baby_dieuanh
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
LỜI MỞ ĐẦU
Song hành với sự phát triển của nền kinh tế thế giới là sự phát triển của thương mại hàng hóa với sự tăng lên không ngừng của số lượng giao dịch cũng như khối lượng giao dịch. Vấn đề đặt ra đòi hỏi phải có những cách thanh toán mới nhanh chóng, hiệu quả, tiện lợi và an toàn.
Thẻ thanh toán xuất hiện chính là lời giải cho vấn đề trên. Thẻ là một
phương tiện thanh toán tiên tiến, tiện dụng, thể hiện sự phát triển của
hoạt động thanh toán và đặc biệt là việc
ứng dụng khoa học kỹ
thuật
trong công nghệ ngân hàng. Mặc dù ra đời sau các phương tiện thanh toán khác nhưng thẻ thanh toán ngày càng khẳng định vai trò của nó nhờ vào những vai trò và chức năng ưu việt so với các phương tiện thanh toán khác.
. Công nghệ
thẻ
thanh toán đang ngày càng trở
nên phổ
biến và được
chấp nhận trong nhiều ứng dụng cho cộng đồng và cá nhân.
Ngày nay, thẻ
ngân hàng đã có mặt
ở khắp nơi trên thế giới với
những hình thức và chủng loại đa dạng, đáp của người tiêu dùng.
ứng đầy đủ những nhu cầu
Ở Việt Nam, nền kinh tế ngày một phát triển, đời sống người dân
ngày
càng nâng cao, thêm vào đó là xu thế hội nhập phát triển với nền kinh tế thế
giới, việc xuất hiện của một phương tiện thanh toán mới là rất cần thiết.
Nắm
bắt được nhu cầu này, từ đầu năm 2004, Ngân hàng Quốc tế VIB đã chủ trương đưa dịch vụ thẻ vào ứng dụng tại Việt Nam. Sau gần 7 năm hoạt động trong lĩnh vực này, Ngân hàng Quốc tế VIB đã thu được những thành tựu nhất định. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn gặp không ít những khó khăn để có thể phát triển dịch vụ thẻ trở nên phổ biến ở Việt Nam.Nhận thức được vấn đề này, sau quá trình tìm hiểu về hoạt động thẻ tại Ngân hàng Quốc tế
VIB, chúng em đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp hoạt động thẻ
ngân hàng tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam VIB” làm đề tài cho bài tiểu luận của mình.
PHẦN MỘT
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Giới thiệu chung về thẻ ngân hàng:
Thẻ ngân hàng là một công cụ tín dụng do tổ chức tài chính phát hành và cấp cho khách hàng (gọi là chủ thẻ), trong đó dành quyền cho khách hàng có thể dùng nó nhiều lần để rút tiền mặt cho chính mình hay ra lệnh rút một số hay tất cả số tiền hiện có trên tài khoản mở ở tổ chức phát hành thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị chấp nhận thẻ.
Tiền đề cho sự ra đời của thẻ ngân hàng là những bất lợi trong lưu thông
séc cũng như sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của máy tính và công nghệ
thông tin, viễn thông.
Thẻ được phân loại dựa trên nhiều căn cứ khác nhau. Theo công nghệ sản
xuất thẻ được chia ra bốn loại: thẻ khắc chữ nổi, thẻ từ tính và thẻ thông
minh. Nếu lấy tính chất thẻ
làm căn cứ, có bốn loại thẻ
như
sau: thẻ
tín
dụng, thẻ ghi nợ, thẻ ATM và thẻ Pre-paid. Cách phân loại thứ ba dựa vào
mục đích sử dụng, các loại thẻ bao gồm: thẻ công ty, thẻ du lịch và giải trí. Một cách phân loại khác là theo đối tượng sử dụng, các loại thẻ thường gồm: thẻ chuẩn, thẻ vàng, thẻ bạch kim…
II. Lợi ích và rủi ro khi thanh toán bằng thẻ:
Thẻ ngân hàng mang lại rất nhiều tiện ích cho người tiêu dùng. Chủ thẻ có
thể có thể
tiến hành thanh toán
ở bất cứ nơi đâu mà không cần mang
theo tiền mặt, tránh được rủi ro mất hay bị cướp tiền mặt. Thẻ đồng thời là phương tiện thanh toán khá an toàn và nhanh chóng. Tiền chuyển nhanh chóng giữa người mua và người bán mà không bị giới hạn bởi không gian và thời gian.Chỉ có người biết mã pin thẻ mới sử dụng được thẻ, tức là hạn chế nguy cơ bị lấy trộm thẻ hay rút trộm tiền. Người sử dụng cũng có thể thanh toán từ thẻ sang thẻ, từ thẻ sang tài khoản hay thanh toán hóa đơn tiền điện, nước,
điện thoại, di động, phí bảo hiểm, truyền hình cáp chỉ với một chiếc thẻ
nhựa. Hơn nữa thẻ ngân hàng rất gọn nhẹ, dễ sử dụng nên mọi người, mọi lứa tuổi đều có thể sở hữu một chiếc thẻ.
Bên cạnh đó, thẻ
ngân hàng vẫn còn bộc lộ
khá nhiều điểm thiếu sót.
Trước hết, người sử dụng không thể chuyển nhượng thẻ ngân hàng như các tài sản tài chính khác. Thứ hai, tại Việt Nam, phạm sử dụng thẻ còn khá giới hạn rất nhiều so với tiền mặt. Ngoài ra, ngân hàng gặp phải khó khăn lớn khi chỉ thu được lợi nhuận khi phát huy một số lượng thẻ đủ lớn. Bên cạnh đó, thẻ ngân hàng cũng tiềm ẩn khá nhiều rủi ro. Chính đặc tính nhanh gọn lại khiến thẻ đối mặt với nguy cơ mất dữ liệu thẻ khi thanh toán bị đặt thiết bị dò thông tin.
III. Hoạt động thanh toán bằng thẻ trên thế giới.
Trên thế giới hiện nay có 5 loại thẻ được sử dụng rộng rãi nhất, phân chia nhau thống trị các thị trường lớn.
Thẻ DINNERS CLUB: Thẻ du lịch giải trí đầu tiên được phát hành vào năm 1949. Năm 1960 là thẻ đầu tiên có mặt tại Nhật, chi nhánh được quản lý
bởi CitiCorp, đứng đầu trong số 1990,
các ngân hàng được phát hành thẻ. Năm
DINNERS CLUB có 6,9 triệu người sử khoảng
dụng trên thế
giới với doanh số
16 tỷ đôla. Hiện nay số người sử dụng thẻ DINNERS CLUB đang giảm dần, đến 1993 tổng doanh số chỉ còn 7,9 tỷ đôla với khoảng 1,5 triệu thẻ lưu hành.
Thẻ American Express (AMEX): Ra đời vào năm 1958, hiện nay đang
là tổ chức thẻ du lịch giải trí lớn nhất thế giới với tổng số thẻ phát hành gấp
5 lần DINNERS CLUB.
American Express thực sự
đã giành được vị
trí
thương hiệu toàn cầu, và vẫn luôn khẳng định vị thế của mình bằng những kinh nghiệm trong lĩnh vực du lịch nước ngoài, cả đối với khách công vụ và khách du lịch. Sản phẩm và dịch vụ của hãng có mặt trên hơn 200 quốc gia và công ty cũng có hơn 78.000 chi nhánh trên toàn thế giới. Trong năm 2004, công ty cho biết họ có khoản thu hơn 3,4 tỉ USD nhờ vào du lịch và các dịch vụ tài
chính bao gồm thẻ tín dụng, việc lưu hành tiền tệ, bảo hiểm du lịch, các
khoản vay cá nhân, môi giới online và ngân hàng trên toàn cầu.Hiện nay, American Express đã phát hành hơn 65 triệu thẻ trên toàn thế giới và chỉ tính riêng trong năm 2004 đã có 416,1 tỉ USD được gửi thông qua hệ thống thẻ tín dụng của American Express.
Thẻ VISA:
Tiền thân của thẻ
VISA là Bank Americard do Bank of
America phát hành vào năm 1960. Ngày nay VISA là thẻ có quy mô phát triển nhất trên toàn cầu . Số lượng khách hàng sử dụng Visa trên toàn cầu lớn hơn tổng số khách hàng sử dụng các thương hiệu thanh toán khác cộng lại. Việc thúc đẩy mở rộng thị trường mới và việc ra đời nhiều hình thức thanh toán mới của Visa đã tăng số lượng địa điểm giao dịch lên gấp đôi, từ 3 triệu địa điểm trong thập kỷ trước lên tới 5,9 triệu .Cho đến nay, VISA đã phát hành hơn 1 tỷ thẻ, được chấp nhận tại trên 840000 máy ATM tại 150 nước trên thế giới.
Thẻ JCB: được phát hành đầu tiên tại Nhật Bản vào năm 1961 bởi ngân hàng Sanwa, năm 1981 JCB đã vươn ra thị trường thế giới. Mục tiêu chủ yếu của thẻ là hướng vào lĩnhvực giải trí và du lịch. Đến năm 1990, doanh thu thẻ JCB vào khoảng 16,5 tỷđôla với 17 triệu thẻ lưu hành. Đến năm 1992, doanh
thu tăng lên 30,9 tỷ đôlavới khoảng 27,5 triệu thẻ lưu hành. Hiện tại, JCB
hiện có 59 triệu chủ thẻ và được chấp nhận trên 400000 nơi, tiêu thụ trên 109 quốc gia ngoài Nhật. Phần lớn các chủ thẻ JCB đến từ Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, và Trung Quốc.
Thẻ MASTER CARD: ra đời vào năm 1966 với tên gọi là MASTER CHARGE do hiệp hội thẻ gọi tắt là ICA (Interbank Card Association) phát
hành thông qua các thành viên trên thế giới. Từ một công ty nhỏ được hình
thành năm 1966, MasterCard đã phát triển thành một tổ chức rộng lớn. Chỉ trong năm 1996, MasterCard đã thực hiện thành công gần 6 tỉ giao dịch và đạt tổng doanh thu trên 675 tỉ đô la Mỹ. Ngày nay số lượng những vụ giao dịch được thực hiện qua ATM trên toàn thế giới đã vượt qua số lượng của những
vụ giao dịch bằng thẻ tín dụng và MasterCard/Cirrus ATM là hệ thống lớn
nhất thế giới. Hệ thống MasterCard được chấp nhận trên toàn cầu và được
sử dụng ở hơn 15 triệu khu vực trên thế giới với hơn 3.800 khách hàng mới đăng ký mỗi ngày.
PHẦN HAI
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG VIB
I. Lịch sử hình thành và phát triển ngân hàng VIB
Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (tên gọi tắt là Ngân hàng Quốc tế - VIB Bank) được thành lập theo Quyết định số 22/QĐ/NH5 ngày 25/01/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Quốc tế đang tiếp tục củng cố vị trí của mình trên thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam. Từ khi bắt đầu hoạt động ngày 18/09/1996 với số vốn điều lệ ban đầu là 50 tỷ đồng Việt Nam, Ngân hàng Quốc tế đang phát triển thành một trong những tổ chức tài chính trong nước dẫn đầu thị trường Việt Nam.
Ngân hàng Quốc tế cung cấp một loạt các sản phẩm, dịch vụ tài chính trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành mạnh và những cá nhân, gia đình có thu nhập ổn định. Ngân hàng Quốc tế luôn được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xếp loại tốt nhất theo các tiêu chí đánh giá hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong nhiều năm liên tiếp.
Đến thời điểm này, ngoài Hội sở tại Hà Nội, Ngân hàng Quốc tế có trên 80 đơn vị kinh doanh tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Quảng Ngãi, Thanh Hóa, Nha Trang, Huế, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang và mạng lưới 37 Tổ công tác tại 35 tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Với
phương châm “Luôn gia tăng giá trị
cho bạn!”, Ngân hàng Quốc tế
không
ngừng gia tăng giá trị của khách hàng, của đối tác, của cán bộ nhân viên ngân hàng và của các cổ đông.
II. Thực trạng phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng VIB
1. Những thuận lợi và khó khăn khi tham gia thị trường thẻ 1.1.Những thuận lợi
• VIB là một trong những ngân hàng lớn trên thị trường Việt Nam
VIB là một ngân hàng lớn, có nhiều kinh nghiệm cũng như tạo được nhiều mối quan hệ kinh doanh với các tổ chức lớn trong và ngoài nước. Trong công tác thanh toán thẻ, chủ yếu là thanh toán quốc tế, với các mối quan hệ có sẵn với các tổ chức thanh toán quốc tế, VIB có một lợi thế to lớn khi tham gia lĩnh vực thanh toán thẻ. Cùng với đó, VIB có một đội ngũ nhân viên, các thanh toán viên giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán thẻ. Ngoài ra, VIB luôn coi trọng công tác marketing và chiến lược chăm sóc khách hàng nhằm luôn nâng cao chất lượng dịch vụ của mình. Khách hàng thường xuyên được cập nhật những thông tin, hướng
dẫn cụ thể về các quy trình nghiệp vụ thanh toán thẻ. Ngoài ra, với mỗi đối tượng khách hàng, ViB luôn đưa ra những chính sách ưu đãi phù hợp
nhằm thu hút những khách hàng tiềm năng.
• Trong những năm gần đây công nghệ những
bước phát triển nhanh chóng
thông tin
ở Việt Nam đã có
Ngày nay, tốc độ phát triển của tin học trên thế giới được ví như vũ bão và ở Việt Nam, công nghệ thông tin là một ngành đang có những tiến bộ vượt bậc. Những bước phát triển vượt bậc trong công nghệ thông tin là một thuận lợi cho các ngân hàng nói chung và VIB nói riêng trong hoạt động kinh doanh thẻ. Ngân hàng có thể áp dụng những thành tựu trên thế giới cũng như những phần mềm và đội ngũ nhân lực trong nước để đáp ứng những đòi hỏi về mặt tin
Thẻ thanh toán là một sản phẩm đa tiện ích, nhưng ở Việt nam, các tiện ích của thẻ mới được sử dụng rất hạn chế. Đa số sử dụng thẻ để thanh toán ở các nhà hàng, khách sạn, siêu thị.., Do vậy, nâng cao hơn nữa các tiện ích của thẻ đồng nghĩa với việc mở rộng loại hình CSCNT: các tiệm ăn, nhà nghỉ, cửa hàng sách, trạm xăng… để chủ thẻ có thể sử dụng thẻ ở mọi nơi.
Ngoài ra, VIB cũng cần triển khai mạnh dịch vụ
rút tiền tự
động
bằng thẻ, phục vụ 24/24 giờ và triển khai việc thanh toán thẻ đối với các giao
dịch điện tử (E-commerce). Chủ thẻ VIB của Ngân hàng Quốc tế (VIB) có
thể thực hiện giao dịch trên hơn 6.100 điểm đặt máy ATM và khoảng 20.000
máy thanh toán POS trên toàn quốc (theo số liệu công bố ngày 15/4/2010 của
VIB). Con số này cần được nhân rộng để người dùng dụng được thẻ thanh toán và thẻ ATM của mình.
thẻ có thể dễ dàng sử
Đối với chủ thẻ, VIB cũng có thể áp dụng chế độ giảm lãi suất đối những khách hàng có doanh số sử dụng thẻ cao, thưởng điểm cho mỗi lần có số tiền chi tiêu đạt một mức nhất định và dựa vào số điểm đó để có chế độ đãi ngộ đặc biệt…
VI. Phát huy vai trò ngân hàng thanh toán
VIB thu được lợi nhuận không nhỏ từ việc thanh toán thẻ Visa, Mastercard,
JCB, AMEX do vậy, trong lĩnh vực này VIB cần phát huy Cụ thể là:
để làm tốt hơn nữa.
a. Chấp hành tốt các quy định nghiêm ngặt trong quy trình thanh toán thẻ đối với mỗi loại thẻ theo đúng quy định Quốc tế để không xẩy ra tranh chấp làm mất thời gian, công sức, tiền bạc và giảm uy tín của VIB.
b. Khuyến khích các CSCNT của VIB làm tốt việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng thanh toán bằng thẻ bằng thái độ ân cần, niềm nở.
c. Tiếp tục phối hợp với các CSCNT, cơ quan công an… kịp thời phát
hiện các trường hợp giả mạo về thẻ hay các thẻ có vấn đề mà không làm ảnh hưởng đến khách hàng, làm cho những khách hàng trung thực thấy bị xúc phạm.
d. Vai trò thanh toán thẻ của ngân hàng tăng lên cũng đồng nghĩa với việc uy tín của VIB tăng lên và có điều kiện thuận lợi để tăng lợi nhuận bằng cách tăng số loại thẻ thanh toán và phạm vi thanh toán.
KẾT LUẬN
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán nhanh gọn, tiện lợi. Thói quen
thanh toán qua thẻ ngân hàng đang dần phổ biến với người tiêu dùng Việt
Nam. Với đà phát triển của nền kinh tế và trình độ công nghệ thông tin như hiện nay thì việc ứng dụng hình thức thanh toán điện tử này sẽ sớm trở thành xu thế của toàn xã hội. Với những giải pháp đưa ra chúng em tin tưởng rằng khi áp dụng thực tế sẽ mang lại chuyển biến tích cực cho hoạt động thẻ của ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
LỜI MỞ ĐẦU
Song hành với sự phát triển của nền kinh tế thế giới là sự phát triển của thương mại hàng hóa với sự tăng lên không ngừng của số lượng giao dịch cũng như khối lượng giao dịch. Vấn đề đặt ra đòi hỏi phải có những cách thanh toán mới nhanh chóng, hiệu quả, tiện lợi và an toàn.
Thẻ thanh toán xuất hiện chính là lời giải cho vấn đề trên. Thẻ là một
phương tiện thanh toán tiên tiến, tiện dụng, thể hiện sự phát triển của
hoạt động thanh toán và đặc biệt là việc
ứng dụng khoa học kỹ
thuật
trong công nghệ ngân hàng. Mặc dù ra đời sau các phương tiện thanh toán khác nhưng thẻ thanh toán ngày càng khẳng định vai trò của nó nhờ vào những vai trò và chức năng ưu việt so với các phương tiện thanh toán khác.
. Công nghệ
thẻ
thanh toán đang ngày càng trở
nên phổ
biến và được
chấp nhận trong nhiều ứng dụng cho cộng đồng và cá nhân.
Ngày nay, thẻ
ngân hàng đã có mặt
ở khắp nơi trên thế giới với
những hình thức và chủng loại đa dạng, đáp của người tiêu dùng.
ứng đầy đủ những nhu cầu
Ở Việt Nam, nền kinh tế ngày một phát triển, đời sống người dân
ngày
càng nâng cao, thêm vào đó là xu thế hội nhập phát triển với nền kinh tế thế
giới, việc xuất hiện của một phương tiện thanh toán mới là rất cần thiết.
Nắm
bắt được nhu cầu này, từ đầu năm 2004, Ngân hàng Quốc tế VIB đã chủ trương đưa dịch vụ thẻ vào ứng dụng tại Việt Nam. Sau gần 7 năm hoạt động trong lĩnh vực này, Ngân hàng Quốc tế VIB đã thu được những thành tựu nhất định. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn gặp không ít những khó khăn để có thể phát triển dịch vụ thẻ trở nên phổ biến ở Việt Nam.Nhận thức được vấn đề này, sau quá trình tìm hiểu về hoạt động thẻ tại Ngân hàng Quốc tế
VIB, chúng em đã chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp hoạt động thẻ
ngân hàng tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam VIB” làm đề tài cho bài tiểu luận của mình.
PHẦN MỘT
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Giới thiệu chung về thẻ ngân hàng:
Thẻ ngân hàng là một công cụ tín dụng do tổ chức tài chính phát hành và cấp cho khách hàng (gọi là chủ thẻ), trong đó dành quyền cho khách hàng có thể dùng nó nhiều lần để rút tiền mặt cho chính mình hay ra lệnh rút một số hay tất cả số tiền hiện có trên tài khoản mở ở tổ chức phát hành thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị chấp nhận thẻ.
Tiền đề cho sự ra đời của thẻ ngân hàng là những bất lợi trong lưu thông
séc cũng như sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của máy tính và công nghệ
thông tin, viễn thông.
Thẻ được phân loại dựa trên nhiều căn cứ khác nhau. Theo công nghệ sản
xuất thẻ được chia ra bốn loại: thẻ khắc chữ nổi, thẻ từ tính và thẻ thông
minh. Nếu lấy tính chất thẻ
làm căn cứ, có bốn loại thẻ
như
sau: thẻ
tín
dụng, thẻ ghi nợ, thẻ ATM và thẻ Pre-paid. Cách phân loại thứ ba dựa vào
mục đích sử dụng, các loại thẻ bao gồm: thẻ công ty, thẻ du lịch và giải trí. Một cách phân loại khác là theo đối tượng sử dụng, các loại thẻ thường gồm: thẻ chuẩn, thẻ vàng, thẻ bạch kim…
II. Lợi ích và rủi ro khi thanh toán bằng thẻ:
Thẻ ngân hàng mang lại rất nhiều tiện ích cho người tiêu dùng. Chủ thẻ có
thể có thể
tiến hành thanh toán
ở bất cứ nơi đâu mà không cần mang
theo tiền mặt, tránh được rủi ro mất hay bị cướp tiền mặt. Thẻ đồng thời là phương tiện thanh toán khá an toàn và nhanh chóng. Tiền chuyển nhanh chóng giữa người mua và người bán mà không bị giới hạn bởi không gian và thời gian.Chỉ có người biết mã pin thẻ mới sử dụng được thẻ, tức là hạn chế nguy cơ bị lấy trộm thẻ hay rút trộm tiền. Người sử dụng cũng có thể thanh toán từ thẻ sang thẻ, từ thẻ sang tài khoản hay thanh toán hóa đơn tiền điện, nước,
điện thoại, di động, phí bảo hiểm, truyền hình cáp chỉ với một chiếc thẻ
nhựa. Hơn nữa thẻ ngân hàng rất gọn nhẹ, dễ sử dụng nên mọi người, mọi lứa tuổi đều có thể sở hữu một chiếc thẻ.
Bên cạnh đó, thẻ
ngân hàng vẫn còn bộc lộ
khá nhiều điểm thiếu sót.
Trước hết, người sử dụng không thể chuyển nhượng thẻ ngân hàng như các tài sản tài chính khác. Thứ hai, tại Việt Nam, phạm sử dụng thẻ còn khá giới hạn rất nhiều so với tiền mặt. Ngoài ra, ngân hàng gặp phải khó khăn lớn khi chỉ thu được lợi nhuận khi phát huy một số lượng thẻ đủ lớn. Bên cạnh đó, thẻ ngân hàng cũng tiềm ẩn khá nhiều rủi ro. Chính đặc tính nhanh gọn lại khiến thẻ đối mặt với nguy cơ mất dữ liệu thẻ khi thanh toán bị đặt thiết bị dò thông tin.
III. Hoạt động thanh toán bằng thẻ trên thế giới.
Trên thế giới hiện nay có 5 loại thẻ được sử dụng rộng rãi nhất, phân chia nhau thống trị các thị trường lớn.
Thẻ DINNERS CLUB: Thẻ du lịch giải trí đầu tiên được phát hành vào năm 1949. Năm 1960 là thẻ đầu tiên có mặt tại Nhật, chi nhánh được quản lý
bởi CitiCorp, đứng đầu trong số 1990,
các ngân hàng được phát hành thẻ. Năm
DINNERS CLUB có 6,9 triệu người sử khoảng
dụng trên thế
giới với doanh số
16 tỷ đôla. Hiện nay số người sử dụng thẻ DINNERS CLUB đang giảm dần, đến 1993 tổng doanh số chỉ còn 7,9 tỷ đôla với khoảng 1,5 triệu thẻ lưu hành.
Thẻ American Express (AMEX): Ra đời vào năm 1958, hiện nay đang
là tổ chức thẻ du lịch giải trí lớn nhất thế giới với tổng số thẻ phát hành gấp
5 lần DINNERS CLUB.
American Express thực sự
đã giành được vị
trí
thương hiệu toàn cầu, và vẫn luôn khẳng định vị thế của mình bằng những kinh nghiệm trong lĩnh vực du lịch nước ngoài, cả đối với khách công vụ và khách du lịch. Sản phẩm và dịch vụ của hãng có mặt trên hơn 200 quốc gia và công ty cũng có hơn 78.000 chi nhánh trên toàn thế giới. Trong năm 2004, công ty cho biết họ có khoản thu hơn 3,4 tỉ USD nhờ vào du lịch và các dịch vụ tài
chính bao gồm thẻ tín dụng, việc lưu hành tiền tệ, bảo hiểm du lịch, các
khoản vay cá nhân, môi giới online và ngân hàng trên toàn cầu.Hiện nay, American Express đã phát hành hơn 65 triệu thẻ trên toàn thế giới và chỉ tính riêng trong năm 2004 đã có 416,1 tỉ USD được gửi thông qua hệ thống thẻ tín dụng của American Express.
Thẻ VISA:
Tiền thân của thẻ
VISA là Bank Americard do Bank of
America phát hành vào năm 1960. Ngày nay VISA là thẻ có quy mô phát triển nhất trên toàn cầu . Số lượng khách hàng sử dụng Visa trên toàn cầu lớn hơn tổng số khách hàng sử dụng các thương hiệu thanh toán khác cộng lại. Việc thúc đẩy mở rộng thị trường mới và việc ra đời nhiều hình thức thanh toán mới của Visa đã tăng số lượng địa điểm giao dịch lên gấp đôi, từ 3 triệu địa điểm trong thập kỷ trước lên tới 5,9 triệu .Cho đến nay, VISA đã phát hành hơn 1 tỷ thẻ, được chấp nhận tại trên 840000 máy ATM tại 150 nước trên thế giới.
Thẻ JCB: được phát hành đầu tiên tại Nhật Bản vào năm 1961 bởi ngân hàng Sanwa, năm 1981 JCB đã vươn ra thị trường thế giới. Mục tiêu chủ yếu của thẻ là hướng vào lĩnhvực giải trí và du lịch. Đến năm 1990, doanh thu thẻ JCB vào khoảng 16,5 tỷđôla với 17 triệu thẻ lưu hành. Đến năm 1992, doanh
thu tăng lên 30,9 tỷ đôlavới khoảng 27,5 triệu thẻ lưu hành. Hiện tại, JCB
hiện có 59 triệu chủ thẻ và được chấp nhận trên 400000 nơi, tiêu thụ trên 109 quốc gia ngoài Nhật. Phần lớn các chủ thẻ JCB đến từ Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, và Trung Quốc.
Thẻ MASTER CARD: ra đời vào năm 1966 với tên gọi là MASTER CHARGE do hiệp hội thẻ gọi tắt là ICA (Interbank Card Association) phát
hành thông qua các thành viên trên thế giới. Từ một công ty nhỏ được hình
thành năm 1966, MasterCard đã phát triển thành một tổ chức rộng lớn. Chỉ trong năm 1996, MasterCard đã thực hiện thành công gần 6 tỉ giao dịch và đạt tổng doanh thu trên 675 tỉ đô la Mỹ. Ngày nay số lượng những vụ giao dịch được thực hiện qua ATM trên toàn thế giới đã vượt qua số lượng của những
vụ giao dịch bằng thẻ tín dụng và MasterCard/Cirrus ATM là hệ thống lớn
nhất thế giới. Hệ thống MasterCard được chấp nhận trên toàn cầu và được
sử dụng ở hơn 15 triệu khu vực trên thế giới với hơn 3.800 khách hàng mới đăng ký mỗi ngày.
PHẦN HAI
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG VIB
I. Lịch sử hình thành và phát triển ngân hàng VIB
Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (tên gọi tắt là Ngân hàng Quốc tế - VIB Bank) được thành lập theo Quyết định số 22/QĐ/NH5 ngày 25/01/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Quốc tế đang tiếp tục củng cố vị trí của mình trên thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam. Từ khi bắt đầu hoạt động ngày 18/09/1996 với số vốn điều lệ ban đầu là 50 tỷ đồng Việt Nam, Ngân hàng Quốc tế đang phát triển thành một trong những tổ chức tài chính trong nước dẫn đầu thị trường Việt Nam.
Ngân hàng Quốc tế cung cấp một loạt các sản phẩm, dịch vụ tài chính trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành mạnh và những cá nhân, gia đình có thu nhập ổn định. Ngân hàng Quốc tế luôn được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xếp loại tốt nhất theo các tiêu chí đánh giá hệ thống Ngân hàng Việt Nam trong nhiều năm liên tiếp.
Đến thời điểm này, ngoài Hội sở tại Hà Nội, Ngân hàng Quốc tế có trên 80 đơn vị kinh doanh tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Nghệ An, Quảng Ngãi, Thanh Hóa, Nha Trang, Huế, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang và mạng lưới 37 Tổ công tác tại 35 tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Với
phương châm “Luôn gia tăng giá trị
cho bạn!”, Ngân hàng Quốc tế
không
ngừng gia tăng giá trị của khách hàng, của đối tác, của cán bộ nhân viên ngân hàng và của các cổ đông.
II. Thực trạng phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng VIB
1. Những thuận lợi và khó khăn khi tham gia thị trường thẻ 1.1.Những thuận lợi
• VIB là một trong những ngân hàng lớn trên thị trường Việt Nam
VIB là một ngân hàng lớn, có nhiều kinh nghiệm cũng như tạo được nhiều mối quan hệ kinh doanh với các tổ chức lớn trong và ngoài nước. Trong công tác thanh toán thẻ, chủ yếu là thanh toán quốc tế, với các mối quan hệ có sẵn với các tổ chức thanh toán quốc tế, VIB có một lợi thế to lớn khi tham gia lĩnh vực thanh toán thẻ. Cùng với đó, VIB có một đội ngũ nhân viên, các thanh toán viên giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực thanh toán thẻ. Ngoài ra, VIB luôn coi trọng công tác marketing và chiến lược chăm sóc khách hàng nhằm luôn nâng cao chất lượng dịch vụ của mình. Khách hàng thường xuyên được cập nhật những thông tin, hướng
dẫn cụ thể về các quy trình nghiệp vụ thanh toán thẻ. Ngoài ra, với mỗi đối tượng khách hàng, ViB luôn đưa ra những chính sách ưu đãi phù hợp
nhằm thu hút những khách hàng tiềm năng.
• Trong những năm gần đây công nghệ những
bước phát triển nhanh chóng
thông tin
ở Việt Nam đã có
Ngày nay, tốc độ phát triển của tin học trên thế giới được ví như vũ bão và ở Việt Nam, công nghệ thông tin là một ngành đang có những tiến bộ vượt bậc. Những bước phát triển vượt bậc trong công nghệ thông tin là một thuận lợi cho các ngân hàng nói chung và VIB nói riêng trong hoạt động kinh doanh thẻ. Ngân hàng có thể áp dụng những thành tựu trên thế giới cũng như những phần mềm và đội ngũ nhân lực trong nước để đáp ứng những đòi hỏi về mặt tin
Thẻ thanh toán là một sản phẩm đa tiện ích, nhưng ở Việt nam, các tiện ích của thẻ mới được sử dụng rất hạn chế. Đa số sử dụng thẻ để thanh toán ở các nhà hàng, khách sạn, siêu thị.., Do vậy, nâng cao hơn nữa các tiện ích của thẻ đồng nghĩa với việc mở rộng loại hình CSCNT: các tiệm ăn, nhà nghỉ, cửa hàng sách, trạm xăng… để chủ thẻ có thể sử dụng thẻ ở mọi nơi.
Ngoài ra, VIB cũng cần triển khai mạnh dịch vụ
rút tiền tự
động
bằng thẻ, phục vụ 24/24 giờ và triển khai việc thanh toán thẻ đối với các giao
dịch điện tử (E-commerce). Chủ thẻ VIB của Ngân hàng Quốc tế (VIB) có
thể thực hiện giao dịch trên hơn 6.100 điểm đặt máy ATM và khoảng 20.000
máy thanh toán POS trên toàn quốc (theo số liệu công bố ngày 15/4/2010 của
VIB). Con số này cần được nhân rộng để người dùng dụng được thẻ thanh toán và thẻ ATM của mình.
thẻ có thể dễ dàng sử
Đối với chủ thẻ, VIB cũng có thể áp dụng chế độ giảm lãi suất đối những khách hàng có doanh số sử dụng thẻ cao, thưởng điểm cho mỗi lần có số tiền chi tiêu đạt một mức nhất định và dựa vào số điểm đó để có chế độ đãi ngộ đặc biệt…
VI. Phát huy vai trò ngân hàng thanh toán
VIB thu được lợi nhuận không nhỏ từ việc thanh toán thẻ Visa, Mastercard,
JCB, AMEX do vậy, trong lĩnh vực này VIB cần phát huy Cụ thể là:
để làm tốt hơn nữa.
a. Chấp hành tốt các quy định nghiêm ngặt trong quy trình thanh toán thẻ đối với mỗi loại thẻ theo đúng quy định Quốc tế để không xẩy ra tranh chấp làm mất thời gian, công sức, tiền bạc và giảm uy tín của VIB.
b. Khuyến khích các CSCNT của VIB làm tốt việc cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng thanh toán bằng thẻ bằng thái độ ân cần, niềm nở.
c. Tiếp tục phối hợp với các CSCNT, cơ quan công an… kịp thời phát
hiện các trường hợp giả mạo về thẻ hay các thẻ có vấn đề mà không làm ảnh hưởng đến khách hàng, làm cho những khách hàng trung thực thấy bị xúc phạm.
d. Vai trò thanh toán thẻ của ngân hàng tăng lên cũng đồng nghĩa với việc uy tín của VIB tăng lên và có điều kiện thuận lợi để tăng lợi nhuận bằng cách tăng số loại thẻ thanh toán và phạm vi thanh toán.
KẾT LUẬN
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh toán nhanh gọn, tiện lợi. Thói quen
thanh toán qua thẻ ngân hàng đang dần phổ biến với người tiêu dùng Việt
Nam. Với đà phát triển của nền kinh tế và trình độ công nghệ thông tin như hiện nay thì việc ứng dụng hình thức thanh toán điện tử này sẽ sớm trở thành xu thế của toàn xã hội. Với những giải pháp đưa ra chúng em tin tưởng rằng khi áp dụng thực tế sẽ mang lại chuyển biến tích cực cho hoạt động thẻ của ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: