Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những
tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và
làm đi liền với nhau là một trong những tư tưởng cơ bản của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây vừa là nội dung hành động, vừa là
phương pháp nghiên cứu theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ bản của khoa
học mácxít nói chung và của nhận thức luận mácxít nói riêng.
Hồ Chí Minh coi lý luận và thực tiễn có mối liên hệ khăng khít
với nhau, không thể tách rời. Nó tác động lẫn nhau, chuyển hoá
cho nhau. Trong mối liên hệ này, thực tiễn có tác động quyết
định và lý luận, đến lượt nó, lại phản ánh vào thực tiễn. Theoquan điểm của Hồ Chí Minh, lý luận chính là những kinh
nghiệm rút ra từ thực tế (thực tiễn) trong mọi hoạt động của con
người và xã hội. Còn thực tiễn lại cũng là toàn bộ những hoạt
động của con người để tạo ra những điều kiện cần thiết cho đời
sống xã hội. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được phát triển
trên cơ sở quan điểm lý luận của C.Mác cho rằng, thực tiễn,
trước hết, là hoạt động vật chất, là sản xuất, vì đời sống của xã
hội, sự sống của con người do sản xuất quyết định. C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đều có chung một nhận
định là một trong những nhân tố quan trọng nhất hợp thành thực
tiễn là hoạt động cách mạng của những giai cấp, những tập đoàn
xã hội nhằm xoá bỏ chế độ xã hội già cỗi, bóc lột, thay thế bằng
chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn, phát triển hơn. Hồ Chí Minh nói:
"Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong
các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm
thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý
luận chân chính. Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương
hướng cho chúng ta trong công việc thực tế"(1). Người còn nói:
"Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phikhông áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng
ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành,
thì khác nào một cái hòm đựng sách"(2). Người kết luận: "Lý
luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý
luận"(3). Ph.Ăngghen có lần nói rằng, mọi cái, xét cho cùng,
đều quy công cho sản xuất. Như vậy, rõ ràng, lý luận được đẻ ra
trên nền tảng của thực tiễn, là kết quả khoa học của sự khái quát
kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động đời sống xã hội. Không có
thực tiễn, không có lý luận khoa học. Thực tiễn phong phú sẽ
làm cho lý luận phong phú. Thực tiễn không phong phú, lý luận
cũng không thể phong phú. Như vậy, lý luận và thực tiễn bổ
sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau. Thực tiễn đề ra những
vấn đề yêu cầu lý luận phải giải đáp. Cho nên không có thứ luận
khoa học nào mà "tự nặn ra". Chỉ có lý luận nào gắn chặt với
thực tiễn, phục vụ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm,
kiểm tra, thì lý luận đó mới đích thực là lý luận, mới bắt rễ sâu
trong đời sống. Quan điểm của Hồ Chí Minh là mọi lý luận, xét
cho cùng, đều quy về thực tiễn. Một nhà khoa học viết một công
trình có "độ nhuyễn" giữa lý luận và thực tiễn, có tính khả thi,cũng là biết kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Trái lại, một công
trình nghiên cứu toàn lý luận, không liên hệ gì đến thực tiễn,
không đếm xỉa gì đến thực tiễn, công trình ấy cũng chỉ đạt yêu
cầu một nửa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng, trong công tác của cán bộ
chúng ta có nhiều ưu điểm, những cũng bộc lộ nhiều khuyết
điểm. Một trong những khuyết điểm là lý luận suông. Người kể
có lần Người đi công tác trên Việt Bắc, dọc đường nghỉ chân,
Người gặp một cán bộ tên là L đi tập huấn chính trị về. Nhân
tiện, Người hỏi về tình hình địa phương nơi cán bộ L công tác:
"Mùa màng năm nay thế nào?". L trả lời: "Việc đó tui đã động
viên nhân dân rồi". Người hỏi: "Rồi sao nữa?". L nói: "Công
việc xem chừng khá". Người lại hỏi tiếp: "Rồi sao nữa?". L trả
lời: "Chắc là có tiến bộ". Người lại hỏi: "Nói tóm lại là đã cấy
được mấy mẫu?". L nói: "ở vùng chúng tôi, cày cấy hiện nay
chưa đâu ra đâu cả". Trước những câu trả lời vu vơ, sáo rỗng
như vậy, Người kết luận: "Trong Đảng ta, có một số người như
thế. Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua
ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiNhững người như thế cũng không dùng vào việc thực tế"(4).
Theo Người, những khuyết điểm đó đều là "chứng bệnh". Trong
các "chứng bệnh", có bệnh có thể chữa được ngay, nhưng cũng
có bệnh "nan y", phải chữa cả đời. Người còn cho rằng, mỗi
"chứng bệnh" phát sinh do nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên
nhân của bệnh chủ quan là: "Kém lý luận, hay khinh lý luận,
hay lý luận suông"(5). Theo Người, liều thuốc hiệu nghiệm
nhất để chữa căn bệnh này, chính là "Phê bình và tự phê bình".
Người nói: "Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm
điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt.
Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ
mạnh khoẻ vô cùng"(6).
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và làm:
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và làm đi liền với nhau vào
trong cuộc sống hôm nay, trước hết, chúng ta phải nghĩ ngay
đến vấn đề đưa cuộc sống vào trong nghị quyết, chính sách củaĐảng và Nhà nước và đưa nghị quyết, chính sách của Đảng và
Nhà nước vào trong cuộc sống. Đây chính là hai mặt của một
vấn đề, có mối liên hệ khăng khít với nhau. Nó là sự khởi nguồn
của mọi vấn đề kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với
hành, nói và làm đi liền với nhau. Muốn xây dựng một nghị
quyết, chính sách tốt, cần thực hiện những công đoạn sau đây:
(1) Phải tiến hành điều tra xã hội học về vấn đề sẽ phản ánh vào
trong nghị quyết, chính sách cho thật tỷ mỷ, chu đáo. (2) Phải
nắm bắt nhanh nhạy đời sống xã hội, chỉ đúng những mặt tích
cực, những mặt tiêu cực để có biện pháp khắc phục. (3) Phải lấy
ý kiến những người biết về lĩnh vực đó. (4) Những người soạn
thảo nghị quyết, chính sách có khả năng xử lý thông tin. (5) Có
khả năng dự báo tốt. Dự báo gần đúng những hiện tượng, sự
kiện xảy ra và quá trình có thể hay tất nhiên sẽ xảy ra, nhờ vào
việc nắm bắt nhanh nhạy thực tiễn đời sống xã hội. (6) Nghị
quyết, chính sách được thảo ra phải có những giải pháp cụ thể,
thiết thực.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những
tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và
làm đi liền với nhau là một trong những tư tưởng cơ bản của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây vừa là nội dung hành động, vừa là
phương pháp nghiên cứu theo quan điểm tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề cơ bản của khoa
học mácxít nói chung và của nhận thức luận mácxít nói riêng.
Hồ Chí Minh coi lý luận và thực tiễn có mối liên hệ khăng khít
với nhau, không thể tách rời. Nó tác động lẫn nhau, chuyển hoá
cho nhau. Trong mối liên hệ này, thực tiễn có tác động quyết
định và lý luận, đến lượt nó, lại phản ánh vào thực tiễn. Theoquan điểm của Hồ Chí Minh, lý luận chính là những kinh
nghiệm rút ra từ thực tế (thực tiễn) trong mọi hoạt động của con
người và xã hội. Còn thực tiễn lại cũng là toàn bộ những hoạt
động của con người để tạo ra những điều kiện cần thiết cho đời
sống xã hội. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được phát triển
trên cơ sở quan điểm lý luận của C.Mác cho rằng, thực tiễn,
trước hết, là hoạt động vật chất, là sản xuất, vì đời sống của xã
hội, sự sống của con người do sản xuất quyết định. C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đều có chung một nhận
định là một trong những nhân tố quan trọng nhất hợp thành thực
tiễn là hoạt động cách mạng của những giai cấp, những tập đoàn
xã hội nhằm xoá bỏ chế độ xã hội già cỗi, bóc lột, thay thế bằng
chế độ xã hội mới, tiến bộ hơn, phát triển hơn. Hồ Chí Minh nói:
"Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong
các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm
thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý
luận chân chính. Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương
hướng cho chúng ta trong công việc thực tế"(1). Người còn nói:
"Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phikhông áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng
ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành,
thì khác nào một cái hòm đựng sách"(2). Người kết luận: "Lý
luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý
luận"(3). Ph.Ăngghen có lần nói rằng, mọi cái, xét cho cùng,
đều quy công cho sản xuất. Như vậy, rõ ràng, lý luận được đẻ ra
trên nền tảng của thực tiễn, là kết quả khoa học của sự khái quát
kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động đời sống xã hội. Không có
thực tiễn, không có lý luận khoa học. Thực tiễn phong phú sẽ
làm cho lý luận phong phú. Thực tiễn không phong phú, lý luận
cũng không thể phong phú. Như vậy, lý luận và thực tiễn bổ
sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau. Thực tiễn đề ra những
vấn đề yêu cầu lý luận phải giải đáp. Cho nên không có thứ luận
khoa học nào mà "tự nặn ra". Chỉ có lý luận nào gắn chặt với
thực tiễn, phục vụ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm,
kiểm tra, thì lý luận đó mới đích thực là lý luận, mới bắt rễ sâu
trong đời sống. Quan điểm của Hồ Chí Minh là mọi lý luận, xét
cho cùng, đều quy về thực tiễn. Một nhà khoa học viết một công
trình có "độ nhuyễn" giữa lý luận và thực tiễn, có tính khả thi,cũng là biết kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Trái lại, một công
trình nghiên cứu toàn lý luận, không liên hệ gì đến thực tiễn,
không đếm xỉa gì đến thực tiễn, công trình ấy cũng chỉ đạt yêu
cầu một nửa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng, trong công tác của cán bộ
chúng ta có nhiều ưu điểm, những cũng bộc lộ nhiều khuyết
điểm. Một trong những khuyết điểm là lý luận suông. Người kể
có lần Người đi công tác trên Việt Bắc, dọc đường nghỉ chân,
Người gặp một cán bộ tên là L đi tập huấn chính trị về. Nhân
tiện, Người hỏi về tình hình địa phương nơi cán bộ L công tác:
"Mùa màng năm nay thế nào?". L trả lời: "Việc đó tui đã động
viên nhân dân rồi". Người hỏi: "Rồi sao nữa?". L nói: "Công
việc xem chừng khá". Người lại hỏi tiếp: "Rồi sao nữa?". L trả
lời: "Chắc là có tiến bộ". Người lại hỏi: "Nói tóm lại là đã cấy
được mấy mẫu?". L nói: "ở vùng chúng tôi, cày cấy hiện nay
chưa đâu ra đâu cả". Trước những câu trả lời vu vơ, sáo rỗng
như vậy, Người kết luận: "Trong Đảng ta, có một số người như
thế. Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua
ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được.
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi Ket-noi.com kho tai lieu mien phiNhững người như thế cũng không dùng vào việc thực tế"(4).
Theo Người, những khuyết điểm đó đều là "chứng bệnh". Trong
các "chứng bệnh", có bệnh có thể chữa được ngay, nhưng cũng
có bệnh "nan y", phải chữa cả đời. Người còn cho rằng, mỗi
"chứng bệnh" phát sinh do nhiều nguyên nhân, trong đó, nguyên
nhân của bệnh chủ quan là: "Kém lý luận, hay khinh lý luận,
hay lý luận suông"(5). Theo Người, liều thuốc hiệu nghiệm
nhất để chữa căn bệnh này, chính là "Phê bình và tự phê bình".
Người nói: "Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm
điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt.
Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ
mạnh khoẻ vô cùng"(6).
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và làm:
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn, học đi đôi với hành, nói và làm đi liền với nhau vào
trong cuộc sống hôm nay, trước hết, chúng ta phải nghĩ ngay
đến vấn đề đưa cuộc sống vào trong nghị quyết, chính sách củaĐảng và Nhà nước và đưa nghị quyết, chính sách của Đảng và
Nhà nước vào trong cuộc sống. Đây chính là hai mặt của một
vấn đề, có mối liên hệ khăng khít với nhau. Nó là sự khởi nguồn
của mọi vấn đề kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, học đi đôi với
hành, nói và làm đi liền với nhau. Muốn xây dựng một nghị
quyết, chính sách tốt, cần thực hiện những công đoạn sau đây:
(1) Phải tiến hành điều tra xã hội học về vấn đề sẽ phản ánh vào
trong nghị quyết, chính sách cho thật tỷ mỷ, chu đáo. (2) Phải
nắm bắt nhanh nhạy đời sống xã hội, chỉ đúng những mặt tích
cực, những mặt tiêu cực để có biện pháp khắc phục. (3) Phải lấy
ý kiến những người biết về lĩnh vực đó. (4) Những người soạn
thảo nghị quyết, chính sách có khả năng xử lý thông tin. (5) Có
khả năng dự báo tốt. Dự báo gần đúng những hiện tượng, sự
kiện xảy ra và quá trình có thể hay tất nhiên sẽ xảy ra, nhờ vào
việc nắm bắt nhanh nhạy thực tiễn đời sống xã hội. (6) Nghị
quyết, chính sách được thảo ra phải có những giải pháp cụ thể,
thiết thực.
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ chí minh luận văn, TIỂU LUẬN SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG TƯ TƯỞNG hỒ CHÍ MINH, Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh có sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, tại sao tư tưởng hcm lại thống nhất lý luận và thực tiễn, Bài tiểu luận triết sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh