1. Chế độ khoa cử.
Khoa cử là chế độ tuyển chọn người để cất nhắc vào đội ngũ quan lại thông qua các kỳ thi do Nhà nước tổ chức. Khoa cử căn cứ vào các đối tượng khác nhau mà có ba hình thức chủ yếu là thi tuyển quan văn, thi tuyển quan võ và tuyển lại viên.
a. Thi tuyển quan văn: Là hình thức khoa cử sớm nhất, phổ biến nhất thời (gian) kỳ phong kiến, được áp dụng lần đầu tiên dưới thời (gian) nhà Lý, năm 1075. Thời nhà Trần, khoa cử đi vào nền nếp hơn. Nhưng phải từ thời (gian) Lê sơ chế độ khoa cử mới được hoàn thiện và chuyện tuyển lựa quan lại phụ thuộc trên kết quả khoa cử mới trở thành cách chủ yếu trong quan chế của Nhà nước. Bất kỳ ai, dù là con quan đại thần hay thứ dân, dù học ở trường tư nơi làng, xã hay trường công nơi phủ lộ, kinh thành như Quốc Tử Giám, nếu có đủ tư cách đạo đức, đều có quyền dự thi để làm quan. Chế độ thi cử trong nhiều triều đại phong kiến có tiếng là nghiêm túc và công bằng, đặc biệt là ở các thời (gian) có minh quân trị nước.
Ỏ thời (gian) Lê sơ cứ ba năm mở một khoa thi, mỗi khoa có ba lần thi (Tam trường): Thi Hương, thi Hội, thi Đình. Trước kỳ thi Hương, những người muốn dự thi phải qua kỳ khảo hạch để chính quyền địa phương xem xét về lý lịch, tư cách đạo đức và học vấn tối thiểu. Mỗi lần thi Hương và thi Hội, các sĩ tử phải trải qua bốn kỳ: ám tả (viết chính tả), kinh nghĩa, thơ, phú, chiếu, chế, biểu (các loại công văn), văn sách (văn chương, lịch sử và triết lý); riêng năm 1404 nhà Hồ còn tổ chức thêm kỳ thi thứ 5 là thi toán và viết chữ. Về thể thức: Đỗ kỳ thi trước mới được dự thi kỳ tiếp theo; sau mỗi kỳ kết quả thi đều được dán công khai. Những người thi đỗ tất cả các kỳ của thi Hương gọi là cống sĩ hay hương cống, hương tiến (gọi theo học vị là Cử nhân). Cách gọi này có ý nghĩa là các địa phương cống lên, tiến cử lên để triều đình tuyển chọn nhân tài. Kỳ thi Hội chọn ra các Tiến sĩ. Ba chức danh cao nhất của chế độ khoa cử là Tam khôi gồm Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa dành cho những người đạt điểm cao nhất của kỳ thi Đình với các ứng viên là Tiến sĩ. Vua không chỉ là người ra đề cho các kỳ thi Hội, thi Đình mà còn trực tiếp chấm bài một số người đạt điểm cao nhất. Các bài làm xuất sắc nhất của thí sinh các trường cũng thường được vua thẩm định. Thi Tam trường buộc các nho sinh phải tập trung cao độ năng lực học tập và làm bài trong khoảng 2-3 năm cho mỗi khoa thi. Đó là một hình thức học đại học rất đáng chú ý - chủ yếu là tự học và học qua các kỳ thi.
Lịch sử khoa bảng Việt Nam kéo dài 744 năm, từ khoa thi đầu tiên năm 1075 đến khoa thi cuối cùng năm 1919. Theo số liệu thống kê được, có 2.898 người đỗ đại khoa (từ Tiến sĩ trở lên, trong đó 50 Trạng nguyên, song không có phụ nữ). Số không thống kê được có tới hàng vạn người đỗ các mức thấp hơn (Cử nhân trở xuống). Phần lớn những người đỗ đạt đều tham gia vào bộ máy quản lý đất nước và có những đóng lũy to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh hệ thống thi Tam trường, một số triều đại còn tổ chức thêm các khoa thi thay thế hay bổ sung cho kỳ thi Hội, thi Đình nhằm tuyển chọn thêm nhân tài từ nguồn những thí sinh có khả năng song do phạm quy, phạm húy mà hỏng thi ở kỳ thi Hội. Năm 1426, Lê Lợi sau khi đánh đuổi quân Minh vừa tổ chức ngay một kỳ thi tại Thăng Long mong thu hút lực lượng trí thức cũ bất cộng tác với nhà Minh. Thi chỉ có một đề mang tính thời (gian) sự nóng hổi: “Bảng văn dụ hàng thành Đông Quan”. Kết quả có 36 người đỗ, trong đó, sáu người được bổ ngay làm Viên ngoại lang các bộ, 24 người được cử đi làm An phủ sứ các lộ.
Một tổ chức đặc biệt của triều đình phong kiến Việt Nam là Đông các (cơ quan tham mưu, cố vấn tối cao của triều đình, có quan hệ phối hợp với Hàn lâm viện với chức năng vạch ra và hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách quản lý vĩ mô) được chọn nhân tài bằng một kỳ thi riêng - thi Đông các - để tuyển chọn các Đông các đại học sĩ. Kỳ thi này rất quan trọng và số người đỗ mỗi kỳ rất ít, có khoa thi chỉ lấy đỗ ba người; chính sách đãi ngộ như với Tam khôi.
b. Thi quan võ: Có từ thời (gian) Lý, nhưng đến thời (gian) Lê sơ mới được tổ chức một cách quy củ và nền nếp(1).
Năm 1478 Lê Thánh Tông tổ chức kỳ thi Đô ti ở kinh đô cho quân đội và tổ chức Trường Võ bị (Giảng võ sở), đối tượng dự thi là con cháu các quan văn, võ ở kinh thành; học ba năm, ai đỗ trường này được bổ chức võ úy. Năm 1721, chúa Trịnh Cương mở Sở Võ học ở Thăng Long, cứ ba năm một lần mở kỳ thi võ (khoa Bác cử). Thi võ cử có hai cấp: Sở cử (tương đương với thi Hương bên văn) và thi Bác cử (tương đương với thi Hội, thi Đình). Việc cấp bằng cho những người thi đỗ hai kỳ thi võ cử cũng có sự tương đương với thi văn: Hương cống, Cử nhân và Tạo sĩ - Tiến sĩ võ, người đỗ cao nhất gọi là Tuấn sĩ - Trạng nguyên võ. “Ai có bằng Tạo sĩ được ra làm quan võ, làm trấn thủ, được phong tước công, hầu, bá, tử nam”. Có người xuất thân từ võ sĩ trở thành quan đầu triều(2).
Nội dung thi Sở cử thời (gian) Lê - Trịnh gồm ba kỳ. Kỳ 1: Hỏi sáu câu về binh pháp Tôn Tử. Kỳ 2: Thi cưỡi ngựa, múa đâu mâu, bắn cung, lăn khiên, múa kiếm, đấu kích, chạy bộ. Kỳ 3: thi một bài văn sách hỏi về phương lược và một bài thơ Đường.
Sau cuộc thi Sở cử sẽ thi Bác cử gồm có ba trường: Trường nhất hỏi về bảy bộ Binh thư; trường nhì thi đấu về cưỡi ngựa múa đâu mâu, múa siêu đao, lăn khiên và đấu gươm giáo; trường ba thi một bài văn sách về phương lược thao luyện, đánh giữ và về trận pháp.
Nội dung các môn thi võ cử có sự thay đổi cho phù hợp với thời (gian) cuộc. Vào thời (gian) kỳ nhà Nguyễn, vua Minh Mạng quy định các võ sinh dự thi hương lấy bằng Võ cử nhân gồm ba kỳ.
c. Thi lại viên: Lại viên (còn gọi là lại điển, liêu thuộc) là những người giúp chuyện cho các quan, tương đương với địa vị của các công chức hệ thống chính trị của ta hiện nay. Lại có thể chuyển thành quan nếu có công lao và thành tích làm việc. Kỳ thi lại viên đầu tiên được tổ chức vào đầu đời Lý. Nếu nhà Lý cho rằng lại viên cần thông thạo phép viết chữ, làm tính và hiểu biết về hình luật thì nhà Trần lại quan tâm trước tiên đến chuyện dạy lại viên biết viết công văn hành chính. Từ đời Lê sơ, các môn làm toán, viết chữ, thảo công văn đều là môn thi bắt buộc đối với kỳ thi lại viên(3).
Càng về sau, do yêu cầu tổ chức của nền hành chính, nhu cầu dự thi của xã hội ngày càng tăng (có kỳ thi tới hàng vạn người) nên các nhà cầm quyền quan tâm nhiều hơn đối với chuyện tổ chức thi lại viên. Triều Nguyễn, bên cạnh kỳ thi lại viên còn tổ chức thêm kỳ thi thủ thủ tuyển những người viết chữ đẹp cho các nha môn.
2. Chế độ tiến cử, bảo cử.
Chế độ tiến cử hay bảo cử đều là cách tuyển chọn nhân tài thông qua phát hiện, giới thiệu của một người có chức vị và uy tín xã hội mà không phải qua khoa thi.
a. Chế độ tiến cử cho phép một vị quan được đề nghị đưa một người có tài - đức được giữ một chức quan phù hợp. Người tiến cử phải lấy tước vị, danh dự của mình để đảm bảo rằng người được tiến cử xứng đáng với chức vị được giao.
Lê Thánh Tông vừa phê phán các quan không thực thi chính sách tiến cử là “bọn bịt đường của bậc hiền tài, khơi nguồn cho kẻ cầu may”(4).
Còn có hình thức ít được áp dụng hơn là tự tiến cử, thường xuất lộ trong tình trạng đất nước có chiến tranh. Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Mạc Đĩnh Chi, Đào Duy Từ… là những vị đại thần có công với nước vừa ra nhập nghề quan trường bằng con đường này.
Chế độ tiến cử vừa nuôi dưỡng trong dân chúng một niềm tin người hiền tài sẽ không bị bỏ sót.
b. Chế độ bảo cử cho phép một vị quan được đề nghị đưa một người có tài năng, kinh nghiệm thực tiễn vào một chức vụ nào đó đang bị khuyết người và cũng lấy phẩm hàm, chức vụ của mình ra để bảo đảm rằng người được bảo cử là xứng đáng. Nếu bảo cử đúng, giúp nhà nước phát hiện và sử dụng được quan lại hiền tài thì người làm bảo cử được khen thưởng, song nếu người được họ đề đạt cất nhắc làm chuyện kém năng lực hay mắc sai lầm lớn thì người đứng ra bảo cử cũng bị trừng phạt. Sử gia Phan Huy Chú viết: “Lệ bảo cử từ thời (gian) Hồng Đức. Bấy giờ chuyện ấy làm thận trọng, cho nên không ai dám bảo cử thiên tư, các chức đều xứng đáng, rút cục thu được hiệu quả là chọn được người hiền tài”.
Triều Nguyễn không có sự phân biệt rạch ròi giữa hai chế độ trên mà gọi chung là đề cử hay tiến cử và vừa luật hoá chính sách này với chế tài phạt nghiêm khắc hơn. Điều 174 Quốc triều hình luật của triều Nguyễn quy định, người làm quan trong thời (gian) gian thực hiện công vụ mà không cử được người giỏi thì bị biếm hay bị phạt theo luật tuỳ mức độ nặng nhẹ; nếu vì tình riêng hay vì ăn tiền mà tiến cử thì xử nặng thêm hai bậc.
3. Chế độ cất nhắc và sử dụng.
Hệ thống thang bậc quan chức thời (gian) phong kiến nước ta chia làm 24 bậc, từ thấp đến cao; trong đó, 18 bậc đầu thuộc về chín phẩm (cửu phẩm) hành chính, mỗi phẩm lại được chia làm hai bậc- chính và phụ- gọi là chánh và tòng. Như vậy chức quan thấp nhất là Tòng cửu phẩm (1 tư), chức quan cao nhất là Chánh nhất phẩm (18 tư) - thường là chức vị của Thượng thư (như Bộ trưởng ngày nay). Từ bậc 19 đến 24 (trên nhất phẩm) được xem như ngạch đặc biệt vua chỉ phong tặng cho các vị hoàng thân quốc KẾT thuộc hoàng gia và một số vị đại thần đứng đầu triều, thường là người giữ các chức vị Tể tướng hay Tam Thái (Thái sư, Thái phó, Thái bảo), Tam Thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu bảo), Tam Tư (Tư đồ, Tư mã, Tư không).
Chức vị gắn liền với chế độ lương bổng mà triều đình ban tặng cho các quan, ngạch bậc càng cao thì lương bổng càng nhiều. Nhưng không phải cứ có ngạch bậc càng cao là được giao các chức vụ càng quan trọng. Những người ruột thịt của nhà vua thường được phong tước vị cao, phẩm hàm ngoại ngạch, nhưng nếu không có thực tài và tư cách đạo đức tốt thì chỉ được giao những chức vụ không quan trọng. Chính bộ phận quan lại xuất hiện từ chế độ khoa cử, sau đó là tiến cử và bảo cử, chứ không phải qua chế độ thế tập “cha truyền, con nối”, là lực lượng trụ cột trong bộ máy quản lý đất nước. Quan chế triều Lê Thánh Tông quy định đỗ Trạng nguyên được phong quan bậc 8, đỗ đầu thi Đông các được phong quan bậc 11; đỗ Tiến sĩ thường phong bậc 4 và được bổ vào các cơ quan quan trọng của triều đình hay đi làm Tri huyện ngoài kinh thành. Cùng với được phong danh vị, quan tước, các Tiến sĩ còn được nhà nước ban cho chế độ đãi ngộ rất hậu, bổ dụng rất cao: Được dự lễ xướng danh; được ghi tên vào bảng vàng, bia đá; được vua ban mũ áo, đai và cho ăn yến; hưởng lệ vinh quy với sự đón tiếp long trọng của chính quyền địa phương và dân chúng; được cấp phủ đệ và ruộng đất,… So với các triều đại phong kiến Trung Quốc cùng thời (gian) thì chế độ bổ dụng và đãi ngộ đối với bậc Tiến sĩ của Việt Nam cao hơn(5). Truyền thống tôn vinh và trọng dụng nhân tài của nước ta hiện nay vừa có cơ sở chính trị và cơ sở xã hội vững chắc từ thời (gian) phong kiến. Và đó là một giá trị của văn hoá Việt Nam.
Tuy nhiên, xã hội nào cũng có khoảng cách giữa danh và thực, giữa học và làm trong khi nhà nước chỉ cần những người có thực tài trong công việc. Các triều đại phong kiến giải quyết vấn đề này bằng hai giải pháp chính là: - Thực hiện chính sách thực tập nghề nghề đối với quan lại bậc thấp trước khi bổ dụng chính thức và - áp dụng chính sách khảo khoá đánh giá kết quả công chuyện và công lao của quan lại các cấp một cách định kỳ để quyết định chuyện thăng giáng, bổ dụng họ. Vì vậy dẫn đến một thực tiễn không đơn giản trong chốn quan trường: Phần lớn những người đứng đầu các cơ quan quan trọng của triều đình đều xuất thân từ chế độ khoa cử song không phải vị tiến sĩ nào cũng vươn tới ngạch quan lại cấp nhị, nhất phẩm; ngược lại, có nhiều người chỉ có học vị cử nhân, thậm chí bắt đầu sự nghề từ chức lại, nhưng vẫn được vua trọng dụng và trở thành quan đầu triều. Do chuyện học có nề nếp, thi cử nghiêm túc, công bằng nên hiện tượng “Tiến sĩ giấy”, tệ chạy bằng, chạy chức có diễn ra nhưng không nhiều, chưa đến mức khiến cả xã hội bức xúc; nó chỉ là hậu quả của một số triều đại suy đồi, kỷ cương bị buông lỏng.
Chế độ cất nhắc, sử dụng và đãi ngộ quan lại qua kết quả thi cử và kết quả cai trị vừa tạo nên một đội ngũ quan lại trí thức và chuyên nghiệp.
Hạn chế căn bản của chế độ khoa cử là chương trình học quá thiên lệch về lý luận chính trị-xã hội, còn khoa học tự nhiên và kỹ thuật bị bỏ rơi; chuyện thi cử càng về sau càng mang tính kinh viện, nặng nề và kéo dài khiến cho ít người thành đạt còn tuổi trẻ. Sai lầm nghiêm trọng của chế độ khoa cử là vừa gạt bỏ hoàn toàn phụ nữ - phần nửa của xã hội - khỏi nền giáo dục chính thống và đội ngũ quan lại. Song, sai lầm nghiêm trọng nhất của nền khoa cử nói riêng, chế độ chính trị phong kiến nói chung, theo chúng tôi, là sự quá tự tin, tự hào và tự bằng lòng với thể chế và truyền thống văn hiến vừa tồn tại nhiều thế kỷ của mình, không chịu đổi mới để KẾT nghi với thời (gian) cuộc mới. Vào thời (gian) cận đại, khi nước ta có thời cơ giao lưu và mở cửa với kinh tế thị trường, khoa học, công nghệ và nền văn minh phương Tây thì chính tầng lớp vua quan triều Nguyễn - sản phẩm và chủ thể của chế độ khoa cử hậu kỳ bảo thủ và kinh viện - vừa ngoảnh mặt làm ngơ, cự tuyệt cú với đề nghị cải cách của một số nho sĩ tiến bộ, giữ khư khư lối tư duy và lề thói cũ khiến đất nước rơi vào cảnh bại vong trước sự xâm lăng của thực dân Pháp.
Bài học đắt giá rút ra từ lịch sử nước ta thời (gian) trung đại là từ tư duy, văn hoá chính trị đến tổ chức thể chế, chế độ xây dựng và quản lý quan lại… đều cần sự đổi mới có hệ thống và kịp thời (gian) để phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước và các chuẩn mực mới của nền văn minh thế giới.
_______