Link tải miễn phí Luận văn: Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc (Qua các tác phẩm của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Huy Thiệp) : Luận văn ThS. Văn học: 60 22 32
Nhà xuất bản: ĐHKHXH & NV
Ngày: 2009
Chủ đề: Dân tộc miền núi
Lý luận văn học
Truyện ngắn
Miêu tả: 121 tr. + CD-ROM
Luận văn ThS. Lý luận văn học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009
Nghiên cứu truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc trong bức tranh truyện ngắn đương đại. Tìm hiểu hình tượng cuộc sống và con người các dân tộc miền núi phía Bắc qua truyện ngắn của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp được thể hiện qua: thế giới thiên nhiên, thế giới nhân vật và qua các đặc trưng văn hóa dân tộc. cách biểu hiện: kết cấu và cốt truyện, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ và giọng điệu
Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………..
8
5. Mục đích, ý nghĩa đóng góp của luận văn ……………………………...
8
6. Cấu trúc luận văn ……………………………………………………….
9
Nội dung
Chương 1: Truyện ngắn về để tài dân tộc miền núi phía Bắc trong
bức tranh truyện ngắn đƣơng đại ………………………………………. 10
1.1. Truyện ngắn và những sự đổi mới trong điều kiện xã hội đương đại ... 10
1.1.1 - Những chuyển biến về nội dung, khuynh hướng phản ánh ……. 10
1.1.2. Khả năng mới trong việc thể hiện con người …………………… 16
1.1.3. Sự phong phú về hình thức nghệ thuật ………………………….. 18
1.2. Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc - những bức tranh
sinh động về không gian văn hóa và cuộc sống …………………………... 22
1.2.1. Khái quát về khu vực miền núi phía Bắc ……………………….. 22
1.2.2. Truyện ngắn về đề tài vùng núi phía Bắc và vấn đề truyền thống
- hiện đại …………………………………………………………………... 25
1.2.3. Những nét chấm phá về bức tranh đời sống văn hóa vùng núi
phía Bắc …………………………………………………………………… 36
Chương 2: Hình tƣợng cuộc sống và con ngƣời miền núi phía Bắc qua
truyện ngắn của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp ...... 40
2.1 - Thế giới thiên nhiên …………………………………………………. 42
2.1.1 - Thiên nhiên kỳ vĩ, nguyên sơ và bí hiểm ………………………. 42
2.1.2 - Thiên nhiên, “người bạn lớn” giao hòa với cuộc sống con người 45
3
2.2 - Thế giới nhân vật ……………………………………………………. 50
2.2.1 - Hình tượng những già làng, trưởng bản ………………………... 52
2.2.2 - Hình tượng tuổi trẻ và tình yêu ………………………………… 55
2.2.3 - Hình tượng người phụ nữ dân tộc thiểu số …………………….. 57
2.3 - Những đặc trưng văn hóa, phong tục ………………………………... 59
2.3.1 - Sự tương tác giữa văn hóa - văn học …………………………… 59
2.3.2 - Bức tranh về môi trường sống …………………………………. 61
2.3.3 - Đặc trưng văn hóa của người vùng cao ………………………... 66
Chương 2: Hình thức thể hiện …………………………………………... 70
3.1 - Kết cấu ………………………………………………………………. 71
3.1.1- Nghệ thuật dùng chi tiết ………………………………………… 71
3.1.2 - Nghệ thuật tạo tình huống ……………………………………… 73
3.1.3 - Tính chất cốt truyện ……………………………………………. 75
3.2 - Nghệ thuật trần thuật ………………………………………………… 76
3.2.1 - Người kể chuyện ……………………………………………….. 76
3.2.2 - Nghệ thuật miêu tả nhân vật …………………………………… 76
3.3 - Ngôn ngữ và giọng điệu ……………………………………………..
77
3.3.1 - Ngôn ngữ dung dị, độc đáo …………………………………….. 77
3.3.2 - Giọng điệu trần thuật khách quan, đa diện về điểm nhìn ………. 77
Kết luận …………………………………………………………………. 79
Tài liệu tham khảo ……………………………………………………. 81
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học viết về đề tài dân tộc miền núi nói chung, khu vực miền núi phía
Bắc nói riêng từ sau thời kỳ đổi mới đến nay đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, đáp ứng được phần nào nhu cầu thưởng thức của độc giả. Nhìn lại
quá trình vận động và phát triển của văn học, ta thấy rằng đội ngũ các nhà văn
tham gia sáng tác về đề tài dân tộc thiểu số miền núi nói chung, mảng đề tài về
dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng xuất hiện ngày càng đông đảo. Nếu như
trước đây chỉ có rải rác một số cây bút là người dân tộc như Hoàng Văn Thụ,
Nông Minh Châu, Nông Quốc Chấn (dân tộc Tày), Bàn Tài Đoàn (dân tộc
Dao), Cầm Biêu, Hoàng Nó, Lương Quy Nhân (dân tộc Thái) và một số cây
bút người Kinh như Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trung Trung
Đỉnh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp... thì hiện nay đã xuất hiện thêm
hàng trăm nhà văn thuộc nhiều dân tộc khác nhau cùng khai thác mảng đề tài
này. Đại diện cho thể loại văn xuôi có Cao Duy Sơn (dân tộc Tày - Cao Bằng),
Sa Phong Ba (dân tộc Thái - Sơn La), Địch Ngọc Lân (dân tộc Nùng - Yên
Bái), Hà Thị Cẩm Anh (Mường - Thanh Hóa), Đoàn Hữu Nam, Đỗ Bích Thúy
(Kinh)...
Những năm gần đây, trong hệ thống các giải thưởng của Hội Liên hiệp Văn
học Nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam chúng ta thấy có khá nhiều
tác phẩm văn học viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc đã giành được
những giải thưởng cao, được dư luận xã hội đón nhận nồng nhiệt. Đơn cử như:
tập thơ Đêm bên sông yên lặng, Chia trứng công của Dương Thuấn (giải B
Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2005, 2006); tập thơ Ngược
gió của Y Phương (giải B năm 2006); tiểu thuyết Đàn trời của Cao Duy Sơn
(giải B năm 2006); tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích
Thúy và Cơn mưa hoa mận trắng của Phạm Duy Nghĩa (đồng giải B năm
2006); tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối của Cao Duy Sơn (giải B năm
5
2008)... Có thể nói, những tác phẩm văn học này đã thực sự góp phần làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân trên các làng bản vùng cao,
trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng tài
năng và những trải nghiệm của mình, đội ngũ những tác giả tâm huyết với đề
tài dân tộc miền núi phía Bắc đã cho ra đời những tác phẩm hay, có nội dung
lành mạnh, mang tư tưởng nhân văn cao.
Thế nhưng, có một thực tế đáng trăn trở hiện nay là những tác phẩm văn
học viết về đề tài văn học dân tộc miền núi nói chung, đề tài dân tộc miền núi
phía Bắc nói riêng dù được giới chuyên môn đánh giá cao nhưng lại có ít độc
giả quan tâm, tìm đọc và hơn nữa hoạt động nghiên cứu về đối tượng này vẫn
còn để ngỏ, có chăng chỉ là những bài viết phê bình nhỏ lẻ đăng trên các tờ
báo chuyên ngành, thiếu hẳn tính toàn diện, hệ thống, chưa tương xứng với
đóng góp của đội ngũ các nhà văn đối với nền văn học nước nhà. Từ những
luận cứ đó, chúng tui thấy rằng, việc dành thời gian nghiên cứu các tác phẩm
viết về đề tài dân tộc miền núi là nhiệm vụ cấp thiết để làm sáng tỏ một số vấn
đề lí luận về quan niệm nghệ thuật, cảm hứng sáng tác, đề tài, chủ đề... của các
nhà văn.
Hơn nữa, việc nghiên cứu hệ thống văn học nói chung, các tác phẩm truyện
ngắn nói riêng về đề tài dân tộc miền núi còn mang ý nghĩa thời sự thực tiễn
nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước đang dành rất nhiều
quan tâm đến sự phát triển mọi mặt của các khu vực miền núi cả nước trong
đó có khu vực miền núi phía Bắc. Với công trình nghiên cứu này, mong muốn
lớn nhất của chúng tui đó là góp phần gợi ra một cách nhìn đầy đủ hơn về bức
tranh văn học đương đại nói chung, truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi nói
riêng. Hơn nữa, thông qua việc phân tích, nhận xét về những truyện ngắn của
cả 3 nhà văn, chúng tui có thể đưa ra thêm một số kiến giải mới về sự vận
động và phát triển của thể loại này giữa nhịp sống gấp gáp, hối hả của xã hội
hôm nay.
6
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước tới nay, các công trình, bài viết về truyện ngắn đề tài dân tộc
miền núi chưa nhiều, chưa phong phú, chưa đa dạng ở góc độ và phương diện
đề cập. Chỉ có một vài công trình được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu
như... Đó là những công trình thiên về tính chất tuyển chọn, bình, điểm những
tác giả tiêu biểu viết về mảng đề tài khá “hóc” này với những nét tiểu sử, các
tác phẩm chính và những truyện ngắn tiêu biểu. Bên cạnh đó cũng có một số
công trình viết dành riêng cho văn học miền núi nói chung, truyện ngắn về đề
tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng và đã có những Hội thảo về văn học
dân tộc thiểu số và miền núi (như vào dịp tháng 4/2004 tại Sa Pa, Lào Cai...).
Tuy nhiên, những nhận định, đánh giá đó chỉ dừng lại ở những thế hệ thứ nhất
(trước Cách mạng tháng Tám), thứ hai (trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ) còn đến thế hệ thứ ba đương đại thì thực sự rất hạn chế. Chúng ta
có thể kể kến một số công trình như: Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại do GS. Phong Lê chủ biên, NXB Văn hóa dân tộc, 1988 đã tập hợp
16 bài viết về 16 tác giả dân tộc thiểu số...; Hợp tuyển thơ văn các tác giả dân
tộc thiểu số Việt Nam 1954 - 1980, NXB Văn hóa, 1981 đã tập hợp những tác
phẩm tiêu biểu của 44 nhà thơ, 11 nhà văn và 5 tác giả kịch - sân khấu…
Truyện viết về đề tài dân tộc miền núi ngay từ giai đoạn trước Cách
mạng tháng Tám (1945) đã được một số nhà nghiên cứu như Hoài Thanh,
Trương Tửu, Lê Tràng Kiều, Vũ Ngọc Phan quan tâm, khảo sát ở một vài
bình diện thuộc về nghệ thuật. Trong các công trình nghiên cứu cũng như trên
các phương tiện báo chí, truyện về đề tài dân tộc miền núi của những tác giả
như Lan Khai, Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư được gọi bằng tên “truyện
đường rừng”. Trong tựa đề bài viết mang tên Ba nhà văn tả cảnh đăng trên
báo Loa, số 5/2935, nhà phê bình Trương Tửu đã gọi các nhà văn viết “truyện
đường rừng” là những “nhà văn mới mẻ” vì “đã cách mệnh lối tả cảnh trong
7
văn học Việt Nam hiện đại” ở nhiều bình diện và trước hết là thể tài “các ông
cùng rung động ngũ quan, sống bằng cảm giác. Bởi vậy, các ông thích tả
những cảnh cổ lỗ, những nhân vật thô sơ, man dã. Tài liệu viết của các ông là
rừng núi âm u, là Mán, Thổ, Sơn Nhân”...
Trên báo “Khuyến học” số 2 ngày 15 September 1935, trong bài viết
Tiểu thuyết và những nhà tiểu thuyết hiện nay, nhà nghiên cứu Lê Tràng Kiều
đã nhắc đến hàng loạt cây bút tiểu thuyết, trong đó đề cao “sự sáng tạo mãnh
liệt” của Thế Lữ và Lưu Trọng Lư ở thể tài dân tộc miền núi. Tác giả đề cao
tập “Vàng và máu” viết về miền núi “chứa chan thi vị” và rất tâm đắc với “trí
tưởng tượng rất dồi dào... dám viết những cảnh thần tiên huyễn hoặc” của Lưu
Trọng Lư.
Tiếp đó, trong bộ sách Nhà văn hiện đại (1942), nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Phan cũng dành nhiều trang viết cho các nhà văn viết về đề tài miền núi,
ở đó chỉ ra cả những ưu điểm và hạn chế của các tác giả, tác phẩm. Từ đó
chúng ta có thể thấy rằng, ngay từ trước năm 1945, một số cây bút lý luận, phê
bình đã quan tâm tới mảng sáng tác về miền núi và có những phát hiện ban
đầu về thành tựu của các nhà văn ở mảng hiện thực này, tuy vậy các nhà
nghiên cứu chưa đi sâu khảo sát vào bức tranh toàn cảnh của truyện viết về
miền núi mà chú ý nhiều hơn về những yếu tố kỳ ảo...
Một thời kỳ dài khoảng 30 năm từ 1945 đến 1975 do hoàn cảnh của
chiến tranh kéo dài nên mặc dù có khá nhiều các tác phẩm văn xuôi trong đó
có truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi nói chung, khu vực miền núi
phía Bắc nói riêng của các tác giả như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy
Tưởng, Ma Văn Kháng, Lương Quy Nhân, Hoàng Nó... nhưng việc nghiên
cứu bị gián đoạn. Các bài phê bình xuất hiện trong thời kỳ này hầu hết có
dung lượng ngắn để đăng trên các ấn phẩm báo chí dưới hình thức giới thiệu
tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa, giá trị tư tưởng của truyện ngắn
nhằm tuyên truyền phục vụ cho cuộc kháng chiến của dân tộc.
8
Từ khi đất nước thống nhất (năm 1975) và đặc biệt là sau công cuộc đổi
mới (năm 1986), cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn học dân tộc, nền lý
luận, phê bình của nước ta cũng có nhiều khởi sắc. Cùng với chính sách quan
tâm của Nhà nước đối với các vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới và hải đảo
thì những tác phẩm truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc cũng
được các nhà phê bình, lý luận dành thời gian và tâm sức nghiên cứu. Đặc biệt
trong giai đoạn này, sự xuất hiện của tên tuổi nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã
như một luồng gió mới khiến dư luận xôn xao một thời gian dài và từ đó trở đi
số lượng những công trình nghiên cứu về các tác phẩm của ông cũng nhiều
dần lên, có thể kể đến như: Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (NXB Văn hóa - Thông
tin, H, 2001), Nguyễn Huy Thiệp - tác phẩm và dư luận (NXB Trẻ, TP.HCM,
1990), Những cuộc tranh luận xung quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp
(khóa luận tốt nghiệp cử nhân Văn học), Hình tượng con người cô độc trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (luận văn thạc sĩ Ngữ văn), Hình tượng
người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (luận văn thạc sĩ Ngữ
văn)… Nếu chỉ tính riêng trong giới phê bình văn học, không kể đến những
bài báo nhỏ lẻ, có lẽ Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng gây nhiều tranh cãi nhất
trong suốt hai mươi năm cuối của thế kỷ XX. Ở tập sách Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp, chúng ta đã bắt gặp rất nhiều những tên tuổi uy tín như Hoàng Ngọc
Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Greg Lockhart, Lại Nguyên Ân… hay những nhà văn,
nhà thơ đứng đối chiều như Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu
Thỉnh... đều bình luận về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp dưới mọi góc độ
từ ngôn ngữ, hình ảnh, nhân vật đến kết cấu cốt truyện, giá trị nội dung, tư
tưởng. Ý kiến khen cũng nhiều, phản biện lại nhà văn cũng có nhưng xét về
tổng quan, tất cả những khía cạnh được các nhà phê bình đưa ra đều góp phần
khẳng định một phong cách truyện ngắn độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp. Với
những tác phẩm khác đặc biệt là các công trình khóa luận tốt nghiệp, luận văn
thạc sỹ của sinh viên và học viên cao học thì truyện ngắn của Nguyễn Huy
9
Thiệp lại được tiếp cận một cách sâu sắc, tỉ mỉ hơn từ những điểm nhìn khác
nhau về nghệ thuật lựa chọn, xây dựng tính cách nhân vật, cách thức sử dụng
ngôn ngữ, biểu tượng, phương pháp điển hình hóa đối tượng, nhân vật người
kể chuyện... Tuy nhiên có một khía cạnh mà tất cả những công trình, tác phẩm
nghiên cứu về Nguyễn Huy Thiệp chưa đề cập, hay chỉ giới thiệu thoáng qua
đó là đề tài về dân tộc miền núi phía Bắc trong các truyện ngắn của ông mà
chúng tui sẽ khai thác ở trong luận văn này.
Với Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy là hai nhà văn thuộc hai thế hệ gần
kề nhau và đều thành công nhờ những tác phẩm truyện ngắn viết về mảng đề
tài dân tộc miền núi phía Bắc. Có thể nói rằng các tác phẩm của hai tác giả
này đã giúp bạn đọc khám phá được rất nhiều về đặc trưng phong tục, tập
quán, văn hóa, lối sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng núi phía
Bắc. Tuy mới chỉ xuất hiện trên văn đàn trong khoảng 10 năm trở lại đây
nhưng tên tuổi của hai nhà văn Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy đã được khẳng
định và có vị trí trên văn đàn. Qua tìm hiểu, chúng tui thầy rằng, đa phần
những bài nghiên cứu, những ý kiến đánh giá tác phẩm của Cao Duy Sơn và
Đỗ Bích Thúy là những bài đăng trên các báo, tạp chí cũng như các chương
trình phát thanh, truyền hình mà chưa có một công trình quy mô hay một
cuốn sách chuyên khảo riêng biệt. Chúng ta có thể kể đến các bài viết nổi bật
như: Cao Duy Sơn - Đàn trời cất tiếng ca vang” (báo phát thanh VOV), Cao
Duy Sơn - Bông hoa sen đang ngát (Báo điện tử Evan), Cao Duy Sơn - Viết
văn là một cuộc viễn du về nguồn cội (Báo Thể thao Văn hóa)... hay Nhà văn
Đỗ Bích Thúy - Sự mềm mại quyết liệt (Báo An ninh Thế giới cuối tháng), Nhà
văn Đỗ Bích Thúy - Một người đã từng bị tước đi hạnh phúc sẽ biết gìn giữ nó
một cách tận tụy (Báo Điện tử ĐCSVN)... Những bài báo phê bình này đều có
dung lượng ngắn, đa phần là những bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn về vấn đề
nhân vật, hoàn cảnh ra đời cũng như thông điệp mà tác giả gửi gắm qua tác
phẩm. Cũng giống như trường hợp của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nghiên
10
cứu về truyện ngắn của Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy chưa có một công
trình quy mô, đầu tư theo chiều sâu tập trung vào mảng đề tài chủ lực của hai
tác giả này là đề tài về khu vực dân tộc miền núi phía Bắc.
Tóm lại: Ba nhà văn Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Huy
Thiệp bằng những tác phẩm cụ thể đã có những đóng góp không nhỏ cho nền
văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung, mảng truyện ngắn viết về đề tài dân
tộc miền núi phía Bắc nói riêng. Tuy vậy trong thực tế, các công trình, bài viết
của các tác giả trước đây mới chỉ dừng lại ở từng nhận xét về phương diện đề
tài, cách thức triển khai từng tác phẩm trong môi trường xã hội đương đại mà
chưa có những nghiên cứu sâu về phong cách, bút pháp nghệ thuật cũng như
hệ thống các tác phẩm của các nhà văn. Bởi vậy chúng tui xác định đây là
công trình nghiên cứu đầu tiên theo hướng toàn diện các truyện ngắn viết về
đề tài dân tộc miền núi phía Bắc của ba nhà văn này.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện công trình này chúng tui sẽ tập trung khảo sát, nghiên cứu
toàn bộ những truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc của: Cao
Duy Sơn là các tập truyện gồm: Người lang thang, Người săn gấu, Hoa mận
đỏ, Cực lạc, Những chuyện ở Lũng Cô Sầu, Hoa bay cuối trời, Ngôi nhà xưa
bên suối; Đỗ Bích Thúy là các tập truyện ngắn: Sau những mùa trăng; Những
buổi chiều ngang qua cuộc đời; Ký ức đôi guốc đỏ; Tiếng đàn môi sau bờ rào
đá và Nguyễn Huy Thiệp là 11 truyện trong Những ngọn gió Hua Tát, Những
người thợ xẻ, Sống dễ lắm, Muối của rừng, Tội ác và trừng phạt, Truyện tình
kể trong đêm mưa. Đồng thời khi cần thiết, chúng tui có thể liên hệ với những
tác phẩm viết cùng về đề tài này trước và sau đó.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Để có được cái nhìn tổng quan về các truyện ngắn của cả 3 tác giả, chúng
tui sử dụng phương pháp thống kê, phân loại tập hợp các truyện ngắn theo
từng chủ đề khác nhau.
11
- Tiếp đó, chúng tui dùng phương pháp phân tích, trích dẫn tác phẩm để
chứng minh cho từng luận điểm thuộc phạm vi đề tài. Từ việc khảo sát truyện
ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc chúng tui sẽ rút ra những thành công
và hạn chế trong sáng tác của từng tác giả.
- Phương pháp so sánh đồng đại, lịch đại được chúng tui sử dụng trong một
số tình huống để tìm ra những đặc điểm riêng trong truyện ngắn cùng một
phạm vi đề tài, thể loại của 3 nhà văn này so với các tác giả trước và sau đó.
- Phương pháp tổng hợp sẽ hỗ trợ chúng tui trong việc rút ra những đánh
giá, nhận định chung nhất về thành tựu cũng như đóng góp của từng nhà văn
cũng như của cả 3 nhà văn này về phương diện nội dung, nghệ thuật đối với
mảng đề tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng, nền văn học nước nhà nói
chung. Từ thực tiễn nghiên cứu, chúng tui sẽ rút ra một số vấn đề mang tính
chất lý luận làm kinh nghiệm cho những công trình nghiên cứu sau.
5. Mục đích, ý nghĩa đóng góp của luận văn
Từ việc nghiên cứu, khảo sát các truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền
núi phía Bắc của 3 nhà văn: Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Huy
Thiệp, tác giả công trình muốn tạo ra một góc nhìn đầy đủ hơn về văn xuôi nói
chung, truyện ngắn đương đại Việt Nam nói riêng
Công trình sẽ chỉ ra những thành tựu sáng tác của các nhà văn viết về mảng
đề tài dân tộc miền núi phía Bắc, về thế giới thiên nhiên, phong tục tập quán,
những hình tượng, số phận nhân vật tiêu biểu.
Chỉ ra con đường khám phá nghệ thuật, xây dựng cốt truyện, kết cấu, cách
xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật... của từng nhà văn.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn sẽ gồm 3
chương.
* Chương 1. Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc trong truyện
ngắn đương đại
12
* Chương 2. Hình tượng cuộc sống và con người các dân tộc miền núi phía
Bắc qua truyện ngắn của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp
* Chương 3. cách biểu hiện
13
CHƢƠNG 1
TRUYỆN NGẮN VỀ ĐỀ TÀI DÂN TỘC MIỀN NÚI PHÍA BẮC
TRONG BỨC TRANH TRUYỆN NGẮN ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Truyện ngắn và những sự đổi mới trong điều kiện xã hội đƣơng đại
Từ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm
mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong
phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà
văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn
ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được không
ít thành công trên nhiều phương diện...
1.1.1 - Những chuyển biến về nội dung, khuynh hướng phản ánh
Chúng ta đều biết rằng khi xem xét quá trình đổi mới văn học phải đặt
các tác phẩm trong tương quan giữa hình thức - nội dung, quá khứ - hiện tại,
bản thân tác giả - các thế hệ cùng thời và đương đại. Sự chuyển biến theo
hướng đổi mới để phát triển là một đòi hỏi tất yếu của bất kỳ một giai đoạn
văn học nào và chính đội ngũ các nhà văn ở mỗi thế hệ, mỗi thời kỳ đều nhận
diện cũng như ý thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ này.
Chiến thắng hào hùng năm 1975 mở ra một chặng đường mới cho dân
tộc Việt Nam, giai đoạn hòa bình, xây dựng, tái thiết đất nước. Chiến tranh đã
lùi vào quá khứ, tiếng kèn và cờ hoa thắng trận bớt rực rỡ, ồn ào. Sau một
quãng lùi lịch sử, một khoảng cách về thời gian, các truyện ngắn được sáng
tác trong thời kỳ này đã nhạt dần chất sử thi, bớt đi khí vị anh hùng cao cả mà
thay thế vào đó là giọng điệu thâm trầm, sâu lắng hơn với những sắc màu tình
cảm, cung bậc thể hiện và bình diện mới. Ở mọi thời đại, bao giờ nhân vật của
truyện ngắn cũng được đặt trong vô vàn các quan hệ và các bình diện như tập
thể - cá nhân, lý tưởng - hiện thực, tiền tuyến - hậu phương, sống - chết, được
- mất, cho - nhận, cống hiến - hưởng thụ, vì người - vì mình, lý tưởng chung số phận riêng, ra đi - trở về... Nếu trong chiến tranh, những con người ấy được
14
khai thác thiên về khía cạnh dân tộc, tập thể, lý tưởng, chiến trường, cống
hiến... thì trong thời bình, khám phá của các nhà văn đã nghiêng về trục đối
lập. Không gian trong các tác phẩm cũng được chuyển từ rộng sang hẹp, từ
không gian lịch sử sang không gian đời tư, từ chiến trường về cuộc sống
thường nhật. Cảm hứng của các cây bút cũng có bước thay đổi từ vĩ mô xuống
vi mô, từ cao xuống thấp, từ số phận chung của đất nước, dân tộc đến số phận
của những con người cụ thể. Trong các truyện ngắn đã xuất hiện với mật độ
dày đặc hơn tâm thế đối thoại của các nhân vật, nó chứng tỏ sự xuất hiện của
những quan niệm, tiêu chuẩn, thang bậc giá trị mới khác hoàn toàn trước đó.
Chẳng hạn khi các nhà văn viết về chiến tranh và cái chết đã không còn là sự
hồi sinh, thăng hoa mà là cả nỗi lạnh lẽo, cô đơn, một nỗi buồn chiến tranh
đeo đẳng. Tư thế của người chiến sĩ không còn cao vời vợi để người đời
ngưỡng vọng mà là chính bản thân của họ với ý thức cụ thể, rõ ràng về giá trị
của mình, sẵn sàng chối bỏ mọi ánh hào quang, hư danh để tìm chỗ đứng, vị
trí thật của mình... Trong rất nhiều truyện ngắn, ta bắt gặp phổ biến motip
người lính trở về với cuộc sống đời thường bộn bề, phức tạp và rắc rối. Từ vị
trí người anh hùng trong chiến trận trở thành người công dân, đối diện với sự
chuyển đổi khắc nghiệt nhưng tất yếu này, họ sẽ suy nghĩ và ứng xử ra sao?
Cái gì còn, cái gì mất, cái gì đã cho, cái gì sẽ nhận, điều gì sẽ xảy đến trong
tâm hồn họ... Sau chiến tranh là một cuộc sống hoàn toàn khác, những nhân
vật trong các truyện ngắn phải hiện diện với tư cách là những số phận cụ thể,
phải tự mình đương đầu cùng những thử thách khắc nghiệt của hoàn cảnh
sống thời hậu chiến với sự cùng kiệt đói, rách rưới, thiếu thốn và cả những tàn dư
của vết thương chưa lành.
Nếu trong chiến tranh, nhu cầu cao nhất của tất cả mọi người là độc lập,
tự do thì trong thời bình, khát vọng bức thiết nhất, quyết liệt nhất của họ lại là
đòi dân chủ. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, xã hội có những đổi thay mạnh
mẽ, con người hoang mang trước sự phức tạp của đời sống, sự đảo lộn của
15
những giá trị, những quan hệ chuẩn mực cũ. Càng ngày, các nhà văn càng phải
va chạm với một đời sống hiện thực không lý tưởng hóa mà hoàn toàn trần trụi
và điều đó được hiện lên rất rõ nét trong mỗi tác phẩm truyện ngắn. Đó là sự
nhận thức về nỗi đau có thực với những mất mát về con người, về tinh thần
luôn âm ỉ cháy. Đó còn là những cảm nhận về trạng thái xã hội đương đại với
những khiếm khuyết, băng hoại về môi trường và nhân cách, chứa đầy những
thông tin nhức nhối, xót xa về số phận của những con người cụ thể như người
vợ, người mẹ, người cha, người em... và có khi là của một người dưng tình cờ
gặp được. Truyện ngắn thời kỳ này đã phát triển khá mạnh mẽ và càng ngày
càng khẳng định được vị thế của mình trong việc phơi bày một cách chi tiết về
hiện thực xã hội thông qua những nỗi bất hạnh của nhân vật. Đó là sự thua
thiệt, khổ sở, đói nghèo, mòn mỏi, bất công, trốn chạy quá khứ, xa lánh cội
nguồn, suy thoái đạo đức, mơ ước lụi tàn, tài năng rơi rụng... Những vấn đề
“nóng bỏng” tính thời sự ấy được truyện ngắn truyền tải thông các nghịch lý
và các cặp mâu thuẫn như lý tưởng - hiện thực, chiến tranh - hòa bình, cũ mới, lừa dối - sự thật, hiện thực - mộng mơ, chân thực - giả dối, nhớ - quên,
được - mất, cho - nhận, khát khao - thất vọng, quá khứ - hiện tại, hy sinh - đền
đáp... Những quan hệ này tồn tại cùng trong một môi trường, một nhân vật,
một sự kiện tạo nên những tác phẩm đậm chất bi kịch.
Một điều đặc biệt đó là văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 lại phát triển
theo hướng khác với xu thế chung. Nếu theo hướng phổ biến thì nó sẽ phát
triển từ bút ký - truyện ngắn - tiểu thuyết còn văn học Việt Nam lại tiến theo
chiều bút ký - tiểu thuyết - truyện ngắn. Giai đoạn bút ký gắn liền với không
khí mới mẻ của cuộc sống những ngày đầu hòa bình có đầy đủ những mảng
màu sáng, tối, đặc biệt là những vấn đề gai góc, những câu hỏi bức thiết, trăn
trở. Chúng ta có thể kể tới chùm các tác phẩm như Cái đêm hôm ấy đêm gì của
Phùng Gia Lộc, Lời khai của bị can của Trần Huy Quang, Người đàn bà quỳ
của Nguyễn Văn Ba, Thủ tục để làm người sống của Minh Chuyên... Từ bút
16
ký chuyển sang tiểu thuyết tuy không theo hướng đi chung nhưng lại khá liền
mạch và phù hợp. Các nhà văn mới rời chiến trường chưa lâu, một cuộc sống
mới mở ra nhưng dư âm của quá khứ bi tráng và hiện tại nghiệt ngã cứ đan
xen, ám ảnh lẫn nhau. Chính hiện thực phong phú được phơi bày kết hợp với
vốn sống ngồn ngộn, đầy ắp đã được truyền tải và dung chứa trong các tiểu
thuyết như Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Thời xa vắng của Lê
Lựu, Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của
Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh... Điều dễ nhận
thấy là ở ngay những tiểu thuyết này chất bút ký báo chí vẫn còn khá “đậm
đặc”. Các sự kiện, nhân vật gần như là có thật trong đời sống hàng ngày mà
chưa được “gọt rũa” để nghệ thuật hóa một cách triệt để. Những hiện thực
phản ánh trong các cuốn tiểu thuyết đã được độc giả và người đời biết đến khá
rõ ràng, khi ấy nảy sinh nhu cầu muốn tìm đọc cái khác, cái chưa biết. Đó
chính là lúc truyện ngắn đến thời được quan tâm, chú ý, nhiều truyện ngắn
hay, nhiều tác giả mới xuất hiện. Có thể nói rằng, giai đoạn bút ký - tiểu
thuyết là cả một quá trình dài chuẩn bị cho truyện ngắn nở rộ với những tác
phẩm ngay khi mới xuất hiện đã tạo ra tiếng vang như Con thuyền ngoài xa,
Bức tranh, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Có một
đêm như thế của Nguyễn Thị Minh Thư, Anh Sức của Khuất Quang Thụy... và
sau đó là một loạt các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp...
Từ thời kỳ đổi mới trở đi được coi là giai đoạn cực thịnh của thể loại
truyện ngắn trong nền văn học nước ta. “Những phẩm chất thẩm mĩ tươi mới
chỉ có thể được nảy nở, phô sắc và kết đọng trong một môi trường văn hoá xã hội mới. Không ai còn có thể nghi ngờ gì nữa về vai trò của bối cảnh văn
hoá - xã hội Việt Nam kể từ thời kì đổi mới đối với sự phát triển dồi dào của
văn xuôi trong đó có truyện ngắn...” [3]. Bối cảnh mới thúc đẩy quá trình đổi
thay bởi vì trong lòng nó một hệ giá trị khác trước đã hình thành. Hệ giá trị
chuyển từ cao cả, đơn trị sang đời thường, đa trị. Không có căn cội này không
17
thể có quan niệm, cái nhìn mới về thế giới và tất yếu đã không có chuyển biến
cơ bản như ta đã thấy. Những năm sau đổi mới đến nay, cùng với sự thay đổi
lớn lao của đời sống văn học thể loại truyện ngắn gắn liền với các tên tuổi như
Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường,
Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo,
Hồ Anh Thái, Y Ban, Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy... không chỉ tăng nhanh về
số lượng mà còn đổi mới từ nội dung phản ánh đến hình thức thể hiện.
“Truyện ngắn là một cách đặt vấn đề bằng nghệ thuật trước nhu cầu tinh thần
của con người...” [53, tr.177]. Giữa thời đại bùng nổ thông tin hiện nay truyện
ngắn với những đặc trưng và thế mạnh vốn có của mình đã phát triển một cách
mạnh mẽ, giữ vững vai trò như “người lính xung kích” trên mặt trận văn học
nghệ thuật. Và để có thể làm tròn vai trò đó, các tác giả viết truyện ngắn luôn
có ý thức là phải làm thế nào để đến được với bạn đọc một cách nhanh chóng
và ngắn gọn nhất.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Nhà xuất bản: ĐHKHXH & NV
Ngày: 2009
Chủ đề: Dân tộc miền núi
Lý luận văn học
Truyện ngắn
Miêu tả: 121 tr. + CD-ROM
Luận văn ThS. Lý luận văn học -- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009
Nghiên cứu truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc trong bức tranh truyện ngắn đương đại. Tìm hiểu hình tượng cuộc sống và con người các dân tộc miền núi phía Bắc qua truyện ngắn của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp được thể hiện qua: thế giới thiên nhiên, thế giới nhân vật và qua các đặc trưng văn hóa dân tộc. cách biểu hiện: kết cấu và cốt truyện, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ và giọng điệu
Phương pháp nghiên cứu ………………………………………………..
8
5. Mục đích, ý nghĩa đóng góp của luận văn ……………………………...
8
6. Cấu trúc luận văn ……………………………………………………….
9
Nội dung
Chương 1: Truyện ngắn về để tài dân tộc miền núi phía Bắc trong
bức tranh truyện ngắn đƣơng đại ………………………………………. 10
1.1. Truyện ngắn và những sự đổi mới trong điều kiện xã hội đương đại ... 10
1.1.1 - Những chuyển biến về nội dung, khuynh hướng phản ánh ……. 10
1.1.2. Khả năng mới trong việc thể hiện con người …………………… 16
1.1.3. Sự phong phú về hình thức nghệ thuật ………………………….. 18
1.2. Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc - những bức tranh
sinh động về không gian văn hóa và cuộc sống …………………………... 22
1.2.1. Khái quát về khu vực miền núi phía Bắc ……………………….. 22
1.2.2. Truyện ngắn về đề tài vùng núi phía Bắc và vấn đề truyền thống
- hiện đại …………………………………………………………………... 25
1.2.3. Những nét chấm phá về bức tranh đời sống văn hóa vùng núi
phía Bắc …………………………………………………………………… 36
Chương 2: Hình tƣợng cuộc sống và con ngƣời miền núi phía Bắc qua
truyện ngắn của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp ...... 40
2.1 - Thế giới thiên nhiên …………………………………………………. 42
2.1.1 - Thiên nhiên kỳ vĩ, nguyên sơ và bí hiểm ………………………. 42
2.1.2 - Thiên nhiên, “người bạn lớn” giao hòa với cuộc sống con người 45
3
2.2 - Thế giới nhân vật ……………………………………………………. 50
2.2.1 - Hình tượng những già làng, trưởng bản ………………………... 52
2.2.2 - Hình tượng tuổi trẻ và tình yêu ………………………………… 55
2.2.3 - Hình tượng người phụ nữ dân tộc thiểu số …………………….. 57
2.3 - Những đặc trưng văn hóa, phong tục ………………………………... 59
2.3.1 - Sự tương tác giữa văn hóa - văn học …………………………… 59
2.3.2 - Bức tranh về môi trường sống …………………………………. 61
2.3.3 - Đặc trưng văn hóa của người vùng cao ………………………... 66
Chương 2: Hình thức thể hiện …………………………………………... 70
3.1 - Kết cấu ………………………………………………………………. 71
3.1.1- Nghệ thuật dùng chi tiết ………………………………………… 71
3.1.2 - Nghệ thuật tạo tình huống ……………………………………… 73
3.1.3 - Tính chất cốt truyện ……………………………………………. 75
3.2 - Nghệ thuật trần thuật ………………………………………………… 76
3.2.1 - Người kể chuyện ……………………………………………….. 76
3.2.2 - Nghệ thuật miêu tả nhân vật …………………………………… 76
3.3 - Ngôn ngữ và giọng điệu ……………………………………………..
77
3.3.1 - Ngôn ngữ dung dị, độc đáo …………………………………….. 77
3.3.2 - Giọng điệu trần thuật khách quan, đa diện về điểm nhìn ………. 77
Kết luận …………………………………………………………………. 79
Tài liệu tham khảo ……………………………………………………. 81
4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học viết về đề tài dân tộc miền núi nói chung, khu vực miền núi phía
Bắc nói riêng từ sau thời kỳ đổi mới đến nay đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, đáp ứng được phần nào nhu cầu thưởng thức của độc giả. Nhìn lại
quá trình vận động và phát triển của văn học, ta thấy rằng đội ngũ các nhà văn
tham gia sáng tác về đề tài dân tộc thiểu số miền núi nói chung, mảng đề tài về
dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng xuất hiện ngày càng đông đảo. Nếu như
trước đây chỉ có rải rác một số cây bút là người dân tộc như Hoàng Văn Thụ,
Nông Minh Châu, Nông Quốc Chấn (dân tộc Tày), Bàn Tài Đoàn (dân tộc
Dao), Cầm Biêu, Hoàng Nó, Lương Quy Nhân (dân tộc Thái) và một số cây
bút người Kinh như Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trung Trung
Đỉnh, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp... thì hiện nay đã xuất hiện thêm
hàng trăm nhà văn thuộc nhiều dân tộc khác nhau cùng khai thác mảng đề tài
này. Đại diện cho thể loại văn xuôi có Cao Duy Sơn (dân tộc Tày - Cao Bằng),
Sa Phong Ba (dân tộc Thái - Sơn La), Địch Ngọc Lân (dân tộc Nùng - Yên
Bái), Hà Thị Cẩm Anh (Mường - Thanh Hóa), Đoàn Hữu Nam, Đỗ Bích Thúy
(Kinh)...
Những năm gần đây, trong hệ thống các giải thưởng của Hội Liên hiệp Văn
học Nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam chúng ta thấy có khá nhiều
tác phẩm văn học viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc đã giành được
những giải thưởng cao, được dư luận xã hội đón nhận nồng nhiệt. Đơn cử như:
tập thơ Đêm bên sông yên lặng, Chia trứng công của Dương Thuấn (giải B
Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2005, 2006); tập thơ Ngược
gió của Y Phương (giải B năm 2006); tiểu thuyết Đàn trời của Cao Duy Sơn
(giải B năm 2006); tập truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đỗ Bích
Thúy và Cơn mưa hoa mận trắng của Phạm Duy Nghĩa (đồng giải B năm
2006); tập truyện ngắn Ngôi nhà xưa bên suối của Cao Duy Sơn (giải B năm
5
2008)... Có thể nói, những tác phẩm văn học này đã thực sự góp phần làm
phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân trên các làng bản vùng cao,
trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng tài
năng và những trải nghiệm của mình, đội ngũ những tác giả tâm huyết với đề
tài dân tộc miền núi phía Bắc đã cho ra đời những tác phẩm hay, có nội dung
lành mạnh, mang tư tưởng nhân văn cao.
Thế nhưng, có một thực tế đáng trăn trở hiện nay là những tác phẩm văn
học viết về đề tài văn học dân tộc miền núi nói chung, đề tài dân tộc miền núi
phía Bắc nói riêng dù được giới chuyên môn đánh giá cao nhưng lại có ít độc
giả quan tâm, tìm đọc và hơn nữa hoạt động nghiên cứu về đối tượng này vẫn
còn để ngỏ, có chăng chỉ là những bài viết phê bình nhỏ lẻ đăng trên các tờ
báo chuyên ngành, thiếu hẳn tính toàn diện, hệ thống, chưa tương xứng với
đóng góp của đội ngũ các nhà văn đối với nền văn học nước nhà. Từ những
luận cứ đó, chúng tui thấy rằng, việc dành thời gian nghiên cứu các tác phẩm
viết về đề tài dân tộc miền núi là nhiệm vụ cấp thiết để làm sáng tỏ một số vấn
đề lí luận về quan niệm nghệ thuật, cảm hứng sáng tác, đề tài, chủ đề... của các
nhà văn.
Hơn nữa, việc nghiên cứu hệ thống văn học nói chung, các tác phẩm truyện
ngắn nói riêng về đề tài dân tộc miền núi còn mang ý nghĩa thời sự thực tiễn
nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Đảng và Nhà nước đang dành rất nhiều
quan tâm đến sự phát triển mọi mặt của các khu vực miền núi cả nước trong
đó có khu vực miền núi phía Bắc. Với công trình nghiên cứu này, mong muốn
lớn nhất của chúng tui đó là góp phần gợi ra một cách nhìn đầy đủ hơn về bức
tranh văn học đương đại nói chung, truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi nói
riêng. Hơn nữa, thông qua việc phân tích, nhận xét về những truyện ngắn của
cả 3 nhà văn, chúng tui có thể đưa ra thêm một số kiến giải mới về sự vận
động và phát triển của thể loại này giữa nhịp sống gấp gáp, hối hả của xã hội
hôm nay.
6
2. Lịch sử vấn đề
Từ trước tới nay, các công trình, bài viết về truyện ngắn đề tài dân tộc
miền núi chưa nhiều, chưa phong phú, chưa đa dạng ở góc độ và phương diện
đề cập. Chỉ có một vài công trình được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu
như... Đó là những công trình thiên về tính chất tuyển chọn, bình, điểm những
tác giả tiêu biểu viết về mảng đề tài khá “hóc” này với những nét tiểu sử, các
tác phẩm chính và những truyện ngắn tiêu biểu. Bên cạnh đó cũng có một số
công trình viết dành riêng cho văn học miền núi nói chung, truyện ngắn về đề
tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng và đã có những Hội thảo về văn học
dân tộc thiểu số và miền núi (như vào dịp tháng 4/2004 tại Sa Pa, Lào Cai...).
Tuy nhiên, những nhận định, đánh giá đó chỉ dừng lại ở những thế hệ thứ nhất
(trước Cách mạng tháng Tám), thứ hai (trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ) còn đến thế hệ thứ ba đương đại thì thực sự rất hạn chế. Chúng ta
có thể kể kến một số công trình như: Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại do GS. Phong Lê chủ biên, NXB Văn hóa dân tộc, 1988 đã tập hợp
16 bài viết về 16 tác giả dân tộc thiểu số...; Hợp tuyển thơ văn các tác giả dân
tộc thiểu số Việt Nam 1954 - 1980, NXB Văn hóa, 1981 đã tập hợp những tác
phẩm tiêu biểu của 44 nhà thơ, 11 nhà văn và 5 tác giả kịch - sân khấu…
Truyện viết về đề tài dân tộc miền núi ngay từ giai đoạn trước Cách
mạng tháng Tám (1945) đã được một số nhà nghiên cứu như Hoài Thanh,
Trương Tửu, Lê Tràng Kiều, Vũ Ngọc Phan quan tâm, khảo sát ở một vài
bình diện thuộc về nghệ thuật. Trong các công trình nghiên cứu cũng như trên
các phương tiện báo chí, truyện về đề tài dân tộc miền núi của những tác giả
như Lan Khai, Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư được gọi bằng tên “truyện
đường rừng”. Trong tựa đề bài viết mang tên Ba nhà văn tả cảnh đăng trên
báo Loa, số 5/2935, nhà phê bình Trương Tửu đã gọi các nhà văn viết “truyện
đường rừng” là những “nhà văn mới mẻ” vì “đã cách mệnh lối tả cảnh trong
7
văn học Việt Nam hiện đại” ở nhiều bình diện và trước hết là thể tài “các ông
cùng rung động ngũ quan, sống bằng cảm giác. Bởi vậy, các ông thích tả
những cảnh cổ lỗ, những nhân vật thô sơ, man dã. Tài liệu viết của các ông là
rừng núi âm u, là Mán, Thổ, Sơn Nhân”...
Trên báo “Khuyến học” số 2 ngày 15 September 1935, trong bài viết
Tiểu thuyết và những nhà tiểu thuyết hiện nay, nhà nghiên cứu Lê Tràng Kiều
đã nhắc đến hàng loạt cây bút tiểu thuyết, trong đó đề cao “sự sáng tạo mãnh
liệt” của Thế Lữ và Lưu Trọng Lư ở thể tài dân tộc miền núi. Tác giả đề cao
tập “Vàng và máu” viết về miền núi “chứa chan thi vị” và rất tâm đắc với “trí
tưởng tượng rất dồi dào... dám viết những cảnh thần tiên huyễn hoặc” của Lưu
Trọng Lư.
Tiếp đó, trong bộ sách Nhà văn hiện đại (1942), nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Phan cũng dành nhiều trang viết cho các nhà văn viết về đề tài miền núi,
ở đó chỉ ra cả những ưu điểm và hạn chế của các tác giả, tác phẩm. Từ đó
chúng ta có thể thấy rằng, ngay từ trước năm 1945, một số cây bút lý luận, phê
bình đã quan tâm tới mảng sáng tác về miền núi và có những phát hiện ban
đầu về thành tựu của các nhà văn ở mảng hiện thực này, tuy vậy các nhà
nghiên cứu chưa đi sâu khảo sát vào bức tranh toàn cảnh của truyện viết về
miền núi mà chú ý nhiều hơn về những yếu tố kỳ ảo...
Một thời kỳ dài khoảng 30 năm từ 1945 đến 1975 do hoàn cảnh của
chiến tranh kéo dài nên mặc dù có khá nhiều các tác phẩm văn xuôi trong đó
có truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi nói chung, khu vực miền núi
phía Bắc nói riêng của các tác giả như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy
Tưởng, Ma Văn Kháng, Lương Quy Nhân, Hoàng Nó... nhưng việc nghiên
cứu bị gián đoạn. Các bài phê bình xuất hiện trong thời kỳ này hầu hết có
dung lượng ngắn để đăng trên các ấn phẩm báo chí dưới hình thức giới thiệu
tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh ra đời, ý nghĩa, giá trị tư tưởng của truyện ngắn
nhằm tuyên truyền phục vụ cho cuộc kháng chiến của dân tộc.
8
Từ khi đất nước thống nhất (năm 1975) và đặc biệt là sau công cuộc đổi
mới (năm 1986), cùng với sự phát triển mạnh mẽ của văn học dân tộc, nền lý
luận, phê bình của nước ta cũng có nhiều khởi sắc. Cùng với chính sách quan
tâm của Nhà nước đối với các vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới và hải đảo
thì những tác phẩm truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc cũng
được các nhà phê bình, lý luận dành thời gian và tâm sức nghiên cứu. Đặc biệt
trong giai đoạn này, sự xuất hiện của tên tuổi nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã
như một luồng gió mới khiến dư luận xôn xao một thời gian dài và từ đó trở đi
số lượng những công trình nghiên cứu về các tác phẩm của ông cũng nhiều
dần lên, có thể kể đến như: Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (NXB Văn hóa - Thông
tin, H, 2001), Nguyễn Huy Thiệp - tác phẩm và dư luận (NXB Trẻ, TP.HCM,
1990), Những cuộc tranh luận xung quanh sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp
(khóa luận tốt nghiệp cử nhân Văn học), Hình tượng con người cô độc trong
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp (luận văn thạc sĩ Ngữ văn), Hình tượng
người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (luận văn thạc sĩ Ngữ
văn)… Nếu chỉ tính riêng trong giới phê bình văn học, không kể đến những
bài báo nhỏ lẻ, có lẽ Nguyễn Huy Thiệp là hiện tượng gây nhiều tranh cãi nhất
trong suốt hai mươi năm cuối của thế kỷ XX. Ở tập sách Đi tìm Nguyễn Huy
Thiệp, chúng ta đã bắt gặp rất nhiều những tên tuổi uy tín như Hoàng Ngọc
Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Greg Lockhart, Lại Nguyên Ân… hay những nhà văn,
nhà thơ đứng đối chiều như Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu
Thỉnh... đều bình luận về truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp dưới mọi góc độ
từ ngôn ngữ, hình ảnh, nhân vật đến kết cấu cốt truyện, giá trị nội dung, tư
tưởng. Ý kiến khen cũng nhiều, phản biện lại nhà văn cũng có nhưng xét về
tổng quan, tất cả những khía cạnh được các nhà phê bình đưa ra đều góp phần
khẳng định một phong cách truyện ngắn độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp. Với
những tác phẩm khác đặc biệt là các công trình khóa luận tốt nghiệp, luận văn
thạc sỹ của sinh viên và học viên cao học thì truyện ngắn của Nguyễn Huy
9
Thiệp lại được tiếp cận một cách sâu sắc, tỉ mỉ hơn từ những điểm nhìn khác
nhau về nghệ thuật lựa chọn, xây dựng tính cách nhân vật, cách thức sử dụng
ngôn ngữ, biểu tượng, phương pháp điển hình hóa đối tượng, nhân vật người
kể chuyện... Tuy nhiên có một khía cạnh mà tất cả những công trình, tác phẩm
nghiên cứu về Nguyễn Huy Thiệp chưa đề cập, hay chỉ giới thiệu thoáng qua
đó là đề tài về dân tộc miền núi phía Bắc trong các truyện ngắn của ông mà
chúng tui sẽ khai thác ở trong luận văn này.
Với Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy là hai nhà văn thuộc hai thế hệ gần
kề nhau và đều thành công nhờ những tác phẩm truyện ngắn viết về mảng đề
tài dân tộc miền núi phía Bắc. Có thể nói rằng các tác phẩm của hai tác giả
này đã giúp bạn đọc khám phá được rất nhiều về đặc trưng phong tục, tập
quán, văn hóa, lối sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng núi phía
Bắc. Tuy mới chỉ xuất hiện trên văn đàn trong khoảng 10 năm trở lại đây
nhưng tên tuổi của hai nhà văn Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy đã được khẳng
định và có vị trí trên văn đàn. Qua tìm hiểu, chúng tui thầy rằng, đa phần
những bài nghiên cứu, những ý kiến đánh giá tác phẩm của Cao Duy Sơn và
Đỗ Bích Thúy là những bài đăng trên các báo, tạp chí cũng như các chương
trình phát thanh, truyền hình mà chưa có một công trình quy mô hay một
cuốn sách chuyên khảo riêng biệt. Chúng ta có thể kể đến các bài viết nổi bật
như: Cao Duy Sơn - Đàn trời cất tiếng ca vang” (báo phát thanh VOV), Cao
Duy Sơn - Bông hoa sen đang ngát (Báo điện tử Evan), Cao Duy Sơn - Viết
văn là một cuộc viễn du về nguồn cội (Báo Thể thao Văn hóa)... hay Nhà văn
Đỗ Bích Thúy - Sự mềm mại quyết liệt (Báo An ninh Thế giới cuối tháng), Nhà
văn Đỗ Bích Thúy - Một người đã từng bị tước đi hạnh phúc sẽ biết gìn giữ nó
một cách tận tụy (Báo Điện tử ĐCSVN)... Những bài báo phê bình này đều có
dung lượng ngắn, đa phần là những bài phỏng vấn trực tiếp nhà văn về vấn đề
nhân vật, hoàn cảnh ra đời cũng như thông điệp mà tác giả gửi gắm qua tác
phẩm. Cũng giống như trường hợp của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, nghiên
10
cứu về truyện ngắn của Cao Duy Sơn và Đỗ Bích Thúy chưa có một công
trình quy mô, đầu tư theo chiều sâu tập trung vào mảng đề tài chủ lực của hai
tác giả này là đề tài về khu vực dân tộc miền núi phía Bắc.
Tóm lại: Ba nhà văn Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Huy
Thiệp bằng những tác phẩm cụ thể đã có những đóng góp không nhỏ cho nền
văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung, mảng truyện ngắn viết về đề tài dân
tộc miền núi phía Bắc nói riêng. Tuy vậy trong thực tế, các công trình, bài viết
của các tác giả trước đây mới chỉ dừng lại ở từng nhận xét về phương diện đề
tài, cách thức triển khai từng tác phẩm trong môi trường xã hội đương đại mà
chưa có những nghiên cứu sâu về phong cách, bút pháp nghệ thuật cũng như
hệ thống các tác phẩm của các nhà văn. Bởi vậy chúng tui xác định đây là
công trình nghiên cứu đầu tiên theo hướng toàn diện các truyện ngắn viết về
đề tài dân tộc miền núi phía Bắc của ba nhà văn này.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện công trình này chúng tui sẽ tập trung khảo sát, nghiên cứu
toàn bộ những truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc của: Cao
Duy Sơn là các tập truyện gồm: Người lang thang, Người săn gấu, Hoa mận
đỏ, Cực lạc, Những chuyện ở Lũng Cô Sầu, Hoa bay cuối trời, Ngôi nhà xưa
bên suối; Đỗ Bích Thúy là các tập truyện ngắn: Sau những mùa trăng; Những
buổi chiều ngang qua cuộc đời; Ký ức đôi guốc đỏ; Tiếng đàn môi sau bờ rào
đá và Nguyễn Huy Thiệp là 11 truyện trong Những ngọn gió Hua Tát, Những
người thợ xẻ, Sống dễ lắm, Muối của rừng, Tội ác và trừng phạt, Truyện tình
kể trong đêm mưa. Đồng thời khi cần thiết, chúng tui có thể liên hệ với những
tác phẩm viết cùng về đề tài này trước và sau đó.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Để có được cái nhìn tổng quan về các truyện ngắn của cả 3 tác giả, chúng
tui sử dụng phương pháp thống kê, phân loại tập hợp các truyện ngắn theo
từng chủ đề khác nhau.
11
- Tiếp đó, chúng tui dùng phương pháp phân tích, trích dẫn tác phẩm để
chứng minh cho từng luận điểm thuộc phạm vi đề tài. Từ việc khảo sát truyện
ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc chúng tui sẽ rút ra những thành công
và hạn chế trong sáng tác của từng tác giả.
- Phương pháp so sánh đồng đại, lịch đại được chúng tui sử dụng trong một
số tình huống để tìm ra những đặc điểm riêng trong truyện ngắn cùng một
phạm vi đề tài, thể loại của 3 nhà văn này so với các tác giả trước và sau đó.
- Phương pháp tổng hợp sẽ hỗ trợ chúng tui trong việc rút ra những đánh
giá, nhận định chung nhất về thành tựu cũng như đóng góp của từng nhà văn
cũng như của cả 3 nhà văn này về phương diện nội dung, nghệ thuật đối với
mảng đề tài dân tộc miền núi phía Bắc nói riêng, nền văn học nước nhà nói
chung. Từ thực tiễn nghiên cứu, chúng tui sẽ rút ra một số vấn đề mang tính
chất lý luận làm kinh nghiệm cho những công trình nghiên cứu sau.
5. Mục đích, ý nghĩa đóng góp của luận văn
Từ việc nghiên cứu, khảo sát các truyện ngắn viết về đề tài dân tộc miền
núi phía Bắc của 3 nhà văn: Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Huy
Thiệp, tác giả công trình muốn tạo ra một góc nhìn đầy đủ hơn về văn xuôi nói
chung, truyện ngắn đương đại Việt Nam nói riêng
Công trình sẽ chỉ ra những thành tựu sáng tác của các nhà văn viết về mảng
đề tài dân tộc miền núi phía Bắc, về thế giới thiên nhiên, phong tục tập quán,
những hình tượng, số phận nhân vật tiêu biểu.
Chỉ ra con đường khám phá nghệ thuật, xây dựng cốt truyện, kết cấu, cách
xây dựng nhân vật, ngôn ngữ nghệ thuật... của từng nhà văn.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn sẽ gồm 3
chương.
* Chương 1. Truyện ngắn về đề tài dân tộc miền núi phía Bắc trong truyện
ngắn đương đại
12
* Chương 2. Hình tượng cuộc sống và con người các dân tộc miền núi phía
Bắc qua truyện ngắn của Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Huy Thiệp
* Chương 3. cách biểu hiện
13
CHƢƠNG 1
TRUYỆN NGẮN VỀ ĐỀ TÀI DÂN TỘC MIỀN NÚI PHÍA BẮC
TRONG BỨC TRANH TRUYỆN NGẮN ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Truyện ngắn và những sự đổi mới trong điều kiện xã hội đƣơng đại
Từ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm
mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong
phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà
văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn
ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được không
ít thành công trên nhiều phương diện...
1.1.1 - Những chuyển biến về nội dung, khuynh hướng phản ánh
Chúng ta đều biết rằng khi xem xét quá trình đổi mới văn học phải đặt
các tác phẩm trong tương quan giữa hình thức - nội dung, quá khứ - hiện tại,
bản thân tác giả - các thế hệ cùng thời và đương đại. Sự chuyển biến theo
hướng đổi mới để phát triển là một đòi hỏi tất yếu của bất kỳ một giai đoạn
văn học nào và chính đội ngũ các nhà văn ở mỗi thế hệ, mỗi thời kỳ đều nhận
diện cũng như ý thức được tầm quan trọng của nhiệm vụ này.
Chiến thắng hào hùng năm 1975 mở ra một chặng đường mới cho dân
tộc Việt Nam, giai đoạn hòa bình, xây dựng, tái thiết đất nước. Chiến tranh đã
lùi vào quá khứ, tiếng kèn và cờ hoa thắng trận bớt rực rỡ, ồn ào. Sau một
quãng lùi lịch sử, một khoảng cách về thời gian, các truyện ngắn được sáng
tác trong thời kỳ này đã nhạt dần chất sử thi, bớt đi khí vị anh hùng cao cả mà
thay thế vào đó là giọng điệu thâm trầm, sâu lắng hơn với những sắc màu tình
cảm, cung bậc thể hiện và bình diện mới. Ở mọi thời đại, bao giờ nhân vật của
truyện ngắn cũng được đặt trong vô vàn các quan hệ và các bình diện như tập
thể - cá nhân, lý tưởng - hiện thực, tiền tuyến - hậu phương, sống - chết, được
- mất, cho - nhận, cống hiến - hưởng thụ, vì người - vì mình, lý tưởng chung số phận riêng, ra đi - trở về... Nếu trong chiến tranh, những con người ấy được
14
khai thác thiên về khía cạnh dân tộc, tập thể, lý tưởng, chiến trường, cống
hiến... thì trong thời bình, khám phá của các nhà văn đã nghiêng về trục đối
lập. Không gian trong các tác phẩm cũng được chuyển từ rộng sang hẹp, từ
không gian lịch sử sang không gian đời tư, từ chiến trường về cuộc sống
thường nhật. Cảm hứng của các cây bút cũng có bước thay đổi từ vĩ mô xuống
vi mô, từ cao xuống thấp, từ số phận chung của đất nước, dân tộc đến số phận
của những con người cụ thể. Trong các truyện ngắn đã xuất hiện với mật độ
dày đặc hơn tâm thế đối thoại của các nhân vật, nó chứng tỏ sự xuất hiện của
những quan niệm, tiêu chuẩn, thang bậc giá trị mới khác hoàn toàn trước đó.
Chẳng hạn khi các nhà văn viết về chiến tranh và cái chết đã không còn là sự
hồi sinh, thăng hoa mà là cả nỗi lạnh lẽo, cô đơn, một nỗi buồn chiến tranh
đeo đẳng. Tư thế của người chiến sĩ không còn cao vời vợi để người đời
ngưỡng vọng mà là chính bản thân của họ với ý thức cụ thể, rõ ràng về giá trị
của mình, sẵn sàng chối bỏ mọi ánh hào quang, hư danh để tìm chỗ đứng, vị
trí thật của mình... Trong rất nhiều truyện ngắn, ta bắt gặp phổ biến motip
người lính trở về với cuộc sống đời thường bộn bề, phức tạp và rắc rối. Từ vị
trí người anh hùng trong chiến trận trở thành người công dân, đối diện với sự
chuyển đổi khắc nghiệt nhưng tất yếu này, họ sẽ suy nghĩ và ứng xử ra sao?
Cái gì còn, cái gì mất, cái gì đã cho, cái gì sẽ nhận, điều gì sẽ xảy đến trong
tâm hồn họ... Sau chiến tranh là một cuộc sống hoàn toàn khác, những nhân
vật trong các truyện ngắn phải hiện diện với tư cách là những số phận cụ thể,
phải tự mình đương đầu cùng những thử thách khắc nghiệt của hoàn cảnh
sống thời hậu chiến với sự cùng kiệt đói, rách rưới, thiếu thốn và cả những tàn dư
của vết thương chưa lành.
Nếu trong chiến tranh, nhu cầu cao nhất của tất cả mọi người là độc lập,
tự do thì trong thời bình, khát vọng bức thiết nhất, quyết liệt nhất của họ lại là
đòi dân chủ. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, xã hội có những đổi thay mạnh
mẽ, con người hoang mang trước sự phức tạp của đời sống, sự đảo lộn của
15
những giá trị, những quan hệ chuẩn mực cũ. Càng ngày, các nhà văn càng phải
va chạm với một đời sống hiện thực không lý tưởng hóa mà hoàn toàn trần trụi
và điều đó được hiện lên rất rõ nét trong mỗi tác phẩm truyện ngắn. Đó là sự
nhận thức về nỗi đau có thực với những mất mát về con người, về tinh thần
luôn âm ỉ cháy. Đó còn là những cảm nhận về trạng thái xã hội đương đại với
những khiếm khuyết, băng hoại về môi trường và nhân cách, chứa đầy những
thông tin nhức nhối, xót xa về số phận của những con người cụ thể như người
vợ, người mẹ, người cha, người em... và có khi là của một người dưng tình cờ
gặp được. Truyện ngắn thời kỳ này đã phát triển khá mạnh mẽ và càng ngày
càng khẳng định được vị thế của mình trong việc phơi bày một cách chi tiết về
hiện thực xã hội thông qua những nỗi bất hạnh của nhân vật. Đó là sự thua
thiệt, khổ sở, đói nghèo, mòn mỏi, bất công, trốn chạy quá khứ, xa lánh cội
nguồn, suy thoái đạo đức, mơ ước lụi tàn, tài năng rơi rụng... Những vấn đề
“nóng bỏng” tính thời sự ấy được truyện ngắn truyền tải thông các nghịch lý
và các cặp mâu thuẫn như lý tưởng - hiện thực, chiến tranh - hòa bình, cũ mới, lừa dối - sự thật, hiện thực - mộng mơ, chân thực - giả dối, nhớ - quên,
được - mất, cho - nhận, khát khao - thất vọng, quá khứ - hiện tại, hy sinh - đền
đáp... Những quan hệ này tồn tại cùng trong một môi trường, một nhân vật,
một sự kiện tạo nên những tác phẩm đậm chất bi kịch.
Một điều đặc biệt đó là văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 lại phát triển
theo hướng khác với xu thế chung. Nếu theo hướng phổ biến thì nó sẽ phát
triển từ bút ký - truyện ngắn - tiểu thuyết còn văn học Việt Nam lại tiến theo
chiều bút ký - tiểu thuyết - truyện ngắn. Giai đoạn bút ký gắn liền với không
khí mới mẻ của cuộc sống những ngày đầu hòa bình có đầy đủ những mảng
màu sáng, tối, đặc biệt là những vấn đề gai góc, những câu hỏi bức thiết, trăn
trở. Chúng ta có thể kể tới chùm các tác phẩm như Cái đêm hôm ấy đêm gì của
Phùng Gia Lộc, Lời khai của bị can của Trần Huy Quang, Người đàn bà quỳ
của Nguyễn Văn Ba, Thủ tục để làm người sống của Minh Chuyên... Từ bút
16
ký chuyển sang tiểu thuyết tuy không theo hướng đi chung nhưng lại khá liền
mạch và phù hợp. Các nhà văn mới rời chiến trường chưa lâu, một cuộc sống
mới mở ra nhưng dư âm của quá khứ bi tráng và hiện tại nghiệt ngã cứ đan
xen, ám ảnh lẫn nhau. Chính hiện thực phong phú được phơi bày kết hợp với
vốn sống ngồn ngộn, đầy ắp đã được truyền tải và dung chứa trong các tiểu
thuyết như Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Thời xa vắng của Lê
Lựu, Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của
Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh... Điều dễ nhận
thấy là ở ngay những tiểu thuyết này chất bút ký báo chí vẫn còn khá “đậm
đặc”. Các sự kiện, nhân vật gần như là có thật trong đời sống hàng ngày mà
chưa được “gọt rũa” để nghệ thuật hóa một cách triệt để. Những hiện thực
phản ánh trong các cuốn tiểu thuyết đã được độc giả và người đời biết đến khá
rõ ràng, khi ấy nảy sinh nhu cầu muốn tìm đọc cái khác, cái chưa biết. Đó
chính là lúc truyện ngắn đến thời được quan tâm, chú ý, nhiều truyện ngắn
hay, nhiều tác giả mới xuất hiện. Có thể nói rằng, giai đoạn bút ký - tiểu
thuyết là cả một quá trình dài chuẩn bị cho truyện ngắn nở rộ với những tác
phẩm ngay khi mới xuất hiện đã tạo ra tiếng vang như Con thuyền ngoài xa,
Bức tranh, Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Có một
đêm như thế của Nguyễn Thị Minh Thư, Anh Sức của Khuất Quang Thụy... và
sau đó là một loạt các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp...
Từ thời kỳ đổi mới trở đi được coi là giai đoạn cực thịnh của thể loại
truyện ngắn trong nền văn học nước ta. “Những phẩm chất thẩm mĩ tươi mới
chỉ có thể được nảy nở, phô sắc và kết đọng trong một môi trường văn hoá xã hội mới. Không ai còn có thể nghi ngờ gì nữa về vai trò của bối cảnh văn
hoá - xã hội Việt Nam kể từ thời kì đổi mới đối với sự phát triển dồi dào của
văn xuôi trong đó có truyện ngắn...” [3]. Bối cảnh mới thúc đẩy quá trình đổi
thay bởi vì trong lòng nó một hệ giá trị khác trước đã hình thành. Hệ giá trị
chuyển từ cao cả, đơn trị sang đời thường, đa trị. Không có căn cội này không
17
thể có quan niệm, cái nhìn mới về thế giới và tất yếu đã không có chuyển biến
cơ bản như ta đã thấy. Những năm sau đổi mới đến nay, cùng với sự thay đổi
lớn lao của đời sống văn học thể loại truyện ngắn gắn liền với các tên tuổi như
Nguyễn Mạnh Tuấn, Lê Lựu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Trường,
Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh,
Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo,
Hồ Anh Thái, Y Ban, Cao Duy Sơn, Đỗ Bích Thúy... không chỉ tăng nhanh về
số lượng mà còn đổi mới từ nội dung phản ánh đến hình thức thể hiện.
“Truyện ngắn là một cách đặt vấn đề bằng nghệ thuật trước nhu cầu tinh thần
của con người...” [53, tr.177]. Giữa thời đại bùng nổ thông tin hiện nay truyện
ngắn với những đặc trưng và thế mạnh vốn có của mình đã phát triển một cách
mạnh mẽ, giữ vững vai trò như “người lính xung kích” trên mặt trận văn học
nghệ thuật. Và để có thể làm tròn vai trò đó, các tác giả viết truyện ngắn luôn
có ý thức là phải làm thế nào để đến được với bạn đọc một cách nhanh chóng
và ngắn gọn nhất.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: khó khăn của thiên nhiên miền núi phía bắc được đưa vào tác phẩm văn học, truyện về vú đàn bà, TRUYỆN NẮN VỀ CỦ ĐỀ BỐ, CON NGƯỜI TRONG VĂN XUÔI VỀ MIỀN NÚI CỦA CÁC TÁC GIẢ TRẺ ĐƯƠNG ĐẠI (CAO DUY SƠN, ĐỖ BÍCH THUÝ VÀ PHẠM DUY NGHĨA), các truyện ngắn của nguyễn huy thiệp về môi truong thien nhien, tác phẩm truyện ngắn viết về tình yêu đôi lứa của dân tộc thiểu số, Nhà văn viết về đề tài dân tộc, các đề về truyện của Trần thi tư, truyên về làm phóng viên báo chí dân tộc thiểu số, truyện ngắn về phụ nữ miền núi
Last edited by a moderator: