everlasting_love
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Tiến trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam: Thực trạng và Giải pháp
Lời mở đầu
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, chưa bao giờ lại có một sự hợp tác phát triển rộng rãi và nhiều tầng lớp như hiện nay, tạo nên một xu thế nổi bật trong quan hệ quốc tế hiện đại. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của quan hệ kinh tế đối ngoại đối với tăng trưởng kinh tế, chúng ta đang đẩy nhanh quá trình đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế. Khi ngày càng hoà nhập vào hệ thống kinh tế toàn cầu, chúng ta càng phải đối mặt với nhiều thách thức. Mặc dù thực trạng còn yếu kém nhưng tiềm năng tăng trưởng dài hạn của các quốc gia đang phát triển rất sáng lạn. Việc gia nhập ASEAN của Việt Nam với tư cách là thành viên đầy đủ là một trong những bằng chứng chứng minh cho xu hướng chung của thế giới.
ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng đã tham gia quá trình tự do hoá thương mại trên cơ sở phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu bằng việc thiết lập một khu vực mậu dịch tự do và cơ chế của nó là chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Việc thực hiện CEPT sẽ đưa Việt Nam lên vị trí mới trong nền kinh tế thế giới. Bởi CEPT là cơ sở tốt nhất để Việt Nam thực hiện tự do hoá thương mại, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và gắn chặt nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Tuy quá trình thực hiện CEPT đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ nhưng vẫn còn một số tồn tại cần được khắc phục và giải quyết khéo léo dựa trên kinh nghiệm và năng lực của quốc gia. Để thể hiện suy nghĩ của mình về vấn đề này, người viết xin trình bày đề tài “Tiến trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam: Thực trạng và Giải pháp”.
Bài viết được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về lý luận thương mại quốc tế và CEPT/AFTA.
Chương 2: Hội nhập CEPT/AFTA và tác động đối với Việt Nam. Thuận lợi và khó khăn.
Chương 3 : Giải pháp cho tiến trình hội nhập CEPT/AFTA của Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu viết bài, chắc hẳn không tránh khỏi những thiếu sót về vấn đề này. người viết mong muốn nhận được những ý kiến và nhận xét của những người quan tâm để vấn đề được phân tích sâu rộng hơn.
Chương 1.
Khái quát chung về lý luận thương mại quốc tế và cept/afta.
1.1 Lý thuyết về Thương mại quốc tế (TMQT).
1.1.1 Nguyên tắc lợi thế so sánh và thương mại quốc tế
Nền thương mại giữa các quốc gia trên thế giới đã tồn tại một nguyên tắc mang tính sâu sắc nhất và nó đứng sau mọi hoạt động thương mại - đó là nguyên tắc lợi thế so sánh. Nguyên tắc này cho rằng: Một nước có thể thu lợi từ thương mại ngay cả khi nó có lợi thế tuyệt đối có hiệu quả hơn (hay tuyệt đối không hiệu quả bằng) các nước khác trong việc sản xuất hàng hoá. Đồng thời, nguyên tắc lợi thế so sánh phát biểu rằng: Mỗi nước sẽ có lợi nếu nó chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các hàng hoá mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp (tức là những hàng hoá mà nó tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại mỗi nước sẽ có lợi nếu nó nhập khẩu mà mình sản xuất với chi phí tương đối cao (tức là những hàng hoá mà nó tương đối hơn các nước khác)...
Nguyên tắc đơn giản này là cơ sở vững chắc đối với TMQT và nó được chứng minh trong các mô hình TMQT của các nhà kinh tế học nổi tiếng thế giới.
TMQT xuất hiện từ sự đa dạng hoá tự nhiên của nền sản xuất giữa các nước thông qua các mô hình TMQT của các nhà kinh tế học từ cổ điển, tân cổ điển cho đến hiện đại, có thể đi đến kết luận rằng các nước buôn bán với nhau hay vì họ khác biệt về các nguồn lực, về công nghệ, hay vì họ khác nhau về lợi thế kinh tế nhờ quy mô, hay vì cả hai lý do này. Từ xu hướng chuyên môn hoá sản xuất, họ có thể nhập khẩu những sản phẩm trong nước không có điều kiện sản xuất hay hiệu quả sản xuất thấp và xuất khẩu những sản phẩm có điều kiện thuận lợi, hiệu quả cao đồng thời kết hợp quan tâm đến nhu cầu thị trường quốc tế. Trong bất kỳ môi trường cạnh tranh nào, hoàn hảo hay không hoàn hảo, thương mại luôn mang lại lợi ích cho các nước tham gia và lợi ích này là tiềm tàng. Việc tiến hành thương mại tác động lên phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư trong nội bộ một nước và giữa các nước làm cho một bên lợi, một bên thiệt. Đây chính là nền tảng để các Chính phủ tham gia và điều tiết hoạt động thương mại.
1.1.2 Lập trường về TMQT xuất phát từ thực tế cơ cấu nền công nghiệp quốc gia
Trước hết, đứng trên quan điểm về kinh tế phát triển đối với thế giới thứ ba, “Vòng luẩn quẩn của sự cùng kiệt đói” của R.Nurkse – nhà kinh tế học nổi tiếng người Thuỵ Điển đã đưa ra một sự nhìn nhận mang tính chất khá mới mẻ và hoàn thiện về TMQT. Nó được ông mô tả như sau: “Xét về lượng cầu, việc thu hút đầu tư có thể bị thấp, nguyên nhân bởi sức mua của dân chúng và bị quy định bởi thu nhập thực tế thấp, thu nhập thực tế thấp lại do năng suất lao động thấp, năng suất lao động lại là kết quả của dung lượng vốn nhỏ bé được đưa vào sản xuất và đến lượt mình, tình trạng không đủ vốn trong sản xuất một phần do đầu tư ít ỏi gây ra”. Vì thế, ông cho rằng: “Quy mô thị trường quy định khối lượng trao đổi thương mại quốc tế”, một nước chậm phát triển, lạc hậu về trình độ công nghệ có thể làm ra hàng hoá gì để xuất khẩu, nếu thu nhập từ xuất khẩu là nhỏ bé thì chắc chắc rằng không thể có cân bằng về cán cân thương mại, cũng vì thế không có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng hay tích luỹ quá ít không đủ để đáp ứng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thậm chí, ngay cả những trường hợp có thị trường trong nước rộng lớn như T.Quốc cũng không thể trở thành quốc gia giàu có nếu thi hành chính sách hạn chế TMQT để trở thành thị trường duy nhất. R.Nurkse đã minh hoạ điều đó bằng chế độ thuế quan nội bộ mà T.Quốc thi hành trong những năm đầu thế kỷ XX. Mặc dầu đến năm 1928, họ đã phải xoá bỏ chế độ này nhưng rút cuộc, T.Quốc vẫn là một trong những quốc gia cùng kiệt nhất thế giới. Để khẳng định lý giải của R.Nurkse, những dẫn chứng về sau này đặc biệt dễ thấy trường hợp Malaysia chuyển hướng thành công từ chuyên sản xuất nguyên liệu thô sang xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo càng minh hoạ rõ hơn quan niệm mà ông đã nêu ra từ thập kỷ 80.
Đối với các nước thuộc thế giới thứ ba, quy mô nhỏ hẹp của thị trường mà mức thu nhập thấp của tuyệt đại đa số gây ra trên thực tế cản trở quá trình công nghiệp hoá cũng như tăng trưởng kinh tế, rồi sau đó tác động đến khả năng thu hút vốn đầu tư cho các dự án kinh tế mở rộng. Từ đó, R.Nurkse đi đến kết luận rằng: các nước lạc hậu cần tiến hành công nghiệp hoá bằng cách tạo nguồn vốn từ bên ngoài, đồng thời khuyến khích tiết kiệm trong nước để xây dựng các dự án đầu tư theo hướng mở rộng khả năng trao đổi TMQT.
Bởi vậy, ông cho rằng một mặt các nước cùng kiệt phải thúc đẩy sự phát triển bên trong của họ. Mặt khác, các nước giàu phải tham gia vào quá trình này của các nước cùng kiệt để tạo ra “sự tăng trưởng cân bằng” trên quy mô thế giới – một cơ sở tốt cho TMQT hiện đại cũng như là con đường để lấp những lỗ hổng ở các nước “ngoại vi” (các nước thế giới thứ ba). Vậy là quan hệ thương mại bước đầu mà các nước thế giới thứ ba cần là phát triển buôn bán với các nước giàu chứ không phải với các nước nghèo. Những lợi ích đem lại cho các nước cùng kiệt trong mối quan hệ với các nước giàu nhiều hơn là giữa các nước nghèo.
Với hàm ý đồng tình với ý kiến trên, R.Nurkse đã kết luận bằng một câu dẫn của D.H.Robetson viết về vai trò của TMQT là: “Hơn tất cả, ngoại thương là động lực của sự tăng trưởng, nhưng là sự tăng trưởng bắt nguồn và lan toả từ các trung tâm công nghiệp đi trước”. Điều này cho thấy R.Nurkse đồng tình mạnh mẽ với xu hướng liên kết với thế giới bên ngoài để thúc đẩy công nghiệp hoá.
Tóm lại, dù rằng ở những mức độ nhấn mạnh khác nhau, các học giả phương Tây đã được đề cập đều đề cao vai trò của ngoài thương đối với các nước lạc hậu. Có thể việc mở rộng để phát triển TMQT không hẳn chỉ có động lực tích cực, mà bên cạnh đó còn ảnh hưởng tiêu cực. Nhưng rõ ràng lợi ích đạt được nhiều hơn tổn thất phải gánh chịu.
1.1.3 Nguyên lý tự do mậu dịch, bảo hộ mậu dịch trong TMQT hiện đại.
v Tự do hoá thương mại.
Xu hướng tự do hoá thương mại bắt nguồn từ quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới với những cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về bề rộng và bề sâu, vai trò của các công ty đa quốc gia được tăng cường, hầu hết các quốc gia chuyển sang xây dựng mô hình “kinh tế mới” với việc mở cửa và khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước. Tự do hoá thương mại đều đưa lại lợi ích cho mỗi quốc gia dù trình độ phát triển khác nhau nhiều hay ít và nó phù hợp với xu thế phát triển chung của nền văn minh nhân loại.
Nội dung của tự do hoá thương mại là Nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết để từng bước giảm thiểu những trở ngại trong hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong quan hệ mậu dịch quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc phát triển các hoạt động TMQT cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đương nhiên, tự do hoá thương mại trước hết nhằm thực hiện việc mở rộng quy mô xuất khẩu của mỗi nước cũng như đạt tới điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động nhập khẩu. Kết quả của tự do hoá thương mại là tạo điều kiện mở cửa thị trường nội địa để hàng hoá, công nghệ nước ngoài cũng như những hoạt động dịch vụ quốc tế dễ dàng xâm nhập vào thị trường nội địa đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Như vậy, tự do hoá thương mại đồng nghĩa với việc cần đạt tới một sự hài hoà giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
v Bảo hộ mậu dịch
Có nhiều nguyên nhân làm xuất hiện bảo hộ mậu dịch, nhưng cơ sở khách quan của xu hướng này là sự phát triển không đều và sự khác biệt trong điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia, do sự chênh lệch về khả năng cạnh tranh giữa các công ty trong nước và công ty nước ngoài cũng như các nguyên nhân lịch sử để lại. Bên cạnh đó còn có các lý do về chính trị và xã hội cũng đưa đến yêu cầu bảo hộ mậu dịch.
Xu hướng này xuất hiện ngay từ khi hình thành và tiếp tục được củng cố trong quá trình phát triển của nền TMQT với các công cụ hành chính, các biện pháp kỹ thuật khác nhau. Mục tiêu của bảo hộ mậu dịch là bảo vệ thị trường nội địa trước sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các luồng hàng hoá từ bên ngoài, cũng tức là bảo về lợi ích quốc gia. Cho đến nay vẫn còn nhiều lý lẽ khác nhau để bảo vệ cho chế độ bảo hộ mậu dịch như: để bảo vệ “các ngành công nghiệp non trẻ”, tạo điều kiện để chúng trưởng thành và chống lại sự cạnh tranh ở bên ngoài; để tạo nên các nguồn “tài chính công cộng” tức là đảm bảo nguồn thu cho Chính phủ trong việc cung cấp các hàng hoá công cộng và các chi phí khác; để khắc phục một phần “tình trạng thất nghiệp” hay tạo việc làm cho các lao động trong nước thông qua mở rộng sản xuất các loại sản phẩm có thể thay thế hàng nhập khẩu; và để “phân phối lại thu nhập” làm dịch chuyển một phần thu nhập của những người tiêu dùng giàu có sang cho những người sản xuất hàng hoá đáp ứng được sự thay thế hàng hoá nhập khẩu.
Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp và chính sách theo chế độ bảo hộ mậu dịch thường không đem lại hiệu quả như các lý lẽ trên đề cập đến và còn tồn tại những hạn chế do các điều kiện thực tiễn khác nhau đòi hỏi trong mỗi quốc gia. Hơn nữa, về nguyên tắc thì hai xu hướng bảo hộ mậu dịch và tự do hoá thương mại đối nghịch với nhau và chúng gây nên tác động nhau đến hoạt động TMQT. Nhưng hai xu hướng này không bài trừ nhau mà trái lại, chúng thống nhất với nhau – một sự thống nhất giữa hai mặt đối lập. Trong thực tế, chúng song song tồn tại và được sử dụng một cách hài hoà.
Do vậy, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, tuỳ theo điều kiện và đặc điểm cụ thể mà người ta sử dụng và kết hợp khéo léo giữa hai xu hướng trên với những mức độ khác nhau ở từng lĩnh vực kinh tế. Mặc dù, các nhà kinh tế đã chứng minh rằng thương mại tự do đem lại lợi ích tối đa cho dân tộc bằng các lý thuyết thương mại, song thực tế đã khẳng định rằng chế độ này là không khả thi. Các Chính phủ có nhiều lý do khác nhau để bảo hộ cho sự tồn tại của chính sách thương mại, chúng thường liên quan đến chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và mức độ ổn định chính trị quốc gia. Thông qua các công cụ như thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, hàm lượng nội địa của sản phẩm .. ., sự tồn tại của chính sách thương mại tạo nên một tác động mang tính hai mặt cho nền kinh tế. Một mặt, nó có thể tác động đến việc phân bổ các nguồn lực trong dài hạn, đóng góp vào nguồn thu ngân sách, nhưng mặt khác nó lại tạo ra những tổn thất về mặt phúc lợi cho xã hội. Một sự vận dụng phù hợp các công cụ bảo hộ mậu dịch là sự bảo hộ có chọn lọc và có điều kiện, gắn liền với không gian và thời gian nhất định. Công cụ bảo hộ không chỉ mang tính tự vệ, hỗ trợ các ngành sản xuất trong nước trong quá trình cạnh tranh với hàng hoá từ bên ngoài mà còn phải tạo điều kiện cho các ngành sản xuất trong nước vươn lên cạnh tranh thắng lợi không chỉ ở thị trường nội địa mà còn trên thị trường nước ngoài. Điều này có nghĩa là phải vận dụng các công cụ bảo hộ mậu dịch một cách tích cực và năng động, đồng thời thực hiện bảo hộ phải gắn liền với quá trình tự do hoá thương mại đạt được trong các quan hệ quốc tế.
1.2 Chương trình CEPT/AFTA và tình hình thực hiện của Việt Nam
1.2.1 Sự ra đời và mục tiêu của AFTA
v Bối cảnh ra đời.
Bước vào thập kỷ 90, môi trường chính trị quốc tế có nhiều chuyển biến quan trọng. Trên bình diện thế giới, chiến tranh lạnh kết thúc, toàn cầu hoá kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng tác động mạnh đến các nền kinh tế và nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc
đói giảm cùng kiệt và giải quyết về cơ bản việc làm cho người lao động; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; tạo điều kiện để nước ta tiến nhanh và vững chắc hơn, đến khoảng năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hoạt động xuất nhập khẩu trong 10 năm tới cần phục vụ trực tiếp cho mục tiêu chung nói trên với nội dung cơ bản là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu, bảo đảm nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, áp dụng công nghệ mới để tăng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý; mở rộng và đa dạng thị trường và cách kinh doanh, hội nhập thắng vào kinh tế khu vực và thế giới. Chớp thời cơ thuận lợi tạo ra sự phát triển đột biến, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa kinh tế nước ta và các nước trong khu vực.
Tóm lại, như đã đề cập ở phần trên, xét trên tổng thể chiến lược “hướng tới xuất khẩu”, mở rộng quan hệ thương mại với tất cả các khu vực, các nước, các lĩnh vực, không hạn chế về địa lý, thể chế chính trị với chính sách cụ thể là “đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường” . . . giữ vai trò hết sức quan trọng trong chính sách ngoại thương của các nước Châu á. Đó không chỉ là nền tảng vững chắc mà còn là động lực, phương tiện, công cụ hiệu quả, góp phần vào thành công trong phát triển kinh tế của khu vực.
Kết luận
Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, tầm quan trọng của các quan hệ đối ngoại ngày càng tăng. hội nhập kinh tế thế giới và khu vực đã trở thành hiện thực đối với các quốc gia trên thế giới. Đồng thời tự do hoá thương mại đang ngày càng trở thành một tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia và là yếu tố cơ bản của hội nhập. Đối với các quốc gia phát triển như Việt Nam, chiến lược hướng về xuất khẩu đang tỏ rõ ưu thế và cần thiết hơn bao giờ hết trong nền kinh tế.
Quá trình thực hiên CEPT/AFTA không chỉ tạo cơ sở cho Việt Nam tận dụng được những cơ hội đáng quý và thách thức phải đương đầu trong việc thực hiện thương mại tự do. Chương trình này còn giúp Việt Nam từng bước tiến sâu thêm trên con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới như gia nhập tổ chức WTO.
Cần khẳng định rõ ràng rằng, chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới phải hướng về xuất khẩu, nhấn mạnh vào phát triển các ngành nghề mà sản phẩm có thể xuất khẩu được. Chiến lược này đòi hỏi chúng ta phải xác định chính xác các lợi thế tương đối của đất nước. Cần nhận thức rõ ràng rằng, càng chậm trễ trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực bao nhiêu thì càng bất lợi cho sự tăng trưởng kinh tế, cho công cuộc CNH-HĐH đất nước bấy nhiêu. chúng ta không thể đứng ngoài mà phải chủ động tích cực thực hiện các trách nhiệm của chúng ta trong khuôn khổ AFTA, coi đó như bước chuẩn bị cho sự tham gia các tổ chức thương mại quốc tế rộng lớn hơn như APEC, WTO…
Tài liệu tham khảo
1. Ari Kokko, Quản lý quá trình chuyển sang chế độ Thương mại tự do, Chính sách thương mại của Việt Nam cho thế kỷ 21, NXB Chính trị quốc gia, 1997.
2. Báo Thương mại, số 1+2/2003.
3. Báo Đầu tư chứng khoán số 161, 6/1/2003.
4. Giáo trình kinh tế học quốc tế, NXB Thống kê, 1999.
5. GS. Tô Xuân Dân, PGS. Đỗ Đức Bình (chủ biên), Hội nhập với AFTA: cơ hội và thách thức, NXB Thống kê, 1997.
6. GS.TS Baladas Ghoshal, ASEAN bước vào thế kỷ 21: những thách đố trước mắt, 1997.
7. Lựa chọn sản phẩm và thị trường trong ngoại thương thời kỳ CNH của các nền kinh tế Đông á, NXB Chính trị quốc gia, 2000.
8. Michael P. Todaro, Kinh tế học cho thế giới thứ ba, NXB Giáo dục, 1998.
9. Niên giám thống kê 2000.
10. Niên giám thống kê 2001, 2002.
11. Nguyễn Minh Tân, Võ Thành Hưng, Hội nhập ASEAN, thúc đẩy hàng rào thuế quan-cơ hội và những thách thức, Thông tin KHTC, 3/1996.
12. P.A.Samuelson, W.D. Nordhans, Kinh tế học, NXB Chính trị quốc gia, 1997
13. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Sổ tay Hội nhập kinh tế thế giới, 11/1999.
14. PTS. Vũ Đức Đam, Chương trình thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam, Văn phòng Uỷ ban quốc gia về ASEAN, 1996.
15. PTS. Hoàng Thị Thanh Nhàn, ASEAN-Tổ chức hợp tác khu vực,1997.
16. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á, 6/1999.
17. Tạp chí Tài chính,3/1996.
18. Thời báo kinh tế Việt Nam số 57, 11/5/2001.
19. Thời báo kinh tế Việt Nam 2001-2002:Việt Nam và thế giới.
20. Thời báo kinh tế, 2/2002.
21. Thông tấn xã Việt Nam, Tầm nhìn 2020 của ASEAN, 29/12/1997.
22. ThS. Nguyễn Thanh Hà, Giải pháp cho AFTA:Thúc đẩy hội nhập kinh tế trong khu vực, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Đại học KTQD, số 61,7/2002.
23. ThS. Nguyễn Thanh Hà, Việt Nam và AFTA. Vị trí của chúng ta và những giải pháp cần thực hiện Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Đại học KTQD,số đặc san, 4/1998.
24. ThS. Lê Thị Anh Vân, Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đại học KTQD, NXB Lao động, Hà Nội, 2003.
25. TS. Trần Cao Thành, ASEAN thực hiện và mở rộng khu vực thương mại tự do, Viện nghiên cứu Đông Nam á, số 2/2002.
26. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
27. Võ Thanh Thu(chủ biên), Quan hệ Thương mại - Đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN, NXB Thống kê, 1998.
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương 1. Khái quát chung về lý luận thương mại quốc tế (TMQT) và CEPT/AFTA 2
1.1 Lý thuyết về TMQT 2
1.1.1 Nguyên tắc lợi thế so sánh và TMQT. 2
1.1.2 Lập trường về TMQT xuất phát từ thực tế cơ cấu nền công nghiệp quốc gia 3
1.1.3 Nguyên lý tự do mậu dịch, bảo hộ mậu dịch. 4
1.2 Chương trình CEPT/AFTA và tình hình thực hiện của Việt Nam 6
1.2.1 Sự ra đời và mục tiêu của AFTA. 6
1.2.2 Nguyên tắc và các quy định chung về CEPT/AFTA. 9
1.2.3 Lịch trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam 13
Chương 2. Hội nhập CEPT/AFTA và tác động đối với Việt Nam. 15
2.1 Thương mại Việt Nam và ASEAN. 15
2.2 Một số vấn đề lớn và lộ trình thực hiện CEPT/AFTA
của Việt Nam 19
2.3 Tác động của CEPT/AFTA đến nền kinh tế Việt Nam. 27
2.4 Đánh giá chung đối với việc thực hiên CEPT/AFTA. 35
2.4.1 Những thuận lợi và cơ hội có được khi thực hiện. 35
2.4.2. Những kết quả bước đầu. 37
2.4.3 cNhững khó khăn, thách thức phải đương đầu. 38
2.4.4 Kinh nghiệm thực tiễn từ việc hội nhập CEPT/AFTA. 40
2.5 Những nét mới gần đây nhất trong lộ trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam. 43
Chương 3. Giải pháp cho tiến trình hội nhập CEPT/AFTA của Việt Nam. 47
3.1 Các giải pháp thiết thực trước mắt. 47
3.1.1 Định hướng đầu tư phù hợp cho thị trường sản phẩm. 47
3.1.2 Nâng cao khả năng cạnh trạnh của doanh nghiệp trên thị trường nội địa và khu vực. 48
3.1.3 Mở rộng quy mô của doanh nghiệp theo hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế trên cơ sở CEPT/AFTA. 49
3.1.4 Cải thiện hệ thống thuế quan phù hợp và tăng cường nghĩa vụ của Hải quan. 51
3.1.5 Sự can thiệp cần thiết của các Bộ, Ngành quản lý và Chính phủ. Các chính sách cần chú trọng trong dài hạn. 52
3.2 Nhìn nhận xu thế hội nhập CEPT/AFTA trong giai đoạn mới
của Việt Nam 53
3.3 Nhìn nhận xu thế hội nhập CEPT/AFTA trong giai đoạn mới của Việt Nam 57
Kết luận 61
Tài liệu tham khảo 62
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Tiến trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam: Thực trạng và Giải pháp
Lời mở đầu
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, chưa bao giờ lại có một sự hợp tác phát triển rộng rãi và nhiều tầng lớp như hiện nay, tạo nên một xu thế nổi bật trong quan hệ quốc tế hiện đại. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của quan hệ kinh tế đối ngoại đối với tăng trưởng kinh tế, chúng ta đang đẩy nhanh quá trình đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế. Khi ngày càng hoà nhập vào hệ thống kinh tế toàn cầu, chúng ta càng phải đối mặt với nhiều thách thức. Mặc dù thực trạng còn yếu kém nhưng tiềm năng tăng trưởng dài hạn của các quốc gia đang phát triển rất sáng lạn. Việc gia nhập ASEAN của Việt Nam với tư cách là thành viên đầy đủ là một trong những bằng chứng chứng minh cho xu hướng chung của thế giới.
ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng đã tham gia quá trình tự do hoá thương mại trên cơ sở phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu bằng việc thiết lập một khu vực mậu dịch tự do và cơ chế của nó là chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Việc thực hiện CEPT sẽ đưa Việt Nam lên vị trí mới trong nền kinh tế thế giới. Bởi CEPT là cơ sở tốt nhất để Việt Nam thực hiện tự do hoá thương mại, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và gắn chặt nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế thế giới. Tuy quá trình thực hiện CEPT đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ nhưng vẫn còn một số tồn tại cần được khắc phục và giải quyết khéo léo dựa trên kinh nghiệm và năng lực của quốc gia. Để thể hiện suy nghĩ của mình về vấn đề này, người viết xin trình bày đề tài “Tiến trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam: Thực trạng và Giải pháp”.
Bài viết được chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về lý luận thương mại quốc tế và CEPT/AFTA.
Chương 2: Hội nhập CEPT/AFTA và tác động đối với Việt Nam. Thuận lợi và khó khăn.
Chương 3 : Giải pháp cho tiến trình hội nhập CEPT/AFTA của Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu viết bài, chắc hẳn không tránh khỏi những thiếu sót về vấn đề này. người viết mong muốn nhận được những ý kiến và nhận xét của những người quan tâm để vấn đề được phân tích sâu rộng hơn.
Chương 1.
Khái quát chung về lý luận thương mại quốc tế và cept/afta.
1.1 Lý thuyết về Thương mại quốc tế (TMQT).
1.1.1 Nguyên tắc lợi thế so sánh và thương mại quốc tế
Nền thương mại giữa các quốc gia trên thế giới đã tồn tại một nguyên tắc mang tính sâu sắc nhất và nó đứng sau mọi hoạt động thương mại - đó là nguyên tắc lợi thế so sánh. Nguyên tắc này cho rằng: Một nước có thể thu lợi từ thương mại ngay cả khi nó có lợi thế tuyệt đối có hiệu quả hơn (hay tuyệt đối không hiệu quả bằng) các nước khác trong việc sản xuất hàng hoá. Đồng thời, nguyên tắc lợi thế so sánh phát biểu rằng: Mỗi nước sẽ có lợi nếu nó chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các hàng hoá mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp (tức là những hàng hoá mà nó tương đối có hiệu quả hơn các nước khác); ngược lại mỗi nước sẽ có lợi nếu nó nhập khẩu mà mình sản xuất với chi phí tương đối cao (tức là những hàng hoá mà nó tương đối hơn các nước khác)...
Nguyên tắc đơn giản này là cơ sở vững chắc đối với TMQT và nó được chứng minh trong các mô hình TMQT của các nhà kinh tế học nổi tiếng thế giới.
TMQT xuất hiện từ sự đa dạng hoá tự nhiên của nền sản xuất giữa các nước thông qua các mô hình TMQT của các nhà kinh tế học từ cổ điển, tân cổ điển cho đến hiện đại, có thể đi đến kết luận rằng các nước buôn bán với nhau hay vì họ khác biệt về các nguồn lực, về công nghệ, hay vì họ khác nhau về lợi thế kinh tế nhờ quy mô, hay vì cả hai lý do này. Từ xu hướng chuyên môn hoá sản xuất, họ có thể nhập khẩu những sản phẩm trong nước không có điều kiện sản xuất hay hiệu quả sản xuất thấp và xuất khẩu những sản phẩm có điều kiện thuận lợi, hiệu quả cao đồng thời kết hợp quan tâm đến nhu cầu thị trường quốc tế. Trong bất kỳ môi trường cạnh tranh nào, hoàn hảo hay không hoàn hảo, thương mại luôn mang lại lợi ích cho các nước tham gia và lợi ích này là tiềm tàng. Việc tiến hành thương mại tác động lên phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư trong nội bộ một nước và giữa các nước làm cho một bên lợi, một bên thiệt. Đây chính là nền tảng để các Chính phủ tham gia và điều tiết hoạt động thương mại.
1.1.2 Lập trường về TMQT xuất phát từ thực tế cơ cấu nền công nghiệp quốc gia
Trước hết, đứng trên quan điểm về kinh tế phát triển đối với thế giới thứ ba, “Vòng luẩn quẩn của sự cùng kiệt đói” của R.Nurkse – nhà kinh tế học nổi tiếng người Thuỵ Điển đã đưa ra một sự nhìn nhận mang tính chất khá mới mẻ và hoàn thiện về TMQT. Nó được ông mô tả như sau: “Xét về lượng cầu, việc thu hút đầu tư có thể bị thấp, nguyên nhân bởi sức mua của dân chúng và bị quy định bởi thu nhập thực tế thấp, thu nhập thực tế thấp lại do năng suất lao động thấp, năng suất lao động lại là kết quả của dung lượng vốn nhỏ bé được đưa vào sản xuất và đến lượt mình, tình trạng không đủ vốn trong sản xuất một phần do đầu tư ít ỏi gây ra”. Vì thế, ông cho rằng: “Quy mô thị trường quy định khối lượng trao đổi thương mại quốc tế”, một nước chậm phát triển, lạc hậu về trình độ công nghệ có thể làm ra hàng hoá gì để xuất khẩu, nếu thu nhập từ xuất khẩu là nhỏ bé thì chắc chắc rằng không thể có cân bằng về cán cân thương mại, cũng vì thế không có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng hay tích luỹ quá ít không đủ để đáp ứng cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thậm chí, ngay cả những trường hợp có thị trường trong nước rộng lớn như T.Quốc cũng không thể trở thành quốc gia giàu có nếu thi hành chính sách hạn chế TMQT để trở thành thị trường duy nhất. R.Nurkse đã minh hoạ điều đó bằng chế độ thuế quan nội bộ mà T.Quốc thi hành trong những năm đầu thế kỷ XX. Mặc dầu đến năm 1928, họ đã phải xoá bỏ chế độ này nhưng rút cuộc, T.Quốc vẫn là một trong những quốc gia cùng kiệt nhất thế giới. Để khẳng định lý giải của R.Nurkse, những dẫn chứng về sau này đặc biệt dễ thấy trường hợp Malaysia chuyển hướng thành công từ chuyên sản xuất nguyên liệu thô sang xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo càng minh hoạ rõ hơn quan niệm mà ông đã nêu ra từ thập kỷ 80.
Đối với các nước thuộc thế giới thứ ba, quy mô nhỏ hẹp của thị trường mà mức thu nhập thấp của tuyệt đại đa số gây ra trên thực tế cản trở quá trình công nghiệp hoá cũng như tăng trưởng kinh tế, rồi sau đó tác động đến khả năng thu hút vốn đầu tư cho các dự án kinh tế mở rộng. Từ đó, R.Nurkse đi đến kết luận rằng: các nước lạc hậu cần tiến hành công nghiệp hoá bằng cách tạo nguồn vốn từ bên ngoài, đồng thời khuyến khích tiết kiệm trong nước để xây dựng các dự án đầu tư theo hướng mở rộng khả năng trao đổi TMQT.
Bởi vậy, ông cho rằng một mặt các nước cùng kiệt phải thúc đẩy sự phát triển bên trong của họ. Mặt khác, các nước giàu phải tham gia vào quá trình này của các nước cùng kiệt để tạo ra “sự tăng trưởng cân bằng” trên quy mô thế giới – một cơ sở tốt cho TMQT hiện đại cũng như là con đường để lấp những lỗ hổng ở các nước “ngoại vi” (các nước thế giới thứ ba). Vậy là quan hệ thương mại bước đầu mà các nước thế giới thứ ba cần là phát triển buôn bán với các nước giàu chứ không phải với các nước nghèo. Những lợi ích đem lại cho các nước cùng kiệt trong mối quan hệ với các nước giàu nhiều hơn là giữa các nước nghèo.
Với hàm ý đồng tình với ý kiến trên, R.Nurkse đã kết luận bằng một câu dẫn của D.H.Robetson viết về vai trò của TMQT là: “Hơn tất cả, ngoại thương là động lực của sự tăng trưởng, nhưng là sự tăng trưởng bắt nguồn và lan toả từ các trung tâm công nghiệp đi trước”. Điều này cho thấy R.Nurkse đồng tình mạnh mẽ với xu hướng liên kết với thế giới bên ngoài để thúc đẩy công nghiệp hoá.
Tóm lại, dù rằng ở những mức độ nhấn mạnh khác nhau, các học giả phương Tây đã được đề cập đều đề cao vai trò của ngoài thương đối với các nước lạc hậu. Có thể việc mở rộng để phát triển TMQT không hẳn chỉ có động lực tích cực, mà bên cạnh đó còn ảnh hưởng tiêu cực. Nhưng rõ ràng lợi ích đạt được nhiều hơn tổn thất phải gánh chịu.
1.1.3 Nguyên lý tự do mậu dịch, bảo hộ mậu dịch trong TMQT hiện đại.
v Tự do hoá thương mại.
Xu hướng tự do hoá thương mại bắt nguồn từ quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới với những cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về bề rộng và bề sâu, vai trò của các công ty đa quốc gia được tăng cường, hầu hết các quốc gia chuyển sang xây dựng mô hình “kinh tế mới” với việc mở cửa và khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước. Tự do hoá thương mại đều đưa lại lợi ích cho mỗi quốc gia dù trình độ phát triển khác nhau nhiều hay ít và nó phù hợp với xu thế phát triển chung của nền văn minh nhân loại.
Nội dung của tự do hoá thương mại là Nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết để từng bước giảm thiểu những trở ngại trong hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong quan hệ mậu dịch quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc phát triển các hoạt động TMQT cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đương nhiên, tự do hoá thương mại trước hết nhằm thực hiện việc mở rộng quy mô xuất khẩu của mỗi nước cũng như đạt tới điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động nhập khẩu. Kết quả của tự do hoá thương mại là tạo điều kiện mở cửa thị trường nội địa để hàng hoá, công nghệ nước ngoài cũng như những hoạt động dịch vụ quốc tế dễ dàng xâm nhập vào thị trường nội địa đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Như vậy, tự do hoá thương mại đồng nghĩa với việc cần đạt tới một sự hài hoà giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
v Bảo hộ mậu dịch
Có nhiều nguyên nhân làm xuất hiện bảo hộ mậu dịch, nhưng cơ sở khách quan của xu hướng này là sự phát triển không đều và sự khác biệt trong điều kiện tái sản xuất giữa các quốc gia, do sự chênh lệch về khả năng cạnh tranh giữa các công ty trong nước và công ty nước ngoài cũng như các nguyên nhân lịch sử để lại. Bên cạnh đó còn có các lý do về chính trị và xã hội cũng đưa đến yêu cầu bảo hộ mậu dịch.
Xu hướng này xuất hiện ngay từ khi hình thành và tiếp tục được củng cố trong quá trình phát triển của nền TMQT với các công cụ hành chính, các biện pháp kỹ thuật khác nhau. Mục tiêu của bảo hộ mậu dịch là bảo vệ thị trường nội địa trước sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các luồng hàng hoá từ bên ngoài, cũng tức là bảo về lợi ích quốc gia. Cho đến nay vẫn còn nhiều lý lẽ khác nhau để bảo vệ cho chế độ bảo hộ mậu dịch như: để bảo vệ “các ngành công nghiệp non trẻ”, tạo điều kiện để chúng trưởng thành và chống lại sự cạnh tranh ở bên ngoài; để tạo nên các nguồn “tài chính công cộng” tức là đảm bảo nguồn thu cho Chính phủ trong việc cung cấp các hàng hoá công cộng và các chi phí khác; để khắc phục một phần “tình trạng thất nghiệp” hay tạo việc làm cho các lao động trong nước thông qua mở rộng sản xuất các loại sản phẩm có thể thay thế hàng nhập khẩu; và để “phân phối lại thu nhập” làm dịch chuyển một phần thu nhập của những người tiêu dùng giàu có sang cho những người sản xuất hàng hoá đáp ứng được sự thay thế hàng hoá nhập khẩu.
Tuy nhiên, việc thực hiện các biện pháp và chính sách theo chế độ bảo hộ mậu dịch thường không đem lại hiệu quả như các lý lẽ trên đề cập đến và còn tồn tại những hạn chế do các điều kiện thực tiễn khác nhau đòi hỏi trong mỗi quốc gia. Hơn nữa, về nguyên tắc thì hai xu hướng bảo hộ mậu dịch và tự do hoá thương mại đối nghịch với nhau và chúng gây nên tác động nhau đến hoạt động TMQT. Nhưng hai xu hướng này không bài trừ nhau mà trái lại, chúng thống nhất với nhau – một sự thống nhất giữa hai mặt đối lập. Trong thực tế, chúng song song tồn tại và được sử dụng một cách hài hoà.
Do vậy, tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, tuỳ theo điều kiện và đặc điểm cụ thể mà người ta sử dụng và kết hợp khéo léo giữa hai xu hướng trên với những mức độ khác nhau ở từng lĩnh vực kinh tế. Mặc dù, các nhà kinh tế đã chứng minh rằng thương mại tự do đem lại lợi ích tối đa cho dân tộc bằng các lý thuyết thương mại, song thực tế đã khẳng định rằng chế độ này là không khả thi. Các Chính phủ có nhiều lý do khác nhau để bảo hộ cho sự tồn tại của chính sách thương mại, chúng thường liên quan đến chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và mức độ ổn định chính trị quốc gia. Thông qua các công cụ như thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, hàm lượng nội địa của sản phẩm .. ., sự tồn tại của chính sách thương mại tạo nên một tác động mang tính hai mặt cho nền kinh tế. Một mặt, nó có thể tác động đến việc phân bổ các nguồn lực trong dài hạn, đóng góp vào nguồn thu ngân sách, nhưng mặt khác nó lại tạo ra những tổn thất về mặt phúc lợi cho xã hội. Một sự vận dụng phù hợp các công cụ bảo hộ mậu dịch là sự bảo hộ có chọn lọc và có điều kiện, gắn liền với không gian và thời gian nhất định. Công cụ bảo hộ không chỉ mang tính tự vệ, hỗ trợ các ngành sản xuất trong nước trong quá trình cạnh tranh với hàng hoá từ bên ngoài mà còn phải tạo điều kiện cho các ngành sản xuất trong nước vươn lên cạnh tranh thắng lợi không chỉ ở thị trường nội địa mà còn trên thị trường nước ngoài. Điều này có nghĩa là phải vận dụng các công cụ bảo hộ mậu dịch một cách tích cực và năng động, đồng thời thực hiện bảo hộ phải gắn liền với quá trình tự do hoá thương mại đạt được trong các quan hệ quốc tế.
1.2 Chương trình CEPT/AFTA và tình hình thực hiện của Việt Nam
1.2.1 Sự ra đời và mục tiêu của AFTA
v Bối cảnh ra đời.
Bước vào thập kỷ 90, môi trường chính trị quốc tế có nhiều chuyển biến quan trọng. Trên bình diện thế giới, chiến tranh lạnh kết thúc, toàn cầu hoá kinh tế quốc tế đang diễn ra sâu rộng tác động mạnh đến các nền kinh tế và nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc
đói giảm cùng kiệt và giải quyết về cơ bản việc làm cho người lao động; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả; tạo điều kiện để nước ta tiến nhanh và vững chắc hơn, đến khoảng năm 2020 về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hoạt động xuất nhập khẩu trong 10 năm tới cần phục vụ trực tiếp cho mục tiêu chung nói trên với nội dung cơ bản là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu, bảo đảm nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, áp dụng công nghệ mới để tăng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý; mở rộng và đa dạng thị trường và cách kinh doanh, hội nhập thắng vào kinh tế khu vực và thế giới. Chớp thời cơ thuận lợi tạo ra sự phát triển đột biến, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa kinh tế nước ta và các nước trong khu vực.
Tóm lại, như đã đề cập ở phần trên, xét trên tổng thể chiến lược “hướng tới xuất khẩu”, mở rộng quan hệ thương mại với tất cả các khu vực, các nước, các lĩnh vực, không hạn chế về địa lý, thể chế chính trị với chính sách cụ thể là “đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường” . . . giữ vai trò hết sức quan trọng trong chính sách ngoại thương của các nước Châu á. Đó không chỉ là nền tảng vững chắc mà còn là động lực, phương tiện, công cụ hiệu quả, góp phần vào thành công trong phát triển kinh tế của khu vực.
Kết luận
Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, tầm quan trọng của các quan hệ đối ngoại ngày càng tăng. hội nhập kinh tế thế giới và khu vực đã trở thành hiện thực đối với các quốc gia trên thế giới. Đồng thời tự do hoá thương mại đang ngày càng trở thành một tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia và là yếu tố cơ bản của hội nhập. Đối với các quốc gia phát triển như Việt Nam, chiến lược hướng về xuất khẩu đang tỏ rõ ưu thế và cần thiết hơn bao giờ hết trong nền kinh tế.
Quá trình thực hiên CEPT/AFTA không chỉ tạo cơ sở cho Việt Nam tận dụng được những cơ hội đáng quý và thách thức phải đương đầu trong việc thực hiện thương mại tự do. Chương trình này còn giúp Việt Nam từng bước tiến sâu thêm trên con đường hội nhập với nền kinh tế thế giới như gia nhập tổ chức WTO.
Cần khẳng định rõ ràng rằng, chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới phải hướng về xuất khẩu, nhấn mạnh vào phát triển các ngành nghề mà sản phẩm có thể xuất khẩu được. Chiến lược này đòi hỏi chúng ta phải xác định chính xác các lợi thế tương đối của đất nước. Cần nhận thức rõ ràng rằng, càng chậm trễ trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực bao nhiêu thì càng bất lợi cho sự tăng trưởng kinh tế, cho công cuộc CNH-HĐH đất nước bấy nhiêu. chúng ta không thể đứng ngoài mà phải chủ động tích cực thực hiện các trách nhiệm của chúng ta trong khuôn khổ AFTA, coi đó như bước chuẩn bị cho sự tham gia các tổ chức thương mại quốc tế rộng lớn hơn như APEC, WTO…
Tài liệu tham khảo
1. Ari Kokko, Quản lý quá trình chuyển sang chế độ Thương mại tự do, Chính sách thương mại của Việt Nam cho thế kỷ 21, NXB Chính trị quốc gia, 1997.
2. Báo Thương mại, số 1+2/2003.
3. Báo Đầu tư chứng khoán số 161, 6/1/2003.
4. Giáo trình kinh tế học quốc tế, NXB Thống kê, 1999.
5. GS. Tô Xuân Dân, PGS. Đỗ Đức Bình (chủ biên), Hội nhập với AFTA: cơ hội và thách thức, NXB Thống kê, 1997.
6. GS.TS Baladas Ghoshal, ASEAN bước vào thế kỷ 21: những thách đố trước mắt, 1997.
7. Lựa chọn sản phẩm và thị trường trong ngoại thương thời kỳ CNH của các nền kinh tế Đông á, NXB Chính trị quốc gia, 2000.
8. Michael P. Todaro, Kinh tế học cho thế giới thứ ba, NXB Giáo dục, 1998.
9. Niên giám thống kê 2000.
10. Niên giám thống kê 2001, 2002.
11. Nguyễn Minh Tân, Võ Thành Hưng, Hội nhập ASEAN, thúc đẩy hàng rào thuế quan-cơ hội và những thách thức, Thông tin KHTC, 3/1996.
12. P.A.Samuelson, W.D. Nordhans, Kinh tế học, NXB Chính trị quốc gia, 1997
13. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Sổ tay Hội nhập kinh tế thế giới, 11/1999.
14. PTS. Vũ Đức Đam, Chương trình thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam, Văn phòng Uỷ ban quốc gia về ASEAN, 1996.
15. PTS. Hoàng Thị Thanh Nhàn, ASEAN-Tổ chức hợp tác khu vực,1997.
16. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á, 6/1999.
17. Tạp chí Tài chính,3/1996.
18. Thời báo kinh tế Việt Nam số 57, 11/5/2001.
19. Thời báo kinh tế Việt Nam 2001-2002:Việt Nam và thế giới.
20. Thời báo kinh tế, 2/2002.
21. Thông tấn xã Việt Nam, Tầm nhìn 2020 của ASEAN, 29/12/1997.
22. ThS. Nguyễn Thanh Hà, Giải pháp cho AFTA:Thúc đẩy hội nhập kinh tế trong khu vực, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Đại học KTQD, số 61,7/2002.
23. ThS. Nguyễn Thanh Hà, Việt Nam và AFTA. Vị trí của chúng ta và những giải pháp cần thực hiện Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Đại học KTQD,số đặc san, 4/1998.
24. ThS. Lê Thị Anh Vân, Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Đại học KTQD, NXB Lao động, Hà Nội, 2003.
25. TS. Trần Cao Thành, ASEAN thực hiện và mở rộng khu vực thương mại tự do, Viện nghiên cứu Đông Nam á, số 2/2002.
26. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
27. Võ Thanh Thu(chủ biên), Quan hệ Thương mại - Đầu tư giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN, NXB Thống kê, 1998.
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương 1. Khái quát chung về lý luận thương mại quốc tế (TMQT) và CEPT/AFTA 2
1.1 Lý thuyết về TMQT 2
1.1.1 Nguyên tắc lợi thế so sánh và TMQT. 2
1.1.2 Lập trường về TMQT xuất phát từ thực tế cơ cấu nền công nghiệp quốc gia 3
1.1.3 Nguyên lý tự do mậu dịch, bảo hộ mậu dịch. 4
1.2 Chương trình CEPT/AFTA và tình hình thực hiện của Việt Nam 6
1.2.1 Sự ra đời và mục tiêu của AFTA. 6
1.2.2 Nguyên tắc và các quy định chung về CEPT/AFTA. 9
1.2.3 Lịch trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam 13
Chương 2. Hội nhập CEPT/AFTA và tác động đối với Việt Nam. 15
2.1 Thương mại Việt Nam và ASEAN. 15
2.2 Một số vấn đề lớn và lộ trình thực hiện CEPT/AFTA
của Việt Nam 19
2.3 Tác động của CEPT/AFTA đến nền kinh tế Việt Nam. 27
2.4 Đánh giá chung đối với việc thực hiên CEPT/AFTA. 35
2.4.1 Những thuận lợi và cơ hội có được khi thực hiện. 35
2.4.2. Những kết quả bước đầu. 37
2.4.3 cNhững khó khăn, thách thức phải đương đầu. 38
2.4.4 Kinh nghiệm thực tiễn từ việc hội nhập CEPT/AFTA. 40
2.5 Những nét mới gần đây nhất trong lộ trình thực hiện CEPT/AFTA của Việt Nam. 43
Chương 3. Giải pháp cho tiến trình hội nhập CEPT/AFTA của Việt Nam. 47
3.1 Các giải pháp thiết thực trước mắt. 47
3.1.1 Định hướng đầu tư phù hợp cho thị trường sản phẩm. 47
3.1.2 Nâng cao khả năng cạnh trạnh của doanh nghiệp trên thị trường nội địa và khu vực. 48
3.1.3 Mở rộng quy mô của doanh nghiệp theo hướng chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế trên cơ sở CEPT/AFTA. 49
3.1.4 Cải thiện hệ thống thuế quan phù hợp và tăng cường nghĩa vụ của Hải quan. 51
3.1.5 Sự can thiệp cần thiết của các Bộ, Ngành quản lý và Chính phủ. Các chính sách cần chú trọng trong dài hạn. 52
3.2 Nhìn nhận xu thế hội nhập CEPT/AFTA trong giai đoạn mới
của Việt Nam 53
3.3 Nhìn nhận xu thế hội nhập CEPT/AFTA trong giai đoạn mới của Việt Nam 57
Kết luận 61
Tài liệu tham khảo 62
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Last edited by a moderator: