Tính bắt buộc của thuế được
giải thích bởi mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân, mọi tổ
chức đối với Nhà nước. Thuế không hoàn trả trực tiếp ngang cho cho người nộp
thuế, một phần số thuế đã được nộp cho ngân sách nhà nước được hoàn trả một
cách gián tiếp cho người nộp thuế dưới những hưởng thụ về giáo dục, y tế, phúc lợi
công cộng và an ninh quốc phòng… Tất cả mọi công dân đều được hưởng các dịch
vụ công cộng đó như nhau cho dù nghĩa vụ đóng góp có thể khác nhau.
- Thuế được thiết lập dựa trên nguyên tắc luật định nên mọi sự thay đổi hay bổ
sung phải được đưa ra để bàn bạc tại cơ quan lập pháp và phải được chính cơ quan
này phê chuẩn thì mới được áp dụng
- Thuế làm chuyển đổi quyền sở hữu từ sở hữu tập thể và cá thể thánh sở hữu toàn
dân. Việc chuyển quyền sở hữu này được quyết định bởi chức năng quản lí toàn bộ
nền kinh tế quốc dân của Nhà nước và biểu hiện sự thống nhất về lợi ích giữa Nhà
nước với các thành phần kinh tế, các cá nhân trong xã hội.
- Trong nền kinh tế thị trường, thuế được coi là công cụ quan trọng để điều tiết vĩ
mô nền kinh tế, là nguồn thu quan trọng và chủ yếu của ngân sách nhà nước, góp
phần điều chỉnh nền kinh tế, kích thích tích luỹ tư bản, định hướng sản xuất và tiêu
dùng. Thuế là công cụ phân phối lại lợi tức, làm gia tăng trong tiết kiệm tư nhân và
đảm bảo công bằng trong xã hội
2.2.2. Lệ phí.
- Lệ phí là một khoản thu mang tính chất bắt buộc, nhưng có tính chẩt đối giá,
nghĩa là lệ phí là một khoản tiền mà dân chúng trả cho Nhà nước khi họ hưởng thụ
những dịch vụ do Nhà nước cung cấp.
- So với thuế, tính pháp lý của lệ phí thấp hơn. Lệ phí do cơ quan hành pháp ban
hành, mang tính quyền lực của Nhà nước, mang tính chất hoàn trả trực tiếp cho
người nộp. Lệ phí là một khoản thu mang tính chất bù đắp, mức thu lệ phí được đặt
ra trên cơ sở đáp ứng yêu cầu bù đắp chi phí của các dịch vụ công cộng của Nhà
nước. Quản lý tốt các khoản thu lệ phí có tác dụng tăng thu cho ngân sách nhà
nước và giảm bớt gánh nặng chi ngân sách trong việc tạo ra các dịch vụ công cộng.
2.2.3. Thu từ lợi tức cổ phần nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, hình thức cấp vốn trực tiếp từ ngân sách cho các
doanh nghiệp, cho dù đó là doanh nghiệp nhà nước, đã bị thu hẹp. Nhà nước thực
hiện đầu tư vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh bằng hình thức mua hay góp
cổ phần được hình thành nên các doanh nghiệp cổ phần mà ở đó Nhà nước với tư
cách là một cổ đông. Khi các doanh nghiệp cổ phần hoạt động kinh doanh có lợi
nhuận, số lợi nhuận đó sẽ được chia cho các cổ đông theo lượng vốn góp và Nhà
nước sẽ có một khoản thu. Trong các doanh nghiệp nhà nước khi hoạt động có lợi
nhuận thì một phần lợi nhuận đó được huy động vào ngân sách nhà nước thông qua
khoản thu về tiền thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước, và mặt bản chất đây chính
là khoản lợi tức thu được từ khoản vốn mà Nhà nước đã đầu tư. Thu lợi tức từ cổ
phần Nhà nước là một nguồn thu chiếm tỷ trọng tương đối trong tổng cơ cấu thu
ngân sách các khoản vốn đã đầu tư vào nền kinh tế
2.2.4. Thu từ bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Khoản thu này mang tính chất thu hồi vốn và một phần mang tính chất phân phối
lại. Khoản thu này vừa có tác dụng tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, vừa có
tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên quốc gia. Khoản thu này bao gồm:
- Thu về bán hay cho thuê tài nguyên thiên nhiên
- Thu về bán tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước nhưng không thuộc nguồn
tài nguyên như bán hay cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước cho tư nhân, cho
nước ngoài.
2.2.5. Thu về từ hợp tác lao động với nước ngoài và thu khác.
Trong xu hướng mở cửa hội nhập, hợp tác lao động giữa các nước ngày càng diễn
ra sôi động, việc xuất khẩu lao động của các nước đông dân tạo nên một khoản thu
cho ngân sách nhà nước. Thực chất khoản tiền này là khoản tiền thu hồi của quốc
gia đã bỏ ra những chi phí ban đầu để bảo vệ, nuôi dưỡng, rèn luyện, đào tạo người
lao động, đồng thời là khoản tiền mà người lao động trích ra từ tiền công của mình
đóng góp cho tổ quốc.
Ngoài các khoản thu trên, còn có các khoản thu khác như : thu từ bán tài sản không
có người nhận, các khoản tiền phạt, tịch thu, các khoản viện trợ không hoàn lại của
chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước.
Thu ngân sách chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội. Trong
thực tế, mức thu ngân sách ở mỗi nước khác nhau cho dù có những tương đồng về
mặt kinh tế, xã hội. Sự khác nhau đó bắt nguồn từ các nhân tố ảnh hưởng sau đây:
- GDP bình quân đầu người: là một chỉ tiêu phản ánh khả năng tăng trưởng và
phát triển của một quốc gia, khả năng tiết kiệm, tiêu dung và đầu tư của một nước.
GDP bình quân đầu người là nhân tố khách quan quyết định mức thu ngân sách
nhà nước, vì vậy khi ấn định mức thu ngân sách, Nhà nước cần căn cứ vào chỉ tiêu
này.
+Khi GDP/người cao - dẫn đến thu ngân sách cao
+Khi GDP/Người thấp - dẫn đến thu ngân sách nhà nước thấp
- Khả năng xuất khẩu nguồn tài nguyên thiên nhiên: Đối với các nước có nguồn
tài nguyên thiên nhiên dồi dào phong phú thì xuất khẩu tài nguyên sẽ đem lại
nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến số
thu của ngân sách
- Tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế: là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của đầu tư phát
triển kinh tế. Tỉ suất doanh lợi là tỉ số giữa kết quả thu đươc trên tổng chi phi bỏ ra.
Tỉ suất doanh lợi trong nền kinh tế càng lớn thì thu NSNN càng lớn. Do vậy, khi
xác định tỷ suất thu ngân sách cần căn cứ vào tỉ suất doanh lợi của nền kin tế để
đảm bảo việc huy động của ngân sách nhà nước không gây khó khăn về mặt tài
chính cho các chủ thể trong xã hội.
- Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước: phụ thuộc vào các yếu tố:
quy mô tổ chức bộ máy nhà nước và hiệu quả hoạt động của bộ máy đó, những
nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước phải đảm nhận trong từng giai đoạn lịch sử,
chính sách sử dụng kinh phí của nhà nước.
Trong điều kiện các nguồn tài trợ khác cho chi phí của nhà nước không có khả
năng tăng lên, việc tăng mức độ chi phí của nhà nước sẽ dẫn đến đòi hỏi thu NSNN
tăng lên.
Tóm lại, để có một mức thu đúng đắn có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần
phải có sự phân tích, đánh giá cụ thể những nhân tố tác động đến nó trong những
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và phải được xem xét một cách toàn diện.
2.4. Nguyên tắc thiết lập hệ thống thu ngân sách nhà nước.
Thiết lập một hệ thống thu ngân sách không chỉ nhằm mục đích đảm bảo nguồn
thu cho ngân sách nhà nước mà còn chứa đựng các mục tiêu kinh tế xã hội khác.
Do đó, việc thiết lập một hệ thống thu ngân sách nhà nước phải dựa trên những
nguyên tắc định hướng nhất định tùy theo những điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi
nước.
2.4.1. Nguyên tắc ổn định và lâu dài:
- Trong điều kiện hoạt động kinh tế bình thường thì phải ổn định mức thu, ổn định
các sắc thuế , không được gây xáo trộn lớn trong hệ thống thuế ; đồng thời tỷ lệ
động viên của ngân sách nhà nước phải thích hợp ,đảm bảo
kích thích nền kinh tế tăng trưởng, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu .
- Đối tượng tính thuế: đối tượng ít có sự biến động.
- Ý nghĩa thực hiện nguyên tắc:tạo thuận lợi cho việc kế hoạch hóa ngân sách nhà
nước, tạo điều kiện kích thích người nộp thuế cải tiến đẩy mạnh hoạt động sản xuất
kinh doanh.
2.4.2. Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng.
- Thiết lập hệ thống thuế phải có quan điểm công bằng đối với người chịu thuế ,
không phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế.
- Việc thiết kế hệ thống thuế chủ yếu dựa trên khả năng thu nhập của người chịu
thuế. Để đảm bảo đươc nguyên tắc công bằng trong thiết kế hệ thống thuế phải kết
hợp sắc thuế trực thu với sắc thuế gián thu.
2.4.3. Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn:
- Nguyên tắc này đòi hỏi trong thiết kế hệ thống thuế các điều luật của các sắc thuế
phải rõ ràng cụ thể ở từng mức thuế, cơ sở đánh thuế, phương pháp tính thuế …
Các từ ngữ được sử dụng của văn bản thông thường, dễ hiểu, không chứa đựng
nhiều hàm ý để tất cả mọi người đều hiểu được và chấp hành giống nhau.
- Giúp cho việc tổ chức chấp hành luật thống nhất ,tránh được tinh trang lách luật,
trốn lậu thuế.
2.4.4. Nguyên tắc đơn giản:
- Nguyên tắc này đòi hỏi trong các sắc thuế cần hạn chế số lượng thuế suất , xác
định rõ mục tiêu chính, không đề ra quá nhiều mục tiêu trong một sắc thuế.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho viêc triển khai luật thuế vào thực tiễn, tránh được
những hiện tượng tiêu cực trong thu thuế.
II. Thực trạng thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Ngày 3/3/2009, Bộ Tài chính cho biết, tổng thu ngân sách nhà nước trong tháng 2
ước đạt hơn 32,6 nghìn tỷ đồng, bằng 80% số thu tháng trước.
Lũy kế thu 2 tháng đầu năm đạt 76.635 tỷ đồng, bằng 16,6% dự toán, tăng 15,8%
so với cùng kỳ năm 2009. So với tiến độ thực hiện dự toán cùng kỳ một số năm
gần đây, số thu 2 tháng đầu năm nay cũng đạt khá.
Trong vòng 7 tháng, tổng thu ngân sách Nhà nước đã đạt được 57% dự toán năm.
Theo Bộ Tài chính, tổng thu ngân sách Nhà nước 7 tháng đầu năm 2009 ước đạt
222.120 tỷ đồng, đạt 57,0% dự toán năm, giảm 10% so với cùng kỳ năm 2008.
Trong đó, thu nội địa ước đạt 59,1% dự toán, giảm 2,8% so với cùng kỳ; thu từ dầu
thô ước đạt 48% dự toán, giảm 37,2% so với cùng kỳ; thu cân đối ngân sách từ
hoạt động xuất nhập khẩu đạt 57,5% dự toán, giảm 5,7% so với cùng kỳ. Tổng thu
ngân sách Nhà nước tháng 7 ước đạt 33.840 tỷ đồng, đạt khá so với mức thực hiện
tháng 6 (tăng gần 5.000 tỷ đồng), nhờ có sự gia tăng số thu nội địa (tăng trên 3.000
tỷ đồng) và thu ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu (tăng khoảng 1.800 tỷ
đồng). Tháng 7 là tháng kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp của quý 2/2009,
đồng thời cũng là thời điểm truy nộp số thuế thu nhập doanh nghiệp quý 4/2008 đã
được giãn hoãn theo chủ trương của Chính phủ. Ước tính số thuế thu nhập doanh
nghiệp phát sinh trong tháng 7 tăng khoảng 4.000 tỷ đồng so với tháng trước.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá tháng 7 tiếp tục tăng so với tháng 6 (tăng khoảng
2%). Riêng về thu dầu thô, giá dầu thô tháng 7 trên thị trường thế giới giảm nhẹ so
với tháng 6, bình quân chỉ đạt 64 USD/thùng. Do có độ trễ trong thanh toán nên
giá dầu tính thu ngân sách Nhà nước tháng 7 ước đạt 67 USD/thùng, nâng mức giá
bình quân 7 tháng đạt 50 USD/thùng. Sản lượng dầu thanh toán 7 tháng đạt 9,4
triệu tấn, bằng 59,2% kế hoạch năm.
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính đến hết tháng 8 đã có hơn 125.000 doanh
nghiệp và 937.000 đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân được hưởng các ưu đãi về
chính sách thuế. Ước tính cả năm, tổng số thuế miễn, giảm lên đến 20.000 tỷ
đồng. Bộ Tài chính cũng tiếp tục rà soát để bãi bỏ các khoản phí và lệ phí khác với
số tiền khoảng 140 tỷ đồng.
Cũng theo báo cáo của Bộ Tài chính, ước thu ngân sách nhà nước cả năm 2009 đạt
390.650 tỷ đồng, bằng 100,2% dự toán (vượt 750 tỷ đồng), đạt tỷ lệ động viên
23,3% GDP, trong đó, từ thuế và phí đạt 21,5%GDP. Thu nội địa đạt 102,9% dự
toán (vượt 6.650 tỷ đồng); Thu từ dầu thô ước đạt 91,1% dự toán (giảm 5.700 tỷ
đồng); Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 98,6% dự toán
(giảm 1.200 tỷ đồng); Thu viện trợ ước đạt 6.000 tỷ đồng (tăng 1.000 tỷ đồng so
với dự toán).
Thứ trưởng thường trực Bộ Tài chính Nguyễn Công Nghiệp: "Tổng thu
NSNN cả năm 2009 đạt 390.650 tỷ đồng". Ảnh: Chí Thanh.
Một điểm đáng lưu ý là thu ngân sách địa phương phân bố không đều, nhiều địa
phương đạt và vượt dự toán, nhưng vẫn có không ít địa phương không hoàn thành
dự toán được giao. Do không điều hoà được số tăng thu ngân sách địa phương từ
địa phương có số thu cao sang địa phương có số thu thấp nên những địa phương
hụt thu so với dự toán sẽ gặp khó khăn trong việc đảm bảo dự toán chi.
“Để khuyến khích các địa phương đã phấn đấu tăng thu, Bộ Tài chính đã báo cáo
Chính phủ và Quốc hội cho xử lý theo hướng: ngân sách Trung ương hỗ trợ chung
cho các địa phương một phần (khoảng 25%) số giảm thu do thực hiện miễn, giảm
thuế. Với những địa phương sau khi đã được hỗ trợ chung như vậy mà vẫn hụt thu
thì yêu cầu địa phương sử dụng một phần các nguồn tài chính hợp pháp (quỹ dự
trữ tài chính, nguồn tiền lương còn dư), trường hợp còn tiếp tục hụt thu thì sẽ được
bù đủ để đảm bảo dự toán chi. Theo đó, số dự kiến bù giảm thu cho các địa
phương khoảng 3.000 tỷ đồng”, Thứ trưởng thường trực Nguyễn Công Nghiệp cho
biết.
Phát biểu tại Hội nghị trực tuyến tống kết công tác năm 2009 và triển khai nhiệm
vụ năm 2010, do Bộ Tài Chính tổ chức ngày 30/11, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng
Thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã đặt ra nhiệm vụ cho ngành tài chính trong năm
2010 là thu ngân sách nhà nước phải vượt 5-10%, trong đó không được tỉnh nào
không hoàn thành thu ngân sách nhà nước năm 2010.
Phó Thủ tướng nêu rõ, mặc dù chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế thế giới, nhưng năm 2009, nền kinh tế Việt Nam vẫn có chuyển
biến tích cực. Tăng trưởng GDP quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng trưởng
3,1%, quý II là 4,5%, quý III đạt 5,8% và quý IV có khả năng đạt 6,8%).
Năm nay, Việt Nam giữ được mức tăng trưởng GDP hơn 5%, có thể đạt 5,2-5,3%.
Đây là một dấu hiệu đáng mừng vì quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước và toàn dân
ngăn chặn đà suy giảm kinh tế đã thành công. Kinh tế vĩ mô ổn định, an sinh xã hội
được bảo đảm
Phó Thủ tướng nhấn mạnh, nhiệm vụ đối với ngành tài chính trong năm 2010 là
cùng với các bộ, ngành, địa phương trong cả nước là tập trung phục hồi đà tăng
trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội.
Đánh giá về việc thực hiện nhiệm vụ tài chính-ngân sách năm 2009, Thứ trưởng
thường trực Bộ Tài chính Nguyễn Công Nghiệp cho biết, dù điều kiện hoạt động
sản xuất-kinh doanh, xuất nhập khẩu gặp nhiều khó khăn do suy thoái kinh tế toàn
cầu song thu ngân sách nhà nước năm 2009 cơ bản đạt dự toán. Trong đó thu nội
địa, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu (chưa tính hoàn thuế giá trị giá tăng) và thu
viện trợ đạt và vượt dự toán; riêng thu từ dầu thô giảm so với dự toán do giá dầu
giảm.
Ngân sách nhà nước đã tập trung nguồn lực để tăng chi đầu tư phát triển (22.700 tỷ
đồng), tăng kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã hội, phát triển kinh tế-xã
hội, quốc phòng, an ninh (26.705 tỷ đồng). Góp phần quan trọng ngăn chặn suy
giảm kinh tế, tạo đà phục hồi tăng trưởng trong năm 2010.
Cho tới ngày 9/6/2010, UBND tỉnh ủy Vĩnh Phúc
tổ chức họp phiên thường kỳ, nhằm đánh giá kết
quả phát triển kinh tế-xã hội 6 tháng đầu năm;
nghe các sở, ngành báo cáo các nội dung trình
HĐND tỉnh khóa XIV, kỳ họp thứ 19 và các nội
dung liên quan khác.
Đồng chí Phùng Quang Hùng, Ủy viên
BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường
trực UBND tỉnh chủ trì hội nghị.
Theo báo cáo về tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm,
kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển ổn định. Tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt
42,56%, trong đó khu vực công nghiệp – xây dựng tăng 37,2%; dịch vụ tăng
60,8%; nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 22,9%. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp
– xây dựng ước đạt 20.565,6 tỷ đồng, tăng 41,1% so với cùng kỳ. Tổng kim ngạch
xuất khẩu ước đạt gần 200 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 710 triệu USD.
Hoạt động tín dụng ngân hàng nhìn chung phát triển ổn định. Ngành du lịch đón
668,2 ngàn lượt khách, doanh thu đạt 450 tỷ đồng.
Sản xuất nông, lâm, nghiêp, thủy sản tăng trưởng cao mặc dù chịu ảnh hưởng của
thời tiết phức tạp, khắc nghiệt. Tổng diện tích gieo trồng vụ Đông xuân năm 2010
đạt 66,7 ngàn ha, năng suất lúa đạt 54,79 tạ/ha, ngô đạt 41,8 tạ/ha; sản lượng lương
thực có hạt ước đạt 236,8 ngàn tấn, tăng 29,6% so với cùng kỳ. Ngành chăn nuôi
phát triển ổn định, công tác quản lý gia súc, gia cầm và phòng chống dịch bệnh
thực hiện tốt nên không có dịch bệnh lớn xảy ra.
6 tháng đầu năm 2010, tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 6.962,9 tỷ đồng,
tăng 79,1% so với cùng kỳ, đạt 68,3% dự toán năm, trong đó thu nội địa ước đạt
4.767,8 tỷ đồng, tăng 46,6% so với cùng kỳ, đạt 54,1% dự toán năm.
Kết luận nội dung này, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, ông Phùng Quang
Hùng cho rằng các chỉ số tăng trưởng 6 tháng đầu năm nay là rất ấn tượng, cao
nhất trong nhiều năm qua. Tuy nhiên một số vấn đề trong phát triển kinh tế-xã hội
còn gặp nhiều khó khăn. Việc xây dựng hạ tầng đất dịch vụ và các khu tái định cư
còn chậm. Nền kinh tế của tỉnh còn nhiều hạn chế, thiếu lao động tay nghề cao, kết
cấu hạ tầng kinh tế chưa đảm bảo yêu cầu phát triển; tình trạng ô nhiễm môi trường
còn phổ biến, nhất là ở khu vực nông thôn; dịch bệnh tiềm ẩn nguy cơ bùng phát.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) luôn tăng nhanh, nguy cơ lạm phát luôn có khả năng
xảy ra…
Đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh đề nghị các cấp, các ngành tạo
mọi điều kiện cho nhà đầu tư giải quyết đình công. Thực hiện tốt vấn đề đất ở, nhà
ở cho nhân dân, đặc biệt là với cán bộ công nhân viên chức. Đẩy mạnh công tác
quản lý và lập quy hoạch; hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của
tỉnh, cấp huyện và quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực đến năm 2020, tầm nhìn
đến năm 2030 trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đẩy nhanh triển khai các dự
án trọng tâm, trọng điểm. Tranh thủ các nguồn lực, đặc biệt từ nguồn vốn ODA và
các nguồn vốn Trung ương. Chủ động kiểm soát dịch bệnh nguy hiểm ở người và
động vật. Tăng cường thanh tra, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, xử lý nghiêm
các trường hợp vi phạm. Đẩy mạnh công tác phòng trừ sâu bệnh, phòng chống lụt
bão…
Hội nghị cũng đã nghe sở Giáo dục và đào tạo báo cáo đề án chuyển đổi các trường
mầm non bán công trên địa bàn; sở Y tế báo cáo chính sách hỗ trợ chi trả chi phí
khám chữa bệnh đối với hộ nghèo; báo cáo đề án tuyên truyền, phổ biến và giáo
dục pháp luật cho lao động và chủ sử dụng lao động trong các doanh nghiệp dân
doanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giai đoạn 2010-2012; sở Tài
chính báo cáo chế độ đón tiếp, thăm hỏi, chúc mừng một số đối tượng do Ủy ban
Mặt Trận Tổ Quốc cấp tỉnh, cấp huyện thực hiện; sửa đổi Nghị quyết số
03/2006/NQ-HĐND quy định về mức thu phí bến phà Then và phà Đức Bác;
Thanh tra tỉnh báo cáo công tác tiếp dân và giải quyết KNTC của công dân 6 tháng
đầu năm; kết quả công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí…
III.Giải pháp để tránh thất thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
1.Nguyên nhân gây thất thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam.
Thất thu ngân sách do rất nhiều nguyên nhân, và có sự ảnh hưởng khác nhau đến
sự cân đối vĩ mô của nền kinh tế. Về cơ bản, tình trạng thất thu ngân sách nhà nước
gồm các nguyên nhân chính sau:
-Thất thu thuế nhà nước:
Thuế là nguồn thu chính và bền vững nhất cho ngân sách nhà nước bên cạnh các
nguồn thu khác như tài nguyên, doanh nghiệp nhà nước, vay, nhận viện trợ…tuy
nhiên, do hệ thống pháp luật ta còn nhiều bất cập, sự quản lí chưa chặt chẽ đã tạo
kẻ hở cho các cá nhân, tổ chức lợi dụng để trốn thuế, gây thất thu một lượng đáng
kể cho ngân sách nhà nước. Điển hình, trong năm 2008, lượng thuốc lá nhập lậu
vào nước ta đã làm thất thu thuế, lấy đi của ngân sách nhà nước 2.500- 3000 tỉ
đồng. Ngoài ra, lượng thuốc lá nhập lậu còn làm chảy máu ngoại tệ của đất nước
khoảng 200 triệu USD/năm, làm gia tăng thất nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển kinh tế.
Bên cạnh đó, việc giãn thuế, giảm thuế và miễn thuế một mặt giúp các doanh
nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư, duy trì và mở rộng sản xuất. Tuy nhiên, việc
miễn thuế, giảm thuế hay chậm thu làm ảnh hưởng tới các khoản chi ngân sách
khác gây thâm hụt ngân sách nhà nước.
-Đầu tư công kém hiệu quả:
Trong năm 2007 và 2008, nước ta đã tiếp nhận một lượng vốn rất lớn từ bên ngoài
nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc
gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế, tình trạng đầu
tư dàn trải gây lãng phí ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ
thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả, đã gây lãng
phí nguồn ngân sách nhà nước và kiềm hãm sự phát triển của các vùng miền, là
nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt ngân sách nhà nước.
Cần đấu thầu dự án sử dụng đất.
Bên cạnh đó, nền hành chính công - dịch vụ của chúng ta quá kém hiệu quả. Chính
sự kém hiệu quả này làm cho tình trạng thâm hụt ngân sách càng trở nên trầm
trọng.
- Nhà nước huy động vốn để kích cầu:
Chính phủ kích cầu qua 3 nguồn tài trợ chính là: Phát hành trái phiếu Chính phủ,
miễn giảm thuế và sử dụng Quỹ dự trữ nhà nước. Sử dụng gói giải pháp kích cầu
một mặt làm kích thích tiêu dùng, tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sẽ làm mức thâm
hụt ngân sách tăng rất cao khoảng 8-12%GDP
-Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên:
Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi
ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ
chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung
từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. Ngân sách địa phương được phân
cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự
toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi
bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi
hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình,
làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách.Để
có nguồn kinh phí hay phải đi vay để duy trì hoạt động hay yêu cầu cấp trên bổ
sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN.
-Quy mô chi tiêu của chính phủ quá lớn:
Tăng chi tiêu của chính phủ một mặt giúp nền kinh tế tăng trưởng tạm thời trong
ngắn hạn, nhưng lại tạo ra những nguy cơ bất ổn lâu dài như lạm phát và rủi ro tài
chính do sự thiếu hiệu quả của các khoản chi tiêu công và thiếu cơ chế giám sát
đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của hệ thống tài chính. Lý thuyết kinh tế không
chỉ ra một cách rõ ràng về hướng tác động chi tiêu của chính phủ đối với tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên đa số các nhà kinh tế thường thống nhất rằng chi tiêu của
chính phủ một khi vượt quá một ngưỡng nào đó sẽ làm cản trở tăng trưởng kinh tế
do gây ra phân bổ nguồn lực một cách không hiệu quả dẫn tới thâm hụt ngân sách
nhà nước và cuối cùng là gây ra lạm phát.
-Bên cạnh đó, sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua còn được sử
dụng như một công cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng
kinh tế:
Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số
thặng dư hay thiếu hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách
chúng ta thường xác định số bội chi trước (thông thường tương đương với mức
Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang
năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một
cách chủ động và điều đó không gây xáo trộn trong chính sách kinh tế vĩ mô,
nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có được sử dụng để chi
đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn
việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương
lai hay không
2. Giải pháp để tránh thất thu ngân sách nhà nước ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
- Giải pháp giảm thất thu ngân sách nhà nước nhờ tổ chức bộ máy thu nộp:
+ Tổ chức bộ máy thu nộp gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, chống thất thu do trốn, lậu
thì sẽ là nhân tố tích cực làm giảm tỉ xuất thu ngân sách nhà nước mà vẫn đảm bảo
nhu cầu chi tiêu của NSNN.
+ Chúng ta cần tập trung cho giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng. Bên cạnh
đó, cần đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và có chính sách đầu
tư phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp phụ trợ.
+ cần đưa nguồn thu từ trái phiếu Chính phủ vào trong ngân sách để có
những tính toán và phân bổ cho phù hợp hơn.
+ Chính phủ cần siết chặt chi tiêu ngân sách, tập trung vốn hoàn thành những dự
án, công trình dở dang, hạn chế khởi công dự án mới, nhất là những dự án có tổng
mức đầu tư lớn.
- Vấn đề nợ công của nước ta hiện nay và giải pháp cho vấn đề nợ công để
tránh thất thu ngân sách nhà nước.
+ Theo báo cáo giám sát của Ủy ban Tài chính - Ngân sách, nợ Chính phủ đang
tăng cao, từ 33,8% GDP năm 2007 lên 36,2% năm 2008, năm 2009 chiếm 41,9%
GDP và sẽ tăng lên 44,6% GDP vào năm nay. Với trách nhiệm của mình, Chính
phủ thấy cần thông báo rằng, chúng ta vẫn đang tiếp tục vay nợ ở mức cao,
chúng ta cần chú ý đến việc này, và phải sử dụng có hiệu quả vốn vay.
+ Công khai và minh bạch hóa các khoản nợ nhà nứơc của các tập đoàn và đảm
bảo nợ công trong mức an toàn.
+ Hoàn thiện khung pháp lý về quản lý nợ công, kiểm soát nợ quốc gia ở ngưỡng
an toàn bằng việc tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý về vốn ODA, vay ưu đãi,
phát hành trái phiếu, quản lý phòng ngừa rủi ro…; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
vay; thu thập, báo cáo, công khai các chỉ tiêu giám sát an toàn nợ; xây dựng quy
chế quản lý rủi ro.
- Chống thất thu ngân sách nhà nước- nhìn từ hoạt động kiểm tra sau thông
quan.
+ Hiện nay, sự phát triển kinh tế-xã hội và việc nước ta tham gia WTO đang đặt ra
cho ngành Hải quan những yêu cầu bức xúc. Đó là phải thông quan nhanh hàng
hoá. Như vậy, kiểm tra sau thông quan không có nghĩa là “thả cửa”, mà việc thông
quan nhanh đòi hỏi ngành Hải quan phải quản lý và kiểm soát được tình hình xuất
nhập khẩu, đảm bảo nguồn thu, chống thất thu hiệu quả cho ngân sách nhà nước.
- Kiểm tra sau thông quan là cách làm hiện đại được hải quan các nước phát triển
áp dụng, nay hải quan Việt Nam đang có những bước tiếp cận và hoàn thiện quy
trình này vào Việt Nam. Hải quan Việt Nam đã và đang chuyển từ “tiền kiểm”
(kiểm tra hàng hoá trước khi thông quan) sang “hậu kiểm” (kiểm tra sau thông
quan); cách làm này cho phép hàng hoá được thông quan nhanh, giảm thời gian lưu
hàng tại cảng, việc kiểm tra sẽ được lựa chọn và thực hiện sau khi hàng hoá đã
thông quan. Đây là xu thế tất yếu của hoạt động hải quan hiện đại mà hải quan Việt
Nam đang hướng tới.
+ Những yếu kém bộc lộ trước tiên là trong khâu kiểm tra xuất xứ. Tại nhiều đơn
vị, cán bộ công chức hải quan còn hạn chế về kiến thức liên quan đến xuất xứ hàng
hoá (mã số mã vạch) nên mắc lỗi rất sơ đẳng, như trên nhãn hiệu, bao bì sản phẩm
hiện xuất xứ của một nước, nhưng C/O lại xác định xuất xứ của một nước khác. Có
trường hợp do hạn chế về hiểu biết của cán bộ hải quan về mặt hàng, công nghệ
sản xuất nên không phát hiện được các nghi vấn về hàm lượng trị giá của thép lá
cán nguội chủ yếu được hình thành từ nguyên liệu và ở công đoạn cán nóng.
+ Kiểm tra ngay, phát hiện sớm gian lận, nhất là về trị giá háng hoá, không để gian
lận lan tràn và khó thu do phát hiện chậm; đẩy mạnh công tác thông tin về doanh
nghiệp, mặt hàng, thủ đoạn gian lận kiểm tra sau thông quan; cung cấp thường
xuyên các diễn biến mới để giúp khâu thông quan kịp thời nhận dạng đối tượng,
ngăn chặn hành vi lợi dụng, gian lận, trốn thuế, đảm bảo quản lý rủi ro có hiệu quả.
Về vấn đề hoàn thiện quy trình kiểm tra sau thông quan, trong năm 2008, Cục
kiểm tra sau thông quan sẽ xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật,
nghiệp vụ về kiểm tra sau thông quan, phân loại đối tượng quản lý, cẩm nang kiểm
tra sau thông quan, tăng cường năng lực thông tin và công nghệ thông tin. Nâng
cao năng lực kiểm soát về giá hàng nhập khẩu cho cán bộ, công chức; làm cho toàn
lực lượng nhạy bén với thông tin về giá, kiểm tra quyết liệt ngay khi có lô hàng
đầu tiên nhập khẩu và Việt Nam có dấu hiệu gian lận về giá. Kiểm tra, xác minh
đến cùng để xác định được giá giao dịch đích thực nhằm ngăn chặn tình trạng gian
lận giá sang các lô hàng khác của doanh nghiệp, chống thất thu thuế hiệu quả cho
ngân sách nhà nước.
- Nguồn thu ngân sách chưa bền vững và giải pháp.
+ Theo những nguồn thu năm 2008 chủ yếu tăng thu là từ giá dầu và tăng thu từ
xuất nhập khẩu, nếu xét nguồn tăng thu này từ sản xuất kinh doanh thể hiện chưa
rõ. Từ đó ta thấy vấn đề thu trong ngân sách vừa qua chưa mang tính bền vững.
+ Năm 2008, Báo cáo kiểm toán nói điều đáng chú ý là nước ta đã thất thu khá
nhiều trong vấn đề thu phí môi trường. Luật bảo vệ môi trường đã quy định nước
ta phải thu phí về chất thải rắn, khí thải, kể cả nước thải, những cơ sở khai thác tài
nguyên khoáng sản cũng phải thu phí môi trường. Mục tiêu có thêm nguồn ngân
sách để bảo vệ môi trường, gồm có công tác thanh tra, kiểm tra, công tác giám sát,
đo đạc tự động các thông số môi trường, đầu tư vào những hạng mục xử lý môi
trường. Nhưng theo Báo cáo kiểm toán nước ta thu không đáng kể, số chi cũng
không đạt.
+ Nước ta thất thu cực kỳ lớn trong việc giao đất, giao rừng, giao mỏ khoáng sản,
đây là những tài sản rất lớn của Nhà nước, của nhân dân.
+ Mỏ, rừng, đất của nước ta là tài nguyên và chúng ta phải đấu giá, phải công khai
và minh bạch chứ không thể theo cơ chế xin cho. Hình thức để thất thu này là thay
vì chúng ta bán, chúng ta bắt trả tiền thì chúng ta qua hình thức cho thuê mỗi năm
lấy một khoản tiền và như vậy doanh nghiệp đã chiếm dụng một lợi nhuận rất lớn.
Vì vậy đòi hỏi phải có biện pháp để nhà nứơc quản lý tốt nguồn tài nguyên này
tránh thất thu NSNN.
 
Các chủ đề có liên quan khác
Tạo bởi Tiêu đề Blog Lượt trả lời Ngày
D Đánh giá thực trạng công tác giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất trên địa bàn quận Hoàng Mai Văn hóa, Xã hội 0
A chính sách thu hút FDI hàn quốc 2000 2012, thực trạng và Bài học kinh nghiệm Việt Nam Luận văn Kinh tế 0
H Thực trạng và giải pháp thu hút FDI của Nhật Bản vào Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2020 Luận văn Kinh tế 2
L Thực trạng công tác thu – chi ở BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn (2003 – 2008) Luận văn Kinh tế 0
V Phân tích thực trạng nguồn khách và biện pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút khách đến khách sạn Hương Giang Luận văn Kinh tế 0
P Thực trạng thu - Chi quỹ BHXH tại phòng BHXH huyện Giao Thuỷ (Nam Định) Luận văn Kinh tế 0
P Thực trạng công tác quản lý tài chính ngân sách xã và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính ngân sách xã và phát triển nguồn thu tại xã Đông Lĩnh Thái Bình Luận văn Kinh tế 2
S Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xã hội hoá hoạt động thu gom chất thải rắn trên địa bàn TP Hà Nội Luận văn Kinh tế 0
B Vai trò của thành phần kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, thực trạng và giải pháp trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư tực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment-FDI) Luận văn Kinh tế 0
T Trình bày phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam: Lý luận, thực trạng và giải pháp Luận văn Kinh tế 0

Các chủ đề có liên quan khác

Top