Hậu phương miền Bắc trong chiến tranh chống Mỹ
Riêng 4 tháng đầu của năm 1975, miền Bắc đưa nhanh vào hơn 110.000 cán bộ, chiến sĩ, 230.000 tấn vật chất các loại, lũy phần quyết định để quân và dân ta mở cuộc tổng tấn công và nổi dậy giành thắng lợi hoàn toàn
Ba mươi năm sau Đại thắng mùa Xuân 1975, bây giờ nhìn lại, chúng ta càng thấy rõ hơn những nhân tố nền tảng mang ý nghĩa quyết định làm nên thắng lợi của sự nghề kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân tộc Việt Nam; bao gồm trong đó đường lối xây dựng, bảo vệ và phát huy sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc.
Chỗ đứng của ta
Trong lãnh đạo, chỉ đạo cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta sớm xác định rất rõ kẻ thù chủ yếu, trực tiếp của nhân dân ta, của cách mạng nước ta và lường định con đường đấu tranh để hoàn thành sự nghề thống nhất đất nước sẽ diễn ra lâu dài, gian khổ, ác liệt. Trong cuộc đấu tranh đó, vai trò, vị trí của miền Bắc được xác định rõ ngay từ đầu. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 nhận định: “Miền Bắc là chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải củng cố”.
Như vậy, từ đầu, vai trò, vị trí của miền Bắc vừa được xác định rất rõ. Để làm tròn vai trò đó, miền Bắc phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN); chỉ có tiến hành cách mạng XHCN, miền Bắc mới trở thành hậu phương - căn cứ địa cách mạng của cả nước, mới đảm đương được vai trò “nền gốc” cho lực lượng đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam.
Đi đôi với xây dựng miền Bắc vững mạnh về chính trị, Đảng, Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện các kế hoạch kinh tế ngắn hạn và dài hạn nhằm từng bước biến đổi sâu rộng lớn nền kinh tế miền Bắc, làm cho miền Bắc vững mạnh về kinh tế.
70% số gia đình miền Bắc có người thân chiến đấu ở miền Nam
Suốt 21 năm chiến tranh, đặc biệt từ sau Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15, miền Bắc vừa chi viện liên tục, toàn diện với nhịp độ ngày càng tăng, đáp ứng đòi hỏi của chiến trường miền Nam, cách mạng miền Nam, cách mạng Lào và tiếp đó, cho cách mạng Campuchia. Năm 1959, miền Bắc đưa vào miền Nam hơn 500 người. Năm 1964, con số đó tăng lên hơn 17.000 người. Trong vòng 10 năm (từ năm 1965 đến 1975), miền Bắc vừa động viên hàng triệu lao động, chủ yếu là thanh niên trẻ, khỏe, ưu tú để bổ sung, mở rộng lớn lực lượng vũ trang và phục vụ chiến đấu. Trong thời (gian) gian diễn ra những cuộc tiến công chiến lược (1968, 1972, 1975), nhân lực động viên ở miền Bắc phục vụ nhu cầu chiến tranh tăng gấp 4 đến 5 lần so với trước. Không tính số quân bảo vệ miền Bắc, làm lực lượng dự bị chiến lược, chiến đấu và công tác trên tuyến vận tải 559, chỉ tính riêng số quân đưa vào miền Nam trong các năm kể trên như sau: năm 1968 là 141.000 người, năm 1972 xấp xỉ 153.000 người, năm 1975 là 117.000 người. Ngoài lực lượng trực tiếp chiến đấu, các lực lượng vận tải, bảo đảm giao thông, mở đường và các lực lượng bảo đảm khác gồm hàng chục vạn người cũng được động viên từ miền Bắc.
Về vật chất, miền Bắc vừa tổ chức tiếp nhận hàng triệu tấn vật chất, vũ khí, phương tiện kỹ thuật do nước ngoài viện trợ; tổ chức nghiên cứu, thiết kế, cải biên, cải tiến nhiều loại vũ khí, khí tài; tổ chức vận chuyển vượt hàng nghìn km dưới bm đạn đánh phá của địch tới các chiến trường, các vùng giải phóng. Trong những năm từ 1965 đến 1968, miền Bắc đưa vào miền Nam khối lượng vật chất gấp 10 lần so với những năm từ 1961 đến 1964. Con số đó trong những năm chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh còn tăng gấp nhiều lần. Vào giai đoạn cuối chiến tranh, 81% vũ khí đạn dược, 60% tổng lượng xăng dầu, hơn 85% xe vận tải và 65% dược phẩm sử dụng trên chiến trường là từ miền Bắc đưa vào. Chỉ riêng trên tuyến vận tải Trường Sơn, đến cuối cuộc chiến tranh, quân số lên tới hơn 100.000 người. Toàn bộ lực lượng trên đây đều động viên từ hậu phương miền Bắc.
Làm tròn nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng
Riêng 4 tháng đầu của năm 1975, miền Bắc đưa nhanh vào hơn 110.000 cán bộ, chiến sĩ, 230.000 tấn vật chất các loại, lũy phần quyết định để quân và dân ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi hoàn toàn.
Có thể nói, miền Bắc vừa dốc vào cuộc chiến tranh toàn bộ sức mạnh to lớn và tiềm tàng của mình để miền Nam đánh Mỹ. 21 năm chiến tranh, 70% số gia đình miền Bắc có người thân chiến đấu ngoài mặt trận, nhiều gia đình hai thế hệ cha, con cùng chiến đấu ở miền Nam; trên ruộng đồng, 63% là lao động nữ.
Vai trò của miền Bắc XHCN trong cuộc chống Mỹ, cứu nước được Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976) khẳng định: “Không thể nào có thắng lợi của sự nghề kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nếu không có miền Bắc XHCN suốt 16 năm qua luôn luôn cùng một lúc làm hai nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt từ năm 1965, khi Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thì miền Bắc vừa dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ XHCN, và vừa làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước”.
Đại tá - TS Hồ Khang