young_pu_0101
New Member
Download miễn phí Vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới
MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU 1
II. NỘI DUNG 2
A.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA 2
B. VAI TRÒ CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA TRONG NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI 19
C. HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐỘC QUYỀN XUYÊN QUỐC GIA Ở VIỆT NAM 28
III. KẾT LUẬN 36
http://cloud.liketly.com/flash/edoc/web-viewer.html?file=jh2i1fkjb33wa7b577g9lou48iyvfkz6-demo-2016-03-13-vai_tro_cua_cac_cong_ty_xuyen_quoc_gia_trong_nen_kinh_te_the_m4ChNRn0yf.png /tai-lieu/vai-tro-cua-cac-cong-ty-xuyen-quoc-gia-trong-nen-kinh-te-the-gioi-92357/
Để tải tài liệu này, vui lòng Trả lời bài viết, Mods sẽ gửi Link download cho bạn ngay qua hòm tin nhắn.
Ketnooi -
You must be registered for see links
Ai cần tài liệu gì mà không tìm thấy ở Ketnooi, đăng yêu cầu down tại đây nhé:
Nhận download tài liệu miễn phí
Tóm tắt nội dung tài liệu:
ững ưu đãi về thuế quan, làm cho giá thành sản phẩm giảm, tạo ra những ưu thế để cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Một yếu tố khác làm cho quá trình quyên quốc gia hoá của các tập đoàn tư bản ngày càng phát triển mạnh mẽ đó là sự tác động của cách mạng khoa học – kỹ thuật – công nghệ và nó biểu hiện ở một số điểm sau đây:
Nó đã làm xuất hiện những ngành mới với tốc độ cao và ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế , đồng thời đặt ra yêu cầu và tạo điều kiện trẻ hoá ngành sản xuất lâu đời như ngành công nghiệp vũ trụ Mỹ đã làm xuất hiện khoảng 3000 ngành mới.
Bản thân việc nghiên cứu khoa học đỏi hỏi phải có đầu tư lớn như chương trình Apolo (Mỹ) đã chi hết 24 tỷ đô la, thu hút 40 vạn nhà khoa học và công nhân tham gia. Đây chính là nhân tố làm cho nganh dịch vụ kỹ thuật phát triển, các Công ty đầu đàn có thêm điều kiện bành trướng ra nước ngoài. Việc xuất khẩu tư bản của CNTB độc quyền Nhà nước có nhiều ý nghĩa đối với sự hoạt động quốc tế của các Công ty xuyên quốc gia , nó dọn đường cho các Công ty xuyên quốc gia hoạt động, làm cho các Công ty này tiếp lớn mạnh và có thêm sức bành trướng.
Trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất ngày càng phát triển, sự ra đời của các Công ty xuyên quốc gia là một tất yếu khách quan và nó là một tất yếu khách quan và nó là sản phẩm của quá trình quốc tế hoá sản xuất. Chỉ có trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất cao độ thì mới có những tiền đề vật chất khách quan để các Công ty xuyên quốc gia ra đời. Đồng thời cùng với những điều kiện cơ bản trên, còn có những tác động khác đưa đến sự ra đời của các Công ty xuyên quốc gia. Đó là lợi ích trong việc giải quyết những nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, về thị trường kinh doanh, về việc vượt rào thuế quan và phi thuế quan không chỉ đối với các nước trong thế giới thứ ba mà cả với các nước tư bản phát triển.
2.2 Quá trình phát triển
Từ những năm 70, đặc biệt từ những năm 90 trở lại đây, các Công ty xuyên quốc gia phát triển vô cùng nhanh chóng, sức mạnh của chúng ngày càng tác động lớn đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới và khu vực. Năm 1995 tổng kim ngạch tiêu thụ của 270.000 Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài thuộc 39.000 Công ty xuyên quốc gia trên toàn cầu đã lên tới 6.100 tỷ USD, gấp 1,5 lần tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới (4.900 tỷ USD). Ưu thế lớn nhất của các Công ty xuyên quốc gia là có khả năng phối hợp, bố trí một cách linh hoạt, hợp lý nhất các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu, do vậy thu được hiệu quả rất cao trong sản xuất kinh doanh. Ưu thế này bắt nguồn từ hệ thống tổ chức của các Công ty xuyên quốc gia. Mạng lưới các Công ty chi nhánh đặt ở nước ngoài đã tạo cho nó khả năng biến chức năng tiêu thụ riêng lẻ, độc lập thành chức năng nội bộ của Công ty xuyên quốc gia, từ đó mọi khâu từ cung cấp các nguồn lực sản xuất , tiêu thụ ở mọi miền trên thế giới đều phục vụ cho chiến lược của Công ty xuyên quốc gia mẹ một cách hữu hiệu nhất. Cũng có nghĩa là phân công hợp tác quốc tế trở thành phân công hợp tác trong nội bộ Công ty xuyên quốc gia.
Nhờ những ưu thế trên, các Công ty xuyên quốc gia đã phát triển nhanh chóng không chỉ về mặt số lượng mà còn phát triển nhanh về chất lượng, biểu hiện ở sự xâm nhập ngày càng sâu của chúng vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới và khu vực cũng như từng quốc gia, ở sự đa dạng hoá chức năng hoạt động của chúng.
Ngày nay các Công ty xuyên quốc gia không chỉ chú trọng vào các ngành tập trung nhiều lao động, nhiều nguyên liệu mà ngày càng chú trọng hơn đến các ngành kỹ thuật cao, hướng tới nơi có giá thành sản xuất thấp để xây dựng nhà mà sản xuất các sản phẩm có kỹ thuật cao, thậm trí hướng tới những ngành đòi hỏi nhieuè chất xám hơn như thiết kế sản phẩm, khai thác phần mềm. Như một Công ty xuyên quốc gia Mỹ đã xây dựng ở Malaixia nhà máy sản xuất tấm vi mạch. Điểm đáng chú ý ở đây là Công ty xuyên quốc gia Mỹ này đã không sử dụng kỹ sư Mỹ mà đã sử dụng kỹ sư và nhân viên kỹ thuật bản xứ. Do thiết kế sản phẩm và nghiên cứu triển khai đều dựa và kỹ sư và nhân viên bản xé nên chi phí nghiên cứu và triển khai của các Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài đã tăng rất nhanh. Các Công ty xuyên quốc gia không chỉ tiến hành nghiên cứu triển khai đơn lẻ mà chúng còn có nhiều điều kiện và khả năng phối hợp nghiên cứu triển khai liên quốc gia. Nổi bật là Công ty xuyên quốc gia hàng đầu của Nhật Bản là Toshiba đã liên kết với Công ty thiết bị thương mại quốc tế của Mỹ và Công ty Simen của Đức.
Số liệu sau đây cho chúng ta thấy hiện nay thế giới có bao nhiêu Công ty xuyên quốc gia – Công ty mẹ.
Bảng 1: Số lượng các Công ty xuyên quốc gia mẹ, theo nước
Nước (1)
1968/1968 (2)
1993 (3)
1. Mỹ
2.468
3.013
2. Anh
1.692
1.443
3. Đức
954
7.003
4. Pháp
538
2.216
5. Thuỵ Sỹ
447
3.000 (2)
6. Hà Lan
268
1.608
7. Thuỵ Điển
255
3.502(3)
8. Bỉ và Luxembua
253
96 (4)
9. Đan Mạch
128
800 (1)
10. ý
120
445
11. Nauy
94
1.000
12. áo
39
838
13. Tây Ban Nha
15
744(1)
14. Bồ Đào Nha
5
1.165
15. Nhật
5
3.650
16. Tổng số 1-15
7.276
30.541
17. Thế giới
7.276
38.747
Nguồn: UNCTAD (1) năm 1992, (2) năm 1985, (3) năm 1978
Trong quá trình phát triển người ta đã lập nên các Công ty xuyên quốc gia với rất nhiều loại hìh khác nhau. Chúng ta có thể thấy nó xuất phát từ hình thức tổ chức của Công ty có các loại hình Cacten, Xandica, tờ rớt , congxoocxion đến conglomerate. Nếu phân loại theo lĩnh vực hoạt động, chúng ta có thể thấy các Công ty xuyên quốc gia bao gồm các Công ty thương mại, sản xuất, tài chính công nghệ... hoạt động trong tất cả các ngành từ ngành khai thác vật liệu, thương mại, sản xuất, chế biến, cho đến phục vụ trực tóp người tiêu dùng. Có rất nhiều Công ty hoạt động trên mọi lĩnh vực hay chỉ một lĩnh vực. Nếu hoạt động trong một ngành, chúng có thể bao gồm các công đoạn từ thiết kế, sản xuất, chào hàng, bán hàng, dịch vụ sau bán hàng. Sự phát triển nhanh chóng của các Công ty xuyên quốc gia đã làm tăng nhanh quá trình quốc tế hoá sản xuất của nền kinh tế thế giới.
Sự cải tổ, sáp nhập những Công ty xuyên quốc gia mẹ tại các nước phát triển chủ yếu là một tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển theo “cấp số nhân” của các Công ty xuyên quốc gia trên khắp thế giới trong thời gian qua cũng như thời gian tới. Năm 1983 tổng số Công ty xuyên quốc gia là 11.000, số Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài đã lên đến 200.000, tăng 79% trong vòng 10 năm. Năm 1995, tổng số Công ty xuyên quốc gia trên thế giới lại tăng thêm 8% so với 1983, nâng số lên 39.000 Công ty còn các Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài tăng 35% so với năm 1993, nâng lên tổng số 370.000 Công ty. Tổng kim ngạch tiêu thụ của các Công ty xuyên quốc gia trong năm 1995 lên đến 6.100 tỷ USD, vượt xa con số 4.800 tỷ USD của năm 1993, tăng 25%.
Đáng chú ý là những Công ty xuyên quốc gia lớn nahát trên thế giới hầu như đều thuộc gốc Mỹ. Trong số 50 Công ty xuyên quốc gia lớn nhất của Mỹ thì Bank American có số tài sản ở nước ngoài nhiều nhất, năm 1993 đã lên tới 117,1 tỷ USD, chiếm 51,3% tổng tài sản của nó. Song thu nhập lớn nhất ở nước ngoài lại thuộc về một Công ty dầu mỏ của Mỹ, năm 1993 đã lên đến 75,6 tỷ USD chiếm 77,3% tổng thu nhập của Công ty này...(1 Kinh tế thế giới số 11/1997- tr.38
)
3.Bản chất và đặc trưng của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia:
Bản chất
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triểncó thể quan sát thấynền sản xuất tư bản chủ nghĩa có “sự phát triển rất lớn của công nghiệp và quá trình tập trung cực kỳ nhanh chóng của sản xuất vào tay các xí nghiệp ngày càng to lớn” và “ một đằc điểm cực kỳ trọng yếu mà người ta gọi là chế độ liên hiệp hóa, nghĩa là sự tập hợp vào tay một xí nghiệp duy nhất nhiều ngành công nghiệp khác nhau”. Từ đó ra đời các tổ chức độc quyền, các tổ chức này sử dụng cơ chế độc quyền, tức là cơ chế vận động dựa trên giá cả độc quyền, thay cho cơ chế tự do cạnh tranh dựa trên giá cả thị trường để thu lợi nhuận độc quyền cao. Do đó có thể coi các tổ chức độc quyền là cái vỏ vật chất trong đó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động và tồn tại dưới dạng sở hữu độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền hoạt động vận động vượt biên giới quốc gia dưới sự thúc đẩy của quá trình tích tụ sản xuất trên quy mô quốc tế, thì các hình thức siêu độc quyền, tức là các công ty xuyên quốc gia xuất hiện. Đặc biệt, khi nền sản xuất tu bản chủ nghĩa chuyển từ xã hội công nghiệp lên xã hội thông tin dưới sự thúc đẩy của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ và quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế đã làm cho số lượng công ty xuyên quốc gia phát triển nhanh chóng và bản chất của nó cũng biến đổi theo hướng thích nghi với tính chất quốc tế hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, thông qua việc làm chủ sở hữu trong các hãng, công ty của các công ty xuyên quốc gia đã diễn ra nhiều thay đổi lớn trong các quan hệ về sở hữu. Đó là :
- Sở hữu độc quyền siêu quốc gia, là hình thức sở hữu hỗn hợp đã được quốc tế hóa. Đây là hình thức sở hữu mang tính khách quan ...
Một yếu tố khác làm cho quá trình quyên quốc gia hoá của các tập đoàn tư bản ngày càng phát triển mạnh mẽ đó là sự tác động của cách mạng khoa học – kỹ thuật – công nghệ và nó biểu hiện ở một số điểm sau đây:
Nó đã làm xuất hiện những ngành mới với tốc độ cao và ngày càng chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế , đồng thời đặt ra yêu cầu và tạo điều kiện trẻ hoá ngành sản xuất lâu đời như ngành công nghiệp vũ trụ Mỹ đã làm xuất hiện khoảng 3000 ngành mới.
Bản thân việc nghiên cứu khoa học đỏi hỏi phải có đầu tư lớn như chương trình Apolo (Mỹ) đã chi hết 24 tỷ đô la, thu hút 40 vạn nhà khoa học và công nhân tham gia. Đây chính là nhân tố làm cho nganh dịch vụ kỹ thuật phát triển, các Công ty đầu đàn có thêm điều kiện bành trướng ra nước ngoài. Việc xuất khẩu tư bản của CNTB độc quyền Nhà nước có nhiều ý nghĩa đối với sự hoạt động quốc tế của các Công ty xuyên quốc gia , nó dọn đường cho các Công ty xuyên quốc gia hoạt động, làm cho các Công ty này tiếp lớn mạnh và có thêm sức bành trướng.
Trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất ngày càng phát triển, sự ra đời của các Công ty xuyên quốc gia là một tất yếu khách quan và nó là một tất yếu khách quan và nó là sản phẩm của quá trình quốc tế hoá sản xuất. Chỉ có trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất cao độ thì mới có những tiền đề vật chất khách quan để các Công ty xuyên quốc gia ra đời. Đồng thời cùng với những điều kiện cơ bản trên, còn có những tác động khác đưa đến sự ra đời của các Công ty xuyên quốc gia. Đó là lợi ích trong việc giải quyết những nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, về thị trường kinh doanh, về việc vượt rào thuế quan và phi thuế quan không chỉ đối với các nước trong thế giới thứ ba mà cả với các nước tư bản phát triển.
2.2 Quá trình phát triển
Từ những năm 70, đặc biệt từ những năm 90 trở lại đây, các Công ty xuyên quốc gia phát triển vô cùng nhanh chóng, sức mạnh của chúng ngày càng tác động lớn đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới và khu vực. Năm 1995 tổng kim ngạch tiêu thụ của 270.000 Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài thuộc 39.000 Công ty xuyên quốc gia trên toàn cầu đã lên tới 6.100 tỷ USD, gấp 1,5 lần tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới (4.900 tỷ USD). Ưu thế lớn nhất của các Công ty xuyên quốc gia là có khả năng phối hợp, bố trí một cách linh hoạt, hợp lý nhất các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu, do vậy thu được hiệu quả rất cao trong sản xuất kinh doanh. Ưu thế này bắt nguồn từ hệ thống tổ chức của các Công ty xuyên quốc gia. Mạng lưới các Công ty chi nhánh đặt ở nước ngoài đã tạo cho nó khả năng biến chức năng tiêu thụ riêng lẻ, độc lập thành chức năng nội bộ của Công ty xuyên quốc gia, từ đó mọi khâu từ cung cấp các nguồn lực sản xuất , tiêu thụ ở mọi miền trên thế giới đều phục vụ cho chiến lược của Công ty xuyên quốc gia mẹ một cách hữu hiệu nhất. Cũng có nghĩa là phân công hợp tác quốc tế trở thành phân công hợp tác trong nội bộ Công ty xuyên quốc gia.
Nhờ những ưu thế trên, các Công ty xuyên quốc gia đã phát triển nhanh chóng không chỉ về mặt số lượng mà còn phát triển nhanh về chất lượng, biểu hiện ở sự xâm nhập ngày càng sâu của chúng vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới và khu vực cũng như từng quốc gia, ở sự đa dạng hoá chức năng hoạt động của chúng.
Ngày nay các Công ty xuyên quốc gia không chỉ chú trọng vào các ngành tập trung nhiều lao động, nhiều nguyên liệu mà ngày càng chú trọng hơn đến các ngành kỹ thuật cao, hướng tới nơi có giá thành sản xuất thấp để xây dựng nhà mà sản xuất các sản phẩm có kỹ thuật cao, thậm trí hướng tới những ngành đòi hỏi nhieuè chất xám hơn như thiết kế sản phẩm, khai thác phần mềm. Như một Công ty xuyên quốc gia Mỹ đã xây dựng ở Malaixia nhà máy sản xuất tấm vi mạch. Điểm đáng chú ý ở đây là Công ty xuyên quốc gia Mỹ này đã không sử dụng kỹ sư Mỹ mà đã sử dụng kỹ sư và nhân viên kỹ thuật bản xứ. Do thiết kế sản phẩm và nghiên cứu triển khai đều dựa và kỹ sư và nhân viên bản xé nên chi phí nghiên cứu và triển khai của các Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài đã tăng rất nhanh. Các Công ty xuyên quốc gia không chỉ tiến hành nghiên cứu triển khai đơn lẻ mà chúng còn có nhiều điều kiện và khả năng phối hợp nghiên cứu triển khai liên quốc gia. Nổi bật là Công ty xuyên quốc gia hàng đầu của Nhật Bản là Toshiba đã liên kết với Công ty thiết bị thương mại quốc tế của Mỹ và Công ty Simen của Đức.
Số liệu sau đây cho chúng ta thấy hiện nay thế giới có bao nhiêu Công ty xuyên quốc gia – Công ty mẹ.
Bảng 1: Số lượng các Công ty xuyên quốc gia mẹ, theo nước
Nước (1)
1968/1968 (2)
1993 (3)
1. Mỹ
2.468
3.013
2. Anh
1.692
1.443
3. Đức
954
7.003
4. Pháp
538
2.216
5. Thuỵ Sỹ
447
3.000 (2)
6. Hà Lan
268
1.608
7. Thuỵ Điển
255
3.502(3)
8. Bỉ và Luxembua
253
96 (4)
9. Đan Mạch
128
800 (1)
10. ý
120
445
11. Nauy
94
1.000
12. áo
39
838
13. Tây Ban Nha
15
744(1)
14. Bồ Đào Nha
5
1.165
15. Nhật
5
3.650
16. Tổng số 1-15
7.276
30.541
17. Thế giới
7.276
38.747
Nguồn: UNCTAD (1) năm 1992, (2) năm 1985, (3) năm 1978
Trong quá trình phát triển người ta đã lập nên các Công ty xuyên quốc gia với rất nhiều loại hìh khác nhau. Chúng ta có thể thấy nó xuất phát từ hình thức tổ chức của Công ty có các loại hình Cacten, Xandica, tờ rớt , congxoocxion đến conglomerate. Nếu phân loại theo lĩnh vực hoạt động, chúng ta có thể thấy các Công ty xuyên quốc gia bao gồm các Công ty thương mại, sản xuất, tài chính công nghệ... hoạt động trong tất cả các ngành từ ngành khai thác vật liệu, thương mại, sản xuất, chế biến, cho đến phục vụ trực tóp người tiêu dùng. Có rất nhiều Công ty hoạt động trên mọi lĩnh vực hay chỉ một lĩnh vực. Nếu hoạt động trong một ngành, chúng có thể bao gồm các công đoạn từ thiết kế, sản xuất, chào hàng, bán hàng, dịch vụ sau bán hàng. Sự phát triển nhanh chóng của các Công ty xuyên quốc gia đã làm tăng nhanh quá trình quốc tế hoá sản xuất của nền kinh tế thế giới.
Sự cải tổ, sáp nhập những Công ty xuyên quốc gia mẹ tại các nước phát triển chủ yếu là một tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển theo “cấp số nhân” của các Công ty xuyên quốc gia trên khắp thế giới trong thời gian qua cũng như thời gian tới. Năm 1983 tổng số Công ty xuyên quốc gia là 11.000, số Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài đã lên đến 200.000, tăng 79% trong vòng 10 năm. Năm 1995, tổng số Công ty xuyên quốc gia trên thế giới lại tăng thêm 8% so với 1983, nâng số lên 39.000 Công ty còn các Công ty xuyên quốc gia chi nhánh ở nước ngoài tăng 35% so với năm 1993, nâng lên tổng số 370.000 Công ty. Tổng kim ngạch tiêu thụ của các Công ty xuyên quốc gia trong năm 1995 lên đến 6.100 tỷ USD, vượt xa con số 4.800 tỷ USD của năm 1993, tăng 25%.
Đáng chú ý là những Công ty xuyên quốc gia lớn nahát trên thế giới hầu như đều thuộc gốc Mỹ. Trong số 50 Công ty xuyên quốc gia lớn nhất của Mỹ thì Bank American có số tài sản ở nước ngoài nhiều nhất, năm 1993 đã lên tới 117,1 tỷ USD, chiếm 51,3% tổng tài sản của nó. Song thu nhập lớn nhất ở nước ngoài lại thuộc về một Công ty dầu mỏ của Mỹ, năm 1993 đã lên đến 75,6 tỷ USD chiếm 77,3% tổng thu nhập của Công ty này...(1 Kinh tế thế giới số 11/1997- tr.38
)
3.Bản chất và đặc trưng của các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia:
Bản chất
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, ở các nước tư bản phát triểncó thể quan sát thấynền sản xuất tư bản chủ nghĩa có “sự phát triển rất lớn của công nghiệp và quá trình tập trung cực kỳ nhanh chóng của sản xuất vào tay các xí nghiệp ngày càng to lớn” và “ một đằc điểm cực kỳ trọng yếu mà người ta gọi là chế độ liên hiệp hóa, nghĩa là sự tập hợp vào tay một xí nghiệp duy nhất nhiều ngành công nghiệp khác nhau”. Từ đó ra đời các tổ chức độc quyền, các tổ chức này sử dụng cơ chế độc quyền, tức là cơ chế vận động dựa trên giá cả độc quyền, thay cho cơ chế tự do cạnh tranh dựa trên giá cả thị trường để thu lợi nhuận độc quyền cao. Do đó có thể coi các tổ chức độc quyền là cái vỏ vật chất trong đó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động và tồn tại dưới dạng sở hữu độc quyền. Khi các tổ chức độc quyền hoạt động vận động vượt biên giới quốc gia dưới sự thúc đẩy của quá trình tích tụ sản xuất trên quy mô quốc tế, thì các hình thức siêu độc quyền, tức là các công ty xuyên quốc gia xuất hiện. Đặc biệt, khi nền sản xuất tu bản chủ nghĩa chuyển từ xã hội công nghiệp lên xã hội thông tin dưới sự thúc đẩy của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ và quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế đã làm cho số lượng công ty xuyên quốc gia phát triển nhanh chóng và bản chất của nó cũng biến đổi theo hướng thích nghi với tính chất quốc tế hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất.
Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, thông qua việc làm chủ sở hữu trong các hãng, công ty của các công ty xuyên quốc gia đã diễn ra nhiều thay đổi lớn trong các quan hệ về sở hữu. Đó là :
- Sở hữu độc quyền siêu quốc gia, là hình thức sở hữu hỗn hợp đã được quốc tế hóa. Đây là hình thức sở hữu mang tính khách quan ...
Tags: các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia hàng đầu thế giới, vai tro to chuc doc quyen to rot, phân tích các công ty độc quyền xuyên quốc gia, các công ty đọc quyên lớn trên thế giới, Vai trò của các công ty độc quyền xuyên quốc gia (công ty xuyên quốc gia) của CNTB đối với các nước đang phát triển trong giai đoạn hiện nay. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam, vai trò cuẢ CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA TRONG QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA, vai trò của công ty đa quốc gia đối với kinh tế thế giới, Công ty xuyên quốc gia trong nến kinh tế việt nam, Vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong nền kinh tế thế giới, vị trí vai trò của các tập đoàn xuyên quốc gia, tập đoàn đa quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC TẬP ĐOÀN XUYÊN QUỐC GIA, TẬP ĐOÀN ĐA QUỐC GIA TRONG NỀN KINH TẾ TOÀN CẦU HIỆN NAY, vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong toàn cầu hóa