daigai

Well-Known Member
LInk tải miễn phí tài liệu ôn tập cho ae
TIỂU LUẬN KINH TẾ QUỐC TẾ
Đề tài: Tác động của các xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới đến Việt Nam đưa lại cho Việt Nam những cơ hội, thách thức như thế nào trong việc hoạch định, tổ chức thực hiện các chính sách kinh tế của Việt Nam.
Nền kinh tế thế giới ngày nay đang chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố khác nhau, cả nhân tố kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị cũng như các nhân tố tự nhiên. Sự vận động của nền kinh tế thế giới cũng diễn ra với nhiều xu thế khác nhau, thậm chí chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Từ những năm 80 của thế kỷ XX cho tới thế kỉ XXI, nền kinh tế thế giới vẫn vận động theo bốn xu thế chính và ngày càng trở nên đa dạng, sâu sắc hơn. Trong bài tiểu luận này, nhóm 4 sẽ đi đến trình bày những cơ hội cũng như thách thức của Việt Nam dưới tác động của 4 xu thế trên cũng như đưa ra một số giải pháp kiến nghị.
Xu hướng 1: Cách mạng khoa học & công nghệ diễn ra như vũ bão làm cho từng quốc gia có những thay đổi đột biến.
Cuộc cách mạng khoa học & công nghệ trên thế giới tiếp tục phát triển với nhịp độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột phá, khó dự báo trước và có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người.
Nhờ những thành tựu to lớn của khoa học & công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v..., xã hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ từng trường hợp phần lớn vào năng lực khoa học & công nghệ. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn, có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
Thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các doanh nghiệp biết lợi dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài chính và khoa học & công nghệ, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đang nắm giữ và chi phối thị trường các công nghệ tiên tiến.
Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ thân môi trường; đẩy mạnh chuyển giao những công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các nước đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển dành ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực khoa học & công nghệ trình độ cao, tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ, nhất là một số hướng công nghệ cao chọn lọc; tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - truyền thông; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và thu hẹp khoảng cách phát triển.
Cơ hội
Đảng và Nhà nước luôn coi trọng sự nghiệp phát triển khoa học & công nghệ, Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định phát triển khoa học & công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ nhất, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, nước ta có cơ hội thuận lợi để tiếp thu tri thức khoa học, công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của nước ngoài để nhanh chóng tăng cường năng lực khoa học & công nghệ quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học & công nghệ hiện đại, nước ta có thể đi thẳng vào những công nghệ hiện đại để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và khoảng cách phát triển kinh tế so với các nước đi trước. Với tiềm năng trí tuệ dồi dào, nếu có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực đúng đắn, nước ta có thể sớm đi vào một số lĩnh vực của kinh tế tri thức.
Thứ ba, quá trình đổi mới đất nước đã tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển khoa học và công nghệ của nước ta trong thời gian tới. Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục trong thời gian qua là điều kiện thuận lợi để tăng đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ, đồng thời thúc đẩy đổi mới công nghệ và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong nền kinh tế, nhất là trước sức ép về cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế.
Thách thức
Thứ nhất, Việt Nam là nước nghèo, vốn đầu tư hạn hẹp, trình độ phát triển kinh tế và khoa học và công nghệ còn có khoảng cách khá xa so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Trong khi bối cảnh phát triển năng động và khó dự báo cả về khoa học & công nghệ và kinh tế của thế giới hiện đại, khả năng nắm bắt thời cơ và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài tuỳ từng trường hợp nhiều vào trình độ và năng lực khoa học và công nghệ của quốc gia. Do đó, chúng ta chưa nâng cao được năng lực và tận dụng được lợi thế của khoa học và công nghệ từ các nước đi trước.
Thứ hai, nguồn nhân lực giá rẻ, tay nghề thấp. Trong khi xu thế phát triển của thế giới là nền kinh tế tri thức, lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ dần nhường chỗ cho lợi thế về nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực sáng tạo. Nước ta nếu không sớm chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của lực lượng lao động thì sẽ không có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực về thu hút đầu tư và các công nghệ tiên tiến từ bên ngoài.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập quốc tế về kinh tế và khoa học & công nghệ, nước ta đang đứng trước những khó khăn về chuyển đổi và xây dựng những thể chế mới về kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, sở hữu trí tuệ, v.v... phù hợp với thông lệ quốc tế. Tình trạng này nếu không sớm vượt qua sẽ cản trở sự thành công của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Trước những cơ hội và thách thức trên đây, nếu không có những quyết sách đột phá về đổi mới thể chế kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ, những biện pháp mạnh mẽ tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và khoa học & công nghệ ngày càng xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào nguồn công nghệ nhập là khó tránh khỏi.
Xu hướng 2: Toàn cầu hóa, khu vực hóa, quốc tế hóa đời sống kinh tế chính trị của thế giới và quốc gia đang diễn ra với tốc độ quá nhanh và quy mô rất lớn, phạm vi rất rộng
Toàn cầu hóa là kết quả tất yếu của sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trong các nền kinh tế riêng biệt, từ đó quá trình này dẫn đến sự phá vỡ biệt lập của từng quốc gia, tao ra mối liên hệ gắn kết, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên quy mô toàn cầu trong sự vận động, phát triển. Kinh tế thị trường khẳng định được ưu thế của mình và phát tán ra nhiều quốc gia trên thế giới. Nó tạo động lực phát triển và mở rộng quan hệ giữa các quốc gia, trước hết là các quan hệ kinh tế, sau đó tới các quan hệ khác như chính trị, văn hóa…. Hệ thống kinh tế thị trường ngày càng phát triển theo hướng mở và không bị giới hạn bởi các đường biên giới và ranh giới dân tộc, chủng tộc và tôn giáo. Đó là môi trường thuận lợi cho quá trình tự nhiên xích lại gần nhau của các cộng đồng dân cư trên toàn thể thế giới.
Toàn cầu hóa tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội. Nó tác động mạnh đến quá trình dân chủ hoá trong lĩnh vực tài chính và vốn đầu tư quốc tế, mở ra khả năng thực tế cho quá trình dân chủ hoá trong việc tiếp cận và tiếp nhận các công nghệ mới, dân chủ hoá thông tin, phản ánh một quá trình mà thông quá đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang trở nên ngày càng phụ thuộc lẫn nhau. Tác động của các hành vi kinh tế toàn cầu dẫn tới hệ lụy của hệ thống chính trị thế giới, ngược lại chính trị có tác động to lớn đối với kinh tế. Toàn cầu hóa ngày nay về bản chất chính là sự tăng trưởng của hoạt động kinh tế nói chung đã vượt khỏi biên giới quốc gia và khu vực.
Tác động của toàn cầu hoá hiện nay đến quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội diễn ra cả theo hướng tích cực lẫn theo hướng tiêu cực, vừa tạo cơ hội cho sự phát triển, sự tiến bộ, vừa làm nảy sinh không ít những thách thức mà thế giới nói chung và riêng Việt Nam nói riêng phải đối mặt và sớm tìm cách giải quyết để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Cơ hội
Thứ nhất, toàn cầu hoá, khu vực hoá, quốc tế hoá đời sống làm cho phát triển kinh tế được trọng tâm, mở rộng hội nhập, tăng cường hợp tác, tham gia vào liên minh khu vực và thế giới. Vì thế mà chúng ta một mặt có thể phát huy được lợi thế so sánh, thúc đẩy việc tham gia phân công lao động quốc tế, tranh thủ lợi ích của việc phân bổ nguồn tài lực hợp lý, bên cạnh đó có thể thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, giúp cho nước ta có thể khai thác nguồn đầu tư khoa học – công nghệ từ các nước khác theo phương châm đi tắt, đón đầu, rút ngắn thời gian xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ hai, nó thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương mại và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra khả năng thực thi các luật lệ kinh tế khách quan trong một không gian toàn cầu rộng lớn, thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến với môi trường kinh doanh ở Việt Nam hơn.
Thứ ba, toàn cầu hoá tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hoá và tư tưởng rộng rãi giữa các nước trong khu vực và trên thế giới, làm cho con người xích lại gần nhau hơn
Thứ tư, toàn cầu hóa tạo nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng vốn, tạo điều kiện để đa dạng hóa các loại hình đầu tư, từ đó nâng cao hiệu qua vừa hạn chế rủi ro đầu tư..
Thách thức
Bên cạnh những ưu điểm, toàn cầu hoá đang đặt ra cho các nước trên thế giới nói chung và Việt nam nói riêng những thách thức và nguy cơ hết sức to lớn:
Thứ nhất, toàn cầu hoá làm cho chúng ta phải đối mặt với những vấn đề chung trong sự phát triển kinh tế quốc gia, như những vấn đề sinh thái, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, vấn đề dân số và sức khoẻ cộng đồng, sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế vì thế mà vấn đề đặt ra cần giải quyết của toàn cầu hoá, khu vực hoá, quốc tế hoá đó là phải bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Thứ hai, thách thức nghiêm trọng của toàn cầu hoá chính là với chủ quyền quốc gia. Sự hội nhập về kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội nhập về chính trị. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc được coi trọng và chú ý hơn là sự độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó. Có thể nói, không có và không thể có một quốc gia đứng độc lập hoàn toàn tách biệt khỏi với thế giới bên ngoài trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Thứ ba, ở mỗi quốc gia, sự "phân phối" lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều. Ở Việt Nam cũng thế, toàn cầu hóa khiến cho một bộ phận dân cư được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá giàu cùng kiệt sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng: "Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển".
Xu hướng 3: Nền kinh tế thế giới đang chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ biệt lập tách biệt sang hợp tác để tạo ra sự ổn định tương đối cùng phát triển
Ngày nay, phần lớn các quốc gia phụ thuộc vào nước ngoài để bổ xung nguồn cung ứng nguyên liệu và lương thực, thực phẩm sống còn khác. Những thoả thuận của GATT: Xem xét lại các hàng rào thuế quan,... là những ranh giới kinh tế của một nước, nó kìm hãm và là trở ngại cho sự phát triển thương mại quốc tế. Những thách thức chiến lược chủ yếu lâu dài đã dịch chuyển từ bàn cờ địa lý chính trị sang bàn cờ địa lý kinh tế. Ranh giới về kinh tế giữa các quốc gia xét về tổng thể mà nói đã bị mờ nhạt. Nhiều quan hệ mới về kinh tế nổi lên giữa các nước đan xen chặt chẽ với nhau tạo thành tổng thể của nền kinh tế thế giới. Mọi tranh chấp về lợi ích đều được hoá giải bằng thương lượng kinh tế.
Các tổ chức kinh tế, tài chính như IMF, WB, G8 (Câu lạc bộ những nước công nghiệp phát triển), London club, Paris club,... đã đứng ra làm người giúp đỡ trực tiếp hay gián tiếp tác động đến mọi nền kinh tế của các nước để hướng các quốc gia này về một kiểu kinh tế thị trường toàn cầu nhằm phục vụ lợi ích cho tất cả các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Các quan hệ kinh tế nổi cộm lên vẫn là quan hệ giữa các nước phát triển và đang phát triển. Các nước phát triển vốn có công nghệ và kinh nghiệm quản lý còn các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào, trẻ, có khả năng tiếp thu nhanh,... Quan hệ này bổ xung cho nhau tạo nên một môi trường kinh tế thế giới mới. Do đó, xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại, cùng hợp tác phát triển. Điều này đã đem lại nhiều cơ hội cũng như thách thức cho Việt Nam.
Cơ hội
Thứ nhất, Nền kinh tế thế giới chuyển từ đối đầu sang đối thoại, từ tách biệt sang hợp tác chính là cơ hội để Việt Nam thiết lập các mối quan hệ hài hòa cùng phát triển với các đối tác, bình thường hóa quan hệ với các quốc gia từng có mối quan hệ căng thẳng với Việt Nam như Mỹ, Trung Quốc.
Thứ hai, Là cơ hội để Việt Nam tìm kiếm các đối tác tin cậy dựa trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tận dụng các mối quan hệ hợp tác để thúc đẩy phát triển kinh tế.
Thứ ba, Quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, sự ra đời và lớn mạnh của các Hiệp hội, hiệp định trong khu vực cũng như toàn thế giới đã mang lại nhiều cơ hội phát triển cho các nước thành viên. Và Việt Nam cũng vậy, khi gia nhập ASEAN, WTO Việt Nam có cơ hội được tiếp cận với thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên, được hưởng những đặc quyền về thuế suất.
Thứ tư, Việt Nam đã đang và sẽ nhận được nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ của các bạn bè trên thế giới thông qua các khoản viện trợ không hoàn lại và viện trợ hoàn lại.
Thách thức
Thứ nhất, Cùng với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường khu vực và thế giới.
Thứ hai, Thách thức trong việc hoạch định chính sách, thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, thực hiện quản lý kinh tế minh bạch và hiệu quả.
Xu hướng 4: Khu vực châu Á – Thái Bình Dương là một khu vực có nhiều quốc gia rất năng động, có tốc độ phát triển kinh tế khá ổn định và đây là trung tâm văn minh của loài người
Sức hút khu vực Châu Á - Thái Bình Dương gồm nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ nằm phần lớn ở châu Á, các nước nằm trong vành đai Thái Bình Dương kéo dài từ châu Đại Dương đến Nga, vòng xuống phía tây châu Mỹ. Khu vực có ba quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới, bốn trong số những quốc gia đông dân nhất thế giới, ba cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới. Về chính trị, khu vực tập trung ba trong số năm Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, bảy trên mười cường quốc quân sự hàng đầu thế giới. Về quy mô kinh tế, tính riêng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của 21 nền kinh tế thành viên Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) chiếm 54% tổng GDP thế giới, tổng lượng hàng hóa và dịch vụ thương mại chiếm tới 44% thế giới. Bước vào thế kỷ 21 đến nay, châu Á - Thái Bình Dương luôn là khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Theo thống kê, giai đoạn 2007 - 2012, mặc dù tăng trưởng kinh tế toàn cầu đi xuống, tổng lượng kinh tế của các quốc gia mới nổi ở khu vực này lại tăng thêm gần 50%, tỷ trọng trong nền kinh tế thế giới cũng gia tăng.
Với đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và tiềm năng phát triển to lớn, khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục trở thành trọng tâm địa chính trị toàn cầu trong thế kỷ 21.
Như vậy, với vị trí địa lý nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội cũng như thách thức trong việc hoạch định và thực thi các chính sách kinh tế.

Thứ năm, Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Thứ sáu, Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án. Các dự án đầu tư xây dựng mới phải bảo đảm yêu cầu về môi trường. Khắc phục suy thoái, bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái, nâng cao chất lượng môi trường. Quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, nước, khoáng sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Hạn chế và tiến tới không xuất khẩu tài nguyên chưa qua chế biến. Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, phát triển các dịch vụ môi trường, xử lý chất thải.


Link Download bản DOC
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:

 
Các chủ đề có liên quan khác

Các chủ đề có liên quan khác

Top