phuongmeotk
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae Kết Nối
lời nói đầu
Chúng ta đang sống trong thời đại mà cuộc sống cách mạng khoa học kĩ thuật vĩ đại chưa từng có trong lịch sử đang được phát triển với những tốc độ mong muốn sự tiến bộ trong tất cả các lĩnh vực khoa học. Số lượng tri thức tăng lên, kĩ thuật ngày càng trở lên tinh vi và phức tạp. Kết quả là loài người đã hoá sang một kỷ nguyên mới.Kỷ nguyên của tri thức khoa học và kĩ thuật.
Trong đó điều kiện XHCN, cách mạng khoa học và kĩ thuật càng có triển vọng phát triển rộng lớn.Nền kinh tế phát triển có định hướng đảm bảo cho sự phát triển không ngừng của khoa học kĩ thuật và việc ứng dụng các thành tựu của nó nhằm phục vụ các lợi ích xã hội nâng cao đời sống cho người lao động và góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh.
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật. Đảng và nhà nước ta đã quan tâm đến đời sống của người lao động nhất là người lao động lâu năm è nghỉ hưu. Bởi vì chính họ là những người đặt nền móng cho việc xây dựng và phát triển tổ quốc trong những năm qua.
Đảng và nhà nước ta đã từng bước hoàn trỉnh hệ thống BHXH trong đó có qui định về chế độ trợ cấp hưu trí cho người lao động đã về nghỉ hưu.Đặc biệt nhà nước đã tạo mọi điều kiện cho người về hưu có cuộc sống tốt nhất.
Quán triệt tư tưởng và chính sách của đảng và nhà nước.BHXH Hà Tây luôn làm tròn trách nhiệm của mình, hướng dẫn chỉ đạo các phòng ban cấp dưới thi hành.
Phòng BHXH Thanh Oai nằm dưới quyền chỉ đạo của BHXH Hà Tây luôn đi đầu hưởng ứng và làm tròn trách nhiệm của mình trong việc thực hiện chế độ hưu trí và đảm bảo đời sống tinh thần và vật chất cho những người về hưu trong huyện.
Phần I:
khái quát chung về BHXH
I. Vai trò của BHXH đối với người lao động và với người sử dụng lao động trong cơ chế thị trường.
BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. Từ khi ra đời BHXH đã thể hiện được vai trò của mình đối với người lao động và người sử dụng lao động.
1. BHXH đối với người lao động.
Trong xã hội khi nền sản xuất hàng hoá phát triển xuất hiện sự thuê mướn lao động. Xã hội càng phát triển thì sự phân công lao động càng sâu sắc ở diện rộng, trong quá trình thuê mứơn lao động phát sinh một loại vấn đề có liên quan.
Con người muốn tiền tài và phát triển thì phải ăn ở đi lại v….v…Để thoả mãn những nhu cầu đó con người phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết phục vụ cho xã hội. Nhưng trong quá trình lao động con người không chỉ gặp thuận lợi mà đôi khi có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi.ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hay mất thu nhập hay các điều kiên sinh sống khác.
Chẳng hạn bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v…v.
Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thé mà mất đi, trái laị có cái còn tăng lên, thậm trí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: Cần được khám chữa bệnh và điều trị khi bị ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần có người chăm sóc nuôi dưỡng v..v. Vì vậy để muốn tồn tại và ổn định cuộc sống của mình người lao động đã tham gia đóng bảo hiểm xã hội và họ được hưởng rất nhiều quyền lợi từ BHXH.BHXH thay thế hay bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi không may họ gặp phải những ruỉ ro bất chắc v…v trong cuộc sống. Ngoài ra khi người lao động hết tuổi lao động về hưu mà có đủ các điều kiện được BHXH cấp hưu trí thì người lao động sẽ được hưởng lương hưu để ổn định cho cuộc sống tuổi già.
BHXH góp phần kích thích người lao động tham gia hăng say sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội từ đó làm tăng năng suất lao động cá nhân và tăng năng suất lao động xã hội.
Qua đây ta có thể thấy rõ BHXH có vai trò rất to lớn đối với người lao động và đối với sự phát triển của xã hội.
2. BHXH đối với người sử dụng lao động.
Trước kia khi chưa có BHXH người lao động không may bị gặp rủi ro, bất chắc…không thể làm việc được họ phải ngỉ một thời gian.Trong thời gian nghỉ việc đó người lao động không được giới chủ ( người sử dụng lao động) trả lương. Người lao động đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Nhưng nhu cầu của họ không những không giảm mà lại càng tăng thêm. Trong khi đó tiền lương lại không được hưởng. Từ đó dẫn đến người lao động vào con đường cùng cực. Vì thế mâu thuẫn chủ thợ ngày càng diễn ra gay gắt. Giới thợ liên kết đấu tranh đòi được hưởng quyền lợi trợ cấp khi không may họ gặp rủi ro…Nhưng cuộc đấu tranh này gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất làm giảm năng suất và chất lượng của sản phẩm. Do vậy nhà nước đã đưa ra làm trung gian điều hoà mâu thuẫn này bằng cách bắt buộc chủ và thợ mỗi bên đều phải đóng góp một phần tiền vào quĩ BHXH để khi người lao động không may rủi ro bất chắc xảy ra thì trích một phần từ quĩ BHXH ra để trợ cấp cho người lao động để họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác. Từ khi có BHXH mâu thuẫn giữa giới chủ và thợ đã được điều hoà. Giới chủ không phải e sợ người lao động biểu tình bãi công. Từ đó người lao động sẽ yên tâm làm việc với năng suất và chất lượng cao. Tạo ra nhiều của cải vật chất cho giới chủ. Lợi nhuận mà giới chủ kiếm được sẽ ngày một nhiều hơn.
II. Bản chất của BHXH.
Bản chất của BHXH được thể hiện rõ ở những nội dung sau:
BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà SX hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của môĩ nước.
Mỗi quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hay cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện dàng buộc cần thiết.
Những biến cố làm giảm hay mất khả năng lao động. Mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. hay cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản v…v.Đồng thời những biến cố đó diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
Phần thu nhập của người lao động bị giảm hay mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hay thay thế từ một nguồn quĩ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quĩ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được hỗ trợ từ phía nhà nước.
Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hay mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hoá như sau:
- Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ
- Chăm sóc sức khoẻ và chồng bệnh tật.
- Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân chủ và các nhu cầu đặc biệt của người già ngươì tàng tật và trẻ em.
Với những mục tiêu đó BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được đại hội đồng LHQ thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 trong đó có ghi rằng:
" Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quỳên đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người".
Xem xét bản chất của BHXH chúng ta sẽ hiểu được vai trò và chức năng to lớn của BHXH trong cuộc sống của người lao động nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
III. Chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH.
Chế độ hưu trí là một trong các chế độ nằm trong hệ thống các chế độ BHXH. Từ khi BHXH ra đời thì chế độ hưu trí đã được đặt ra và nó được coi đó là chế độ chủ yếu được quan tâm trong hệ thống các chế độ BHXH. Vì khi đến tuổi phải nghỉ việc người lao động sẽ được nhận một phần tiền gọi là lương hưu được trợ cấp cho họ để họ ổn dịnh cuộc sống và sinh sống bình thường.
BHXH VIệt Nam ra đời từ 1946 ngay sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công và đã qua nhiều làan điều chỉnh và sửa đổi.
Năm 1946 chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh qui định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn hưu trí cho công nhân viên chức nhà nước.
(Sắc lệnh 29/ SL ngày 12/3/1947; Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950; sắc lệnh 77?SL ngày 22/5/1950 )
Cơ sở pháp lý tiếp theo của BHXH được thể hiện trong hiến pháp năm 1959. Hiến pháp này đã thừa nhận, công nhân viên chức có quyền được hưởng trợ cấp BHXH. Quyền này được cụ thể hoá trong đièu lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước ban hành kèm theo nghị định 161/ CP ngày 30/10/1964. Trong suốt những năm kháng chiến chống xâm lược chính sách BHXH nước ta đã góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn trong việc động viên sức người, sức của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược.
Từ năm 1986. Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng.Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: " Nhà nước thực hiện chế độ BHXH đối với công chức nhà nước và người làm công ăn lương khuyến khichs phát triển các hình thức BHXH đối với người lao động".
Trong văn kiện Đại Hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng BHXH. Thống nhất tách quí BHXH ra khỏi ngân sách nhà nước.
Văn kiện Đại Hội VIII cũng nêu rõ:
" Mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế".
Các văn bản trên của Đảng và nhà nươca là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới chính sách BHXH nước ta theo cơ chế thị trường.
Ngay sau khi bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995 chính phủ đã ban hành nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về điều lệ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế.
Nghị định có qui định các điều khoản về chế độ hưu trí đối với người về hưu . Nội dung của các điều khoản được qui định như sau:
1. Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi nghỉ việc có một trong các điều kiện sau:
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên
- Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà 20 năm đó có thời gian làm việc thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Đủ 15 năm làm nghề hay công việc nặng nhọc, độc hại.
+ Đủ 15 năm làm việc ở lơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên
+ Đủ 15 năm công tác ở miền Nam,ở Lào trước ngày 30/4/1975 hay ở Campuchia trước ngày 31/8/1989
2. Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn chế độ hưu trí qui định tại nội dung trên khi có một trong các điều kiện sau:
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đòng BHXH đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.Người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên( không phụ thuộc vavf tuổi đời).
- Danh mục nghề hay công việc nặng nhọc, độc hại, đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại do bộ lao động thương binh và xã hội và các bộ y tế ban hành.
3. Quy đinh quyền lợi của người lao động khi được hưu trí hàng tháng.
a, Lương hưu hàng tháng tính theo số năm đóng BHXH và mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH năm sau:
- Người lao động có thời gian đóng BHXH đến 15 năm tính bằng 45% mức bình quân ra tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH, sau đó cứ thêm một năm đóng BHXH tính thêm 2% mức lương hưu hàng tháng tối đa bằng 75 %mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH.
- Đối với người lao động hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp nhất theo qui định tại nội dung của điều khoản 2 thì cách tính lương hưu như qui định tại điều khoản thứ nhất của điều khoản này, nhưng cứ mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi so với qui định tại mục thứ nhất và thứ hai của điều khoản một thì giảm 2% mức bình quân của tiền lương hàng tháng làm căn cứ đóng BHXH.
- Mức lương hưu thấp nhất cũng bằng mức tiền lương tối thiểu.
b, Ngoài lương hưu hàng tháng đối với người lao động có thời gian đóng BHXH trên 30năm khi nghỉ hưu được trợ cấp một lần theo cách tính như sau: từ năm thứ 31 trở lên mỗi năm (12 tháng ) đóng BHXH được nhận bằng nửa tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH nhưng tối đa không quá 5 tháng.
c, Người lao động hưởng lương hưu hàng tháng được bảo hiểm y tế do quĩ BHXH
d, Người lao động hưởng lương hưu hàng tháng khi chết gia đình được hưởng chế độ tử tuất.
4. Người lao động nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng theo qui định tại nội dung thứ nhất và thứ hai của điều lệ thì được hưởng trợ cấp 1 lần, cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng 1 tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH, hay có thể chờ đến khi đủ tuổi đời thì được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng.
5. Cách tính mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH để làm cơ sở tính lương hưu hàng tháng, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu qui định tại nội dung thứ 3 và thứ 4 điều lệ này qui định như sau:
- Người lao động đóng BHXH theo các mức tiền lương tháng trong các hệ thống tháng lương, bảng lương do nhà nước qui định thì tính bình quân gia quyền các mứctiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH trong 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
-Người vừa có thời gian đóng BHXH theo tiền lương trong các hệ thống tháng lương, bảng lương do nhà nước qui định thì tính bình quân gia quyền các mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH chung của các thời gian.
6. Người lao động đang hưởng lương hưu mà ở lại nước ngoài hợp pháp thì uỷ nhiệm cho nhận thêm ở trong nước nhận lương hưu hàng tháng( giấy uỷ nhiệm có giá trị trong 6 tháng và phải có xác nhận của Sứ Quán nước Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại nước mà người đó cư trú)
Những nội dung trên đã được các cơ quan BHXH áp dụng khi tính lương hưu cho người lao động và xét để người lao động được hưởng trợ cấp lương hưu hàng tháng
Phần II: chế độ hưu trí và đời sống người về hưu ở thanh oai
I. Vài nét về BHXH ở thanh oai:
c. Tiện nghi sinh hoạt và phương tiện đi lại của gia dình gười về hưu
Để phục vụ cho đời sống hàng ngày của con người chúng ta cần phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, nhữg thứ đó cho ta thấy mức sống và tài sản của gia đình người về hưu.
Qua điều tra 498 gia đình hưu trí trong huyện ta có kết quả sau:
Đơn vị tính Tiện nghi sinh hoạt Phương tiện đi lại
Đài Ti vi Video Xe đạp Xe máy
Cái (chiếc) 490 450 120 498 270
Tỉ lệ % 98.4 90.4 24 100 60
Nhìn bảng trên ta thấy hầu như gia đình nào cũng có ti vi điều này dễ
hiểu bởi vì đây là phwng tiện truyền thông, giải trí quan trọng trong từng gia đình.
Các phương tiện tham gia vào quá trình lao động sản xuất và các hoạt động khác. con người cần đi lại, vì vậy phương tiện đi lại như xe máy, xe đạp là rất cần thiết. Xe đạp chiếm 100% gia đình người về hưu sử dụng, xe máy chiếm 60%.
Qua khảo sát số liệu trong bản báo cáo tổng kết của BHXH Thanh Oai ( năm 2001) ta thấy thu nhập của người về hưu trong huyện là tương đối cao. Cả phần thu nhập ngoài lương hưu và lương hưu của họ trung bình từ 500 ngàn đến 1 triệu/ tháng.
2. Đời sông tinh thần của người về hưu trong huyện
Đời sống tinh thần được hiểu là những vấn đề như học tập vui chơi, giải
trí … Các hoạt động trong các tổ chức xã hội đem lại sự vui vẻ về tâm tư tình cảm của con người.
Trong những năm gần đây nền kinh tế của nước ta có bước phát triển nhanh chóng và ổn định và cùng với sự quan tâm của đảng và nhà nước ta nên đời sống tinh thần của người của người về hưu ở nước ta nói chung và người về hưu ở huyện thanh oai nói riêng là rất cao
Trong tâm tư tình cảm của mình người về hưu luôn muốn dành phần còn lại của cuộc đời mình để phục vụ có ích cho xã hội. Họ không muốn rằng khi họ về nghỉ hưu thì họ là kẻ ăn bám xã hội và họ không chịu được sự buồn tẻ khi phải ngồi chơi xơi nước. Hiểu được tâm tư này của người về hưu đảng bộ và chính quyền địa phương luôn chăm lo tạo mọi điều kiện tốt nhất để người về hưu tham gia vào các phong trào của địa phương.
Nhiều xã trong huyện đã thành lập câu lạc bộ của những người về hưu ( câu lạc bộ hưu trí ) hàng tuần họp một lần, trong những buổi họp có toạ đàm về tình hình kinh tế chính trị của địa phương, đất nước và trên thế giới. Ngoài ra người về hưu còn có câu lạc bộ thơ văn, câu lạc bộ cầu lông, bóng bàn, cờ tướng.
Nững cái đó chỉ là một phần trong đời sống tinh thần của người về hưu còn thú vui chủ yếu của người về hưu trong huyện là chơi cây cảnh, non bộ. Những cán bộ hưu trí trong huyện thông qua hội nông dân của huyện lập ra hội những người làm vườn của huyện hàng tháng họ họp lại để bàn luận trao đổi kinh nghiệm về công việc của mình, Sẵn có bộ óc hiểu biết và tư duy trừu tượng cao mà những sản phẩm cây cảnh của người về hưu mang dáng dấp vừa hiện đại, vừa có tinh thần dân tộc cao. Nhìn những cây thế, chậu cảnh của họ ta liên tưởng như đang được sống trong một thế giớicủa những cây cổ thụ thu nhỏ với cây đa, giếng nước con đò.
Trong số những người về nghỉ hưu trong huyện nhiều người là đảng viên lên khi về nghỉ hưu họ không quyên trách nhiệm của mình đối với đất nước. Nhiều người khi về nghỉ hưu tại địa phương họ được tham gia vào tổ chức chính quyền địa phương, cùng với chính quyền địa phương đưa đường nối tư tưởng của Đảng tới người dân. Do ậy người về hưu đã đóng một vai trò quan trọng ở địa phương.
Ngoài xã hội đã vậy, còn trong gia đình họ dạy bảo con cái họ làm việc học tập theo hiến pháp và pháp luật cảu nhà nước. Gia đình của những người về hưu luôn lêu cao tinh thần gương mẫu cho những người noi theo. Chẳng có niềm vui nào bằng niềm vui được sống cùng với người thân trong gia đình để chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn. Người về hưu đã có một thời son trẻ của mình cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ , xây dựng và phát triển đất nước nay hết tuổi làm việc về nghỉ hưu ngày ngày được quây quần bên con cháu đó là một niềm vui lớn nhất của đời họ. Họ còn biết ước ao gì hơn thế đa số con cái của những người về hưu đều thành đạt bởi vì họ đã được hưởng sự gáo dục của truyền thống gia đình. Họ đã được cha mẹ mình tạo mội điều kiện tốt nhất cho học tập. Qua đó ta thấy rằng người về hưu luôn quan tâm đến việc học tập trau rồi trí thức cho con cái họ, họ coi đó là cốt lõi hàng đầu của mỗi con người, tri thức sẽ là chìa khoá cho con cái họ mở cánh của để bước vào thế kỷ 21 đầy tự tin vững vàng.
Không chỉ lo cho con cái họ học tập mà người về hưu cũng không ngừng nâng cao hiểu biết của mình về xã hội.
Hàng sáng họ đọc báo, nghe đài, xem ti vi để nắm bắt thông tin về tình hình đất nước cũng như trên thế giới
Mỗi xã trong huyện đã có thư viện riêng gồm nhiều đầu sách về kinh tế chính trị, văn hoá tạo điều kiện cho người về hưu đến đọc và tìm hiểu.
Chúng ta có thể thấy rằng so với thế giới thì nước ta còn rất cùng kiệt nhưng Đảng và nhà nước ta luôn có truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn ” lên việc thực hiện các chính sách xã hội là một điều cần thiết. Dân cư có ổn định thì đất nước mới mạnh giầu.
Nhìn chung người về hưu ở nước ta là bộ phận dân cư có mức sống cao và ổn định nhất.
Phần iii
Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
Trong những năm gần đây việc thực hiện chế độ chính sách ở Việt Nam nói chung và ở huyện Thanh Oai nói riêng là rất tốt và đạt được những thành quả tích cực. Điều đó thể hiện chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta cùng với sự nỗ lực phấn đấu trong lao động sản xuất cảu bản thân gia đình người về hưu đã làm cho cuộc sống vật chất và tinh thần của gia đình người về hưu ngày càng phong phú hơn.
Mục tiêu tạo cho người về hưu “ đầy đủ về vật chất, yên ổn về tinh thần “ của Đảng và nhà nước ta đã dần dần.
2. Kiến nghị
Qua nghiên cứu và tìm hiểu em thấy cần đưa ra một số kiến nghị để thực hiện chế độ đối với người về hưu ở huyện Thanh Oai được thực hiện tốt hơn:
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền về bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp cơ quan nhà nước…để họ hiểu tác dụng của BHXH đối với người lao động.
- Khi người lao động đóng BHXH các doanh nghiệp phải ghi chép đày đủ từng tháng, năm. Tránh sai xót về thời gian vì nó ảnh hưởng đến việc hưởng lương hưu sau này của người lao động.
- Kết hợp hài hoà chính sách kinh tế với chính sách xã hội trong quá trình thực hiện chế độ hưu trí.
- Bộ máy quản lý về BHXH phải có sự đổi mới bằng cách đào tạo cán bộ chuyên trách để nângcao trình độ chuyên môn, hiểu biết các điều luật của nhà nước có liên quan tới việc xét duyệt chế độ, để họ áp dụng vào công việc một cách nhanh chóng và chính xác hơn.
- Để đảm bảo công tác quản lý hồ sơ ở đơn vị BHXH tốt hơn đề nghị cơ quan cấp trên trang bị thêm cơ sở vật chất như phương tiện làm việc máy tính tủ hồ sơ, máy in. Mặt khác tăng cường thêm cán bộ chuyên viên có trình độ về các phòng BHXH huyện.
- Muốn cho đời sống tinh thần của người về hưu được nâng cao hơn nhà nước tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho người về hưu sinh hoặt tại địa phương như: xây dựng các nhà văn hoá thể thao cho người về hưu, ây dựng thư viện gồm nhiều đầu sách về chính trị xã hội.
Do thời gian kiến tập ngắn ngủi cùng với sự hạn chế về trình độ nhận thức cũng như kinh nghiệm. Chắc chắn bài viết của em không tránh khỏi những thiếu xót. Vì vậy rất mong được sự góp ý chân thành của thầy cô và bạn bè.
Cuối cùng em xin chân thành Thank sự tận tình chỉ bảo của thầy giáo Nguyễn Văn Định Khoa Kinh tế Bảo hiểm Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cùng các cô chú cán bộ nhân viên của phòng BHXH Thanh Oai đã giúp đỡ tận tình cháu hoàn thành đề tài báo cáo này ! ! !
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
lời nói đầu
Chúng ta đang sống trong thời đại mà cuộc sống cách mạng khoa học kĩ thuật vĩ đại chưa từng có trong lịch sử đang được phát triển với những tốc độ mong muốn sự tiến bộ trong tất cả các lĩnh vực khoa học. Số lượng tri thức tăng lên, kĩ thuật ngày càng trở lên tinh vi và phức tạp. Kết quả là loài người đã hoá sang một kỷ nguyên mới.Kỷ nguyên của tri thức khoa học và kĩ thuật.
Trong đó điều kiện XHCN, cách mạng khoa học và kĩ thuật càng có triển vọng phát triển rộng lớn.Nền kinh tế phát triển có định hướng đảm bảo cho sự phát triển không ngừng của khoa học kĩ thuật và việc ứng dụng các thành tựu của nó nhằm phục vụ các lợi ích xã hội nâng cao đời sống cho người lao động và góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh.
Cùng với sự phát triển của khoa học kĩ thuật. Đảng và nhà nước ta đã quan tâm đến đời sống của người lao động nhất là người lao động lâu năm è nghỉ hưu. Bởi vì chính họ là những người đặt nền móng cho việc xây dựng và phát triển tổ quốc trong những năm qua.
Đảng và nhà nước ta đã từng bước hoàn trỉnh hệ thống BHXH trong đó có qui định về chế độ trợ cấp hưu trí cho người lao động đã về nghỉ hưu.Đặc biệt nhà nước đã tạo mọi điều kiện cho người về hưu có cuộc sống tốt nhất.
Quán triệt tư tưởng và chính sách của đảng và nhà nước.BHXH Hà Tây luôn làm tròn trách nhiệm của mình, hướng dẫn chỉ đạo các phòng ban cấp dưới thi hành.
Phòng BHXH Thanh Oai nằm dưới quyền chỉ đạo của BHXH Hà Tây luôn đi đầu hưởng ứng và làm tròn trách nhiệm của mình trong việc thực hiện chế độ hưu trí và đảm bảo đời sống tinh thần và vật chất cho những người về hưu trong huyện.
Phần I:
khái quát chung về BHXH
I. Vai trò của BHXH đối với người lao động và với người sử dụng lao động trong cơ chế thị trường.
BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. Từ khi ra đời BHXH đã thể hiện được vai trò của mình đối với người lao động và người sử dụng lao động.
1. BHXH đối với người lao động.
Trong xã hội khi nền sản xuất hàng hoá phát triển xuất hiện sự thuê mướn lao động. Xã hội càng phát triển thì sự phân công lao động càng sâu sắc ở diện rộng, trong quá trình thuê mứơn lao động phát sinh một loại vấn đề có liên quan.
Con người muốn tiền tài và phát triển thì phải ăn ở đi lại v….v…Để thoả mãn những nhu cầu đó con người phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết phục vụ cho xã hội. Nhưng trong quá trình lao động con người không chỉ gặp thuận lợi mà đôi khi có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi.ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hay mất thu nhập hay các điều kiên sinh sống khác.
Chẳng hạn bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v…v.
Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thé mà mất đi, trái laị có cái còn tăng lên, thậm trí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: Cần được khám chữa bệnh và điều trị khi bị ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần có người chăm sóc nuôi dưỡng v..v. Vì vậy để muốn tồn tại và ổn định cuộc sống của mình người lao động đã tham gia đóng bảo hiểm xã hội và họ được hưởng rất nhiều quyền lợi từ BHXH.BHXH thay thế hay bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi không may họ gặp phải những ruỉ ro bất chắc v…v trong cuộc sống. Ngoài ra khi người lao động hết tuổi lao động về hưu mà có đủ các điều kiện được BHXH cấp hưu trí thì người lao động sẽ được hưởng lương hưu để ổn định cho cuộc sống tuổi già.
BHXH góp phần kích thích người lao động tham gia hăng say sản xuất để tạo ra của cải vật chất cho xã hội từ đó làm tăng năng suất lao động cá nhân và tăng năng suất lao động xã hội.
Qua đây ta có thể thấy rõ BHXH có vai trò rất to lớn đối với người lao động và đối với sự phát triển của xã hội.
2. BHXH đối với người sử dụng lao động.
Trước kia khi chưa có BHXH người lao động không may bị gặp rủi ro, bất chắc…không thể làm việc được họ phải ngỉ một thời gian.Trong thời gian nghỉ việc đó người lao động không được giới chủ ( người sử dụng lao động) trả lương. Người lao động đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Nhưng nhu cầu của họ không những không giảm mà lại càng tăng thêm. Trong khi đó tiền lương lại không được hưởng. Từ đó dẫn đến người lao động vào con đường cùng cực. Vì thế mâu thuẫn chủ thợ ngày càng diễn ra gay gắt. Giới thợ liên kết đấu tranh đòi được hưởng quyền lợi trợ cấp khi không may họ gặp rủi ro…Nhưng cuộc đấu tranh này gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất làm giảm năng suất và chất lượng của sản phẩm. Do vậy nhà nước đã đưa ra làm trung gian điều hoà mâu thuẫn này bằng cách bắt buộc chủ và thợ mỗi bên đều phải đóng góp một phần tiền vào quĩ BHXH để khi người lao động không may rủi ro bất chắc xảy ra thì trích một phần từ quĩ BHXH ra để trợ cấp cho người lao động để họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác. Từ khi có BHXH mâu thuẫn giữa giới chủ và thợ đã được điều hoà. Giới chủ không phải e sợ người lao động biểu tình bãi công. Từ đó người lao động sẽ yên tâm làm việc với năng suất và chất lượng cao. Tạo ra nhiều của cải vật chất cho giới chủ. Lợi nhuận mà giới chủ kiếm được sẽ ngày một nhiều hơn.
II. Bản chất của BHXH.
Bản chất của BHXH được thể hiện rõ ở những nội dung sau:
BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà SX hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của môĩ nước.
Mỗi quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hay cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện dàng buộc cần thiết.
Những biến cố làm giảm hay mất khả năng lao động. Mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. hay cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản v…v.Đồng thời những biến cố đó diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
Phần thu nhập của người lao động bị giảm hay mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hay thay thế từ một nguồn quĩ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quĩ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được hỗ trợ từ phía nhà nước.
Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hay mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hoá như sau:
- Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ
- Chăm sóc sức khoẻ và chồng bệnh tật.
- Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân chủ và các nhu cầu đặc biệt của người già ngươì tàng tật và trẻ em.
Với những mục tiêu đó BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được đại hội đồng LHQ thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 trong đó có ghi rằng:
" Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quỳên đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người".
Xem xét bản chất của BHXH chúng ta sẽ hiểu được vai trò và chức năng to lớn của BHXH trong cuộc sống của người lao động nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
III. Chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH.
Chế độ hưu trí là một trong các chế độ nằm trong hệ thống các chế độ BHXH. Từ khi BHXH ra đời thì chế độ hưu trí đã được đặt ra và nó được coi đó là chế độ chủ yếu được quan tâm trong hệ thống các chế độ BHXH. Vì khi đến tuổi phải nghỉ việc người lao động sẽ được nhận một phần tiền gọi là lương hưu được trợ cấp cho họ để họ ổn dịnh cuộc sống và sinh sống bình thường.
BHXH VIệt Nam ra đời từ 1946 ngay sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công và đã qua nhiều làan điều chỉnh và sửa đổi.
Năm 1946 chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh qui định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn hưu trí cho công nhân viên chức nhà nước.
(Sắc lệnh 29/ SL ngày 12/3/1947; Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950; sắc lệnh 77?SL ngày 22/5/1950 )
Cơ sở pháp lý tiếp theo của BHXH được thể hiện trong hiến pháp năm 1959. Hiến pháp này đã thừa nhận, công nhân viên chức có quyền được hưởng trợ cấp BHXH. Quyền này được cụ thể hoá trong đièu lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước ban hành kèm theo nghị định 161/ CP ngày 30/10/1964. Trong suốt những năm kháng chiến chống xâm lược chính sách BHXH nước ta đã góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn trong việc động viên sức người, sức của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược.
Từ năm 1986. Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng.Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: " Nhà nước thực hiện chế độ BHXH đối với công chức nhà nước và người làm công ăn lương khuyến khichs phát triển các hình thức BHXH đối với người lao động".
Trong văn kiện Đại Hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ cần đổi mới chính sách BHXH theo hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng BHXH. Thống nhất tách quí BHXH ra khỏi ngân sách nhà nước.
Văn kiện Đại Hội VIII cũng nêu rõ:
" Mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế".
Các văn bản trên của Đảng và nhà nươca là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới chính sách BHXH nước ta theo cơ chế thị trường.
Ngay sau khi bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995 chính phủ đã ban hành nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về điều lệ BHXH đối với người lao động trong các thành phần kinh tế.
Nghị định có qui định các điều khoản về chế độ hưu trí đối với người về hưu . Nội dung của các điều khoản được qui định như sau:
1. Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi nghỉ việc có một trong các điều kiện sau:
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đóng BHXH đủ 20 năm trở lên
- Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi và có đủ 20 năm đóng BHXH trở lên mà 20 năm đó có thời gian làm việc thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Đủ 15 năm làm nghề hay công việc nặng nhọc, độc hại.
+ Đủ 15 năm làm việc ở lơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên
+ Đủ 15 năm công tác ở miền Nam,ở Lào trước ngày 30/4/1975 hay ở Campuchia trước ngày 31/8/1989
2. Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp hơn chế độ hưu trí qui định tại nội dung trên khi có một trong các điều kiện sau:
- Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi và có thời gian đòng BHXH đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.Người lao động có ít nhất 15 năm làm công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại đã đóng BHXH đủ 20 năm trở lên mà bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên( không phụ thuộc vavf tuổi đời).
- Danh mục nghề hay công việc nặng nhọc, độc hại, đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại do bộ lao động thương binh và xã hội và các bộ y tế ban hành.
3. Quy đinh quyền lợi của người lao động khi được hưu trí hàng tháng.
a, Lương hưu hàng tháng tính theo số năm đóng BHXH và mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH năm sau:
- Người lao động có thời gian đóng BHXH đến 15 năm tính bằng 45% mức bình quân ra tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH, sau đó cứ thêm một năm đóng BHXH tính thêm 2% mức lương hưu hàng tháng tối đa bằng 75 %mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH.
- Đối với người lao động hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức lương hưu thấp nhất theo qui định tại nội dung của điều khoản 2 thì cách tính lương hưu như qui định tại điều khoản thứ nhất của điều khoản này, nhưng cứ mỗi năm nghỉ việc hưởng lương hưu trước tuổi so với qui định tại mục thứ nhất và thứ hai của điều khoản một thì giảm 2% mức bình quân của tiền lương hàng tháng làm căn cứ đóng BHXH.
- Mức lương hưu thấp nhất cũng bằng mức tiền lương tối thiểu.
b, Ngoài lương hưu hàng tháng đối với người lao động có thời gian đóng BHXH trên 30năm khi nghỉ hưu được trợ cấp một lần theo cách tính như sau: từ năm thứ 31 trở lên mỗi năm (12 tháng ) đóng BHXH được nhận bằng nửa tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH nhưng tối đa không quá 5 tháng.
c, Người lao động hưởng lương hưu hàng tháng được bảo hiểm y tế do quĩ BHXH
d, Người lao động hưởng lương hưu hàng tháng khi chết gia đình được hưởng chế độ tử tuất.
4. Người lao động nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng theo qui định tại nội dung thứ nhất và thứ hai của điều lệ thì được hưởng trợ cấp 1 lần, cứ mỗi năm đóng BHXH được tính bằng 1 tháng mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH, hay có thể chờ đến khi đủ tuổi đời thì được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng.
5. Cách tính mức bình quân của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH để làm cơ sở tính lương hưu hàng tháng, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu qui định tại nội dung thứ 3 và thứ 4 điều lệ này qui định như sau:
- Người lao động đóng BHXH theo các mức tiền lương tháng trong các hệ thống tháng lương, bảng lương do nhà nước qui định thì tính bình quân gia quyền các mứctiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH trong 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu.
-Người vừa có thời gian đóng BHXH theo tiền lương trong các hệ thống tháng lương, bảng lương do nhà nước qui định thì tính bình quân gia quyền các mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH chung của các thời gian.
6. Người lao động đang hưởng lương hưu mà ở lại nước ngoài hợp pháp thì uỷ nhiệm cho nhận thêm ở trong nước nhận lương hưu hàng tháng( giấy uỷ nhiệm có giá trị trong 6 tháng và phải có xác nhận của Sứ Quán nước Cộng Hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại nước mà người đó cư trú)
Những nội dung trên đã được các cơ quan BHXH áp dụng khi tính lương hưu cho người lao động và xét để người lao động được hưởng trợ cấp lương hưu hàng tháng
Phần II: chế độ hưu trí và đời sống người về hưu ở thanh oai
I. Vài nét về BHXH ở thanh oai:
c. Tiện nghi sinh hoạt và phương tiện đi lại của gia dình gười về hưu
Để phục vụ cho đời sống hàng ngày của con người chúng ta cần phương tiện đi lại, tiện nghi sinh hoạt, nhữg thứ đó cho ta thấy mức sống và tài sản của gia đình người về hưu.
Qua điều tra 498 gia đình hưu trí trong huyện ta có kết quả sau:
Đơn vị tính Tiện nghi sinh hoạt Phương tiện đi lại
Đài Ti vi Video Xe đạp Xe máy
Cái (chiếc) 490 450 120 498 270
Tỉ lệ % 98.4 90.4 24 100 60
Nhìn bảng trên ta thấy hầu như gia đình nào cũng có ti vi điều này dễ
hiểu bởi vì đây là phwng tiện truyền thông, giải trí quan trọng trong từng gia đình.
Các phương tiện tham gia vào quá trình lao động sản xuất và các hoạt động khác. con người cần đi lại, vì vậy phương tiện đi lại như xe máy, xe đạp là rất cần thiết. Xe đạp chiếm 100% gia đình người về hưu sử dụng, xe máy chiếm 60%.
Qua khảo sát số liệu trong bản báo cáo tổng kết của BHXH Thanh Oai ( năm 2001) ta thấy thu nhập của người về hưu trong huyện là tương đối cao. Cả phần thu nhập ngoài lương hưu và lương hưu của họ trung bình từ 500 ngàn đến 1 triệu/ tháng.
2. Đời sông tinh thần của người về hưu trong huyện
Đời sống tinh thần được hiểu là những vấn đề như học tập vui chơi, giải
trí … Các hoạt động trong các tổ chức xã hội đem lại sự vui vẻ về tâm tư tình cảm của con người.
Trong những năm gần đây nền kinh tế của nước ta có bước phát triển nhanh chóng và ổn định và cùng với sự quan tâm của đảng và nhà nước ta nên đời sống tinh thần của người của người về hưu ở nước ta nói chung và người về hưu ở huyện thanh oai nói riêng là rất cao
Trong tâm tư tình cảm của mình người về hưu luôn muốn dành phần còn lại của cuộc đời mình để phục vụ có ích cho xã hội. Họ không muốn rằng khi họ về nghỉ hưu thì họ là kẻ ăn bám xã hội và họ không chịu được sự buồn tẻ khi phải ngồi chơi xơi nước. Hiểu được tâm tư này của người về hưu đảng bộ và chính quyền địa phương luôn chăm lo tạo mọi điều kiện tốt nhất để người về hưu tham gia vào các phong trào của địa phương.
Nhiều xã trong huyện đã thành lập câu lạc bộ của những người về hưu ( câu lạc bộ hưu trí ) hàng tuần họp một lần, trong những buổi họp có toạ đàm về tình hình kinh tế chính trị của địa phương, đất nước và trên thế giới. Ngoài ra người về hưu còn có câu lạc bộ thơ văn, câu lạc bộ cầu lông, bóng bàn, cờ tướng.
Nững cái đó chỉ là một phần trong đời sống tinh thần của người về hưu còn thú vui chủ yếu của người về hưu trong huyện là chơi cây cảnh, non bộ. Những cán bộ hưu trí trong huyện thông qua hội nông dân của huyện lập ra hội những người làm vườn của huyện hàng tháng họ họp lại để bàn luận trao đổi kinh nghiệm về công việc của mình, Sẵn có bộ óc hiểu biết và tư duy trừu tượng cao mà những sản phẩm cây cảnh của người về hưu mang dáng dấp vừa hiện đại, vừa có tinh thần dân tộc cao. Nhìn những cây thế, chậu cảnh của họ ta liên tưởng như đang được sống trong một thế giớicủa những cây cổ thụ thu nhỏ với cây đa, giếng nước con đò.
Trong số những người về nghỉ hưu trong huyện nhiều người là đảng viên lên khi về nghỉ hưu họ không quyên trách nhiệm của mình đối với đất nước. Nhiều người khi về nghỉ hưu tại địa phương họ được tham gia vào tổ chức chính quyền địa phương, cùng với chính quyền địa phương đưa đường nối tư tưởng của Đảng tới người dân. Do ậy người về hưu đã đóng một vai trò quan trọng ở địa phương.
Ngoài xã hội đã vậy, còn trong gia đình họ dạy bảo con cái họ làm việc học tập theo hiến pháp và pháp luật cảu nhà nước. Gia đình của những người về hưu luôn lêu cao tinh thần gương mẫu cho những người noi theo. Chẳng có niềm vui nào bằng niềm vui được sống cùng với người thân trong gia đình để chia sẻ niềm vui cũng như nỗi buồn. Người về hưu đã có một thời son trẻ của mình cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ , xây dựng và phát triển đất nước nay hết tuổi làm việc về nghỉ hưu ngày ngày được quây quần bên con cháu đó là một niềm vui lớn nhất của đời họ. Họ còn biết ước ao gì hơn thế đa số con cái của những người về hưu đều thành đạt bởi vì họ đã được hưởng sự gáo dục của truyền thống gia đình. Họ đã được cha mẹ mình tạo mội điều kiện tốt nhất cho học tập. Qua đó ta thấy rằng người về hưu luôn quan tâm đến việc học tập trau rồi trí thức cho con cái họ, họ coi đó là cốt lõi hàng đầu của mỗi con người, tri thức sẽ là chìa khoá cho con cái họ mở cánh của để bước vào thế kỷ 21 đầy tự tin vững vàng.
Không chỉ lo cho con cái họ học tập mà người về hưu cũng không ngừng nâng cao hiểu biết của mình về xã hội.
Hàng sáng họ đọc báo, nghe đài, xem ti vi để nắm bắt thông tin về tình hình đất nước cũng như trên thế giới
Mỗi xã trong huyện đã có thư viện riêng gồm nhiều đầu sách về kinh tế chính trị, văn hoá tạo điều kiện cho người về hưu đến đọc và tìm hiểu.
Chúng ta có thể thấy rằng so với thế giới thì nước ta còn rất cùng kiệt nhưng Đảng và nhà nước ta luôn có truyền thống “ Uống nước nhớ nguồn ” lên việc thực hiện các chính sách xã hội là một điều cần thiết. Dân cư có ổn định thì đất nước mới mạnh giầu.
Nhìn chung người về hưu ở nước ta là bộ phận dân cư có mức sống cao và ổn định nhất.
Phần iii
Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
Trong những năm gần đây việc thực hiện chế độ chính sách ở Việt Nam nói chung và ở huyện Thanh Oai nói riêng là rất tốt và đạt được những thành quả tích cực. Điều đó thể hiện chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước ta cùng với sự nỗ lực phấn đấu trong lao động sản xuất cảu bản thân gia đình người về hưu đã làm cho cuộc sống vật chất và tinh thần của gia đình người về hưu ngày càng phong phú hơn.
Mục tiêu tạo cho người về hưu “ đầy đủ về vật chất, yên ổn về tinh thần “ của Đảng và nhà nước ta đã dần dần.
2. Kiến nghị
Qua nghiên cứu và tìm hiểu em thấy cần đưa ra một số kiến nghị để thực hiện chế độ đối với người về hưu ở huyện Thanh Oai được thực hiện tốt hơn:
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền về bảo hiểm xã hội trong các doanh nghiệp cơ quan nhà nước…để họ hiểu tác dụng của BHXH đối với người lao động.
- Khi người lao động đóng BHXH các doanh nghiệp phải ghi chép đày đủ từng tháng, năm. Tránh sai xót về thời gian vì nó ảnh hưởng đến việc hưởng lương hưu sau này của người lao động.
- Kết hợp hài hoà chính sách kinh tế với chính sách xã hội trong quá trình thực hiện chế độ hưu trí.
- Bộ máy quản lý về BHXH phải có sự đổi mới bằng cách đào tạo cán bộ chuyên trách để nângcao trình độ chuyên môn, hiểu biết các điều luật của nhà nước có liên quan tới việc xét duyệt chế độ, để họ áp dụng vào công việc một cách nhanh chóng và chính xác hơn.
- Để đảm bảo công tác quản lý hồ sơ ở đơn vị BHXH tốt hơn đề nghị cơ quan cấp trên trang bị thêm cơ sở vật chất như phương tiện làm việc máy tính tủ hồ sơ, máy in. Mặt khác tăng cường thêm cán bộ chuyên viên có trình độ về các phòng BHXH huyện.
- Muốn cho đời sống tinh thần của người về hưu được nâng cao hơn nhà nước tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho người về hưu sinh hoặt tại địa phương như: xây dựng các nhà văn hoá thể thao cho người về hưu, ây dựng thư viện gồm nhiều đầu sách về chính trị xã hội.
Do thời gian kiến tập ngắn ngủi cùng với sự hạn chế về trình độ nhận thức cũng như kinh nghiệm. Chắc chắn bài viết của em không tránh khỏi những thiếu xót. Vì vậy rất mong được sự góp ý chân thành của thầy cô và bạn bè.
Cuối cùng em xin chân thành Thank sự tận tình chỉ bảo của thầy giáo Nguyễn Văn Định Khoa Kinh tế Bảo hiểm Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cùng các cô chú cán bộ nhân viên của phòng BHXH Thanh Oai đã giúp đỡ tận tình cháu hoàn thành đề tài báo cáo này ! ! !
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Tags: vai tro cua chinh sach BHXH doi voi nguoi lao dong, vai trò của bảo hiểm xã hội đối với người lao động, vai trò của bảo hiểm đối với người lao động, vai trò của bảo hiểm xã hội đối với người lao động và người sử dụng lao động trong điều kiện kinh tế thị trường, vai trò của bhxh đối với người lao động, bảo hiểm xã hội đối với người sử dụng lao động
Last edited by a moderator: