levelpro125
New Member
Link tải luận văn miễn phí cho ae
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn vấn đề can thiệp
Nhắc đến nhóm trẻ chậm phát triển ngôn ngữ (CPTNN) hầu hết các bậc phụ
huynh cũng như đa số mọi người đều có những hiểu lầm rằng những đứa trẻ này bị
bệnh tự kỷ. Bởi lẽ những trẻ CPTNN cũng có nhiều điểm tương đồng với trẻ tự kỷ.
Hay nói một cách khác, việc CPTNN ở trẻ có thể chỉ là một biểu hiện nhỏ trong tập
hợp các dấu hiệu của hội chứng tự kỷ.
Hiện nay số lượng trẻ CPTNN ngày một tăng nhanh (trong đó có cả nhóm trẻ
CPTNN tự kỷ và một tỷ lệ rất nhỏ trẻ CPTNN thông thường), đặc biệt là ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh… Tại các Trung tâm, các trường chuyên
biệt dạy trẻ tự kỷ (TTK) có một số lượng không ít những trẻ CPTNN đang được trị
liệu ngôn ngữ với chương trình can thiệp chuyên biệt.
Theo thống kê của Vụ giáo dục Mầm non – Bộ Giáo Dục & Đào Tạo (GD &
ĐT) cho thấy tỷ lệ trẻ khuyết tật tham gia giáo dục hòa nhập chỉ chiếm một tỷ lệ
nhỏ so với tổng số trẻ cùng lứa tuổi. Thực tế cho thấy rằng trẻ CPTNN khi được
nhận vào môi trường học hòa nhập còn gặp nhiều khó khăn trong việc giao tiếp,
nhận thức hay các kỹ năng xã hội khác… Bên cạnh những khó khăn mang tính chủ
quan là xuất phát từ chính bản thân trẻ có rất nhiều những nguyên nhân khách quan
khác từ môi trường giáo dục hòa nhập. Việc thiếu giáo viên chuyên môn hỗ trợ cho
trẻ CPTNN hòa nhập tại các trường mầm non (MN) là một trong những nguyên
nhân khách quan đó.
Tại một số cơ sở giáo dục chuyên biệt đã cung cấp thêm mảng dịch vụ giáo
viên (GV) hỗ trợ trẻ CPTNN tại các trường MN nhưng con số này còn khá eo hẹp.
Và hầu như GV hỗ trợ đều gặp cản trở từ môi trường làm việc không chuyên biệt
này. Những GV làm công việc hỗ trợ trẻ CPTNN học hoà nhập không chỉ cần kiến
thức chuyên môn mà còn cần có những kỹ năng mềm khác để vừa hỗ trợ trẻ học tập
vừa không làm ảnh hưởng tới công việc của các GV trong trường hòa nhập.
Ở nước ta, việc chẩn đoán là do bác sĩ chuyên khoa về tâm thần hay tâm lý
trẻ em, ngoài ra, không có sự phối hợp theo dõi của những nhân viên công tác xã
hôị (NV CTXH) hay GV chuyên biệt. Việc trị liệu cho trẻ CPTNN có thể có sự góp
mặt của bác sĩ tâm lý, bác sĩ tâm thần, GV chuyên biệt. Tuy nhiên sự phối hợp
giống như môṭ ê kíp trị liệu của những thành viên này hầu như chưa có hay không
khăng khít, đặc biệt là hầu như không có những NV CTXH đóng vai trò là người
quản lý ca, người kết nối các mối quan hệ trong nhóm trị liệu. Mặc dù hiện nay vai trò của các nhân viên công tác xã hội (NV CTXH) đã có mặt hầu hết trong các lĩnh
vực xã hội. Tuy nhiên, tại các trung tâm chuyên biệt hay các trường khuyết tật vị trí,
vai trò của những NV CTXH chưa thực sự được chú ý và phát huy hết hiệu quả.
“Thực ra, đây là một vị trí góp phần quan trọng vào việc gắn kết các mối quan hệ
của các thành viên trong gia đình trẻ với nhau, và trẻ với cơ sở trị liệu. Nói một cách
khác, người nhân viên xã hội chính là người liên kết và thống nhất các quan điểm ,
tạo nên sự thông hiểu lẫn nhau” [2, tr.105]. Ngoài ra, ở mỗi một vị trí khác nhau thì
NV CTXH sẽ đóng những vai trò khác nhau và giúp đem lại lợi ích cao nhất cho
thân chủ của mình.
Trong điều kiện thực tế ở nước ta việc trị liệu, hỗ trợ TTK nói chung và trẻ
CPTNN hòa nhập nói riêng, NV CTXH thườ ng giữ vai trò vừa là một GV chuyên
biệt vừa là người hỗ trợ trẻ và gia đình trẻ.
Xuất phát từ thực tế trên, tác giả xin chọn đề tài nghiên cứu “ Vai trò của
nhân viên Công tác xã hội trong hỗ trợ hòa nhập cho trẻ chậm phát triển ngôn
ngữ tại trường mầm non” để thấy được vai trò của NV CTXH khi làm việc với trẻ
CPTNN tại trường mầm non.
2. Tổng quan về những nghiên cứu, can thiệp liên quan đến đề tài
2.1 Tổng quan lịch sử nghiên cứu, can thiệp về trẻ chậm phát triển ngôn
ngữ trên thế giới
Theo Saussure, hoạt động lời nói của cá nhân bao gồm năng lực ngôn ngữ và
ngôn ngữ như hệ thống. Cả hai yếu tố này đều được hiện thực hóa trong lời nói. Nói
cách khác, lời nói là “hành vi hiện thực hóa năng lực của cá nhân nhờ các điều kiện
xã hội, tức nhờ ngôn ngữ và ngôn ngữ trong nghĩa rộng của từ này (tức là hoạt
động lời nói) nếu tách riêng ra là không thể hiểu được, bởi vì nó có tính không đồng
nhất” [11, tr.12 – 13].
Khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ khiến con người khác các loài động vật
khác. Ngôn ngữ nói giúp con người truyền đạt thông tin, biểu đạt cảm xúc và biểu
thị các mối quan hệ xã hội; đồng thời, nó cung cấp cho con người phương tiện tổ
chức tư duy, trí nhớ, cho phép hình thành nên những ranh giới phức tạp của lí trí và
giúp con người suy ngẫm về những sự kiện diễn ra trong quá khứ, tương lai và
mang tính giả thuyết, hơn là giữ chúng trong hiện tại.
Humboldt nói tới hoạt động lời nói và ngôn ngữ của con người như sự kết
nối giữa con người và xã hội. Steintal G. cho rằng hoạt động lời nói cá nhân có ba
yếu tố căn bản: cơ cấu cơ học của cơ thể, cơ cấu tâm lý và nội dung khái niệm hay
thế giới quan được biểu hiện. Lời nói có mục đích là biểu đạt và phản ánh nội dung
dựa trên cơ cấu tâm lý và cơ thể. [11]
Sự CPTNN trong 3 năm đầu đời có thể dẫn đến những khó khăn trong giao
tiếp và xã hội hóa các hình tượng quan trọng của trẻ ở thời thơ ấu. Việc CPTNN là
nguyên nhân chung khiến các bậc cha mẹ đi tìm lời khuyên từ các bạn sĩ của gia
đình hay từ các bạn sĩ nhi khoa. Do sự giao tiếp ở con người là phức tạp, nên việc
đánh giá và chẩn đoán những khó khăn của trẻ về ngôn ngữ và lời nói thường là vấn
đề có nhiều thách thức, đòi hỏi ý kiến của chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau như: ngôn ngữ học, thính học, phát triển trẻ em, tâm lý học thần kinh, thần
kinh học nhi và tâm thần học.
Ở những trẻ bình thường, khả năng nắm vững ngôn ngữ diễn ra theo 3 giai
đoạn căn bản sau [22, tr.138]:
- Giai đoạn tiền ngôn ngữ (từ 0 cho đến 12, 13 tháng, đôi khi là 18 tháng):
bắt đầu từ những tiếng kêu không có ý nghĩa nào khác ngoài biểu đạt sự
khó chịu về mặt sinh lý, dần dần những tiền đề của giao tiếp giữa trẻ và
môi trường xung quanh được hình thành. Trên thực tế, những tiếng kêu
này biểu đạt một sắc thái cảm giác của trẻ đòi mẹ phải đáp ứng (giận dữ,
đau đớn, bứt rứt, thỏa mãn, khoái cảm).
- Giai đoạn ngôn ngữ của trẻ bé (từ 10 tháng đến 2 tuổi rưỡi – 3 tuổi):
những từ đầu tiên thường xuất hiện trong tình huống “lắp lời nói”, nghèo
nàn về ý, nghĩa nhưng dễ phát âm. Vào khoảng 12 tháng tuổi, một đứa trẻ
có thể học được 5 đến 10 từ; đến 2 tuổi, vốn từ vựng của trẻ có thể đạt
đến 200 từ. Số lượng từ được tích lũy gia tăng theo độ tuổi. Việc hiểu bị
động luôn xảy ra trước sự biểu đạt chủ động; có nghĩa là, trẻ có thể hiểu
được một số lượng từ lớn hơn rất nhiều so với việc trẻ nói các từ.
Ở giai đoạn “từ-câu”, trẻ dùng một từ mà ý nghĩa của nó phụ thuộc vào
điệu bộ, cử chỉ hay hoàn cảnh cụ thể. Ngôn ngữ luôn đi kèm với hành
động, củng cố hành động, nhưng vẫn chưa thay thế được hành động.
Khoảng 18 tháng tuổi, các câu đầu tiên xuất hiện; trẻ bắt đầu học nói phủ
định.
Ở giai đoạn này, vai trò của gia đình là rất quan trọng bởi nó là nơi trẻ
được tắm mình trong “biển ngôn ngữ” và học nói ngôn ngữ. Nếu thiếu
vắng sự tác động ngôn ngữ, vốn từ của trẻ trở nên cùng kiệt nàn hay trẻ trở
nên chậm trễ trong việc học nói.
- Giai đoạn ngôn ngữ (bắt đầu từ 3 tuổi): là giai đoạn dài nhất và phức tạp
nhất trong việc nắm vững ngôn ngữ, được đánh dấu bởi sự phong phú cả
về chất lượng và số lượng (khoảng từ 3 tuổi rưỡi đến 5 tuổi, trẻ có thể sở
hữu 1.500 từ mà không phải lúc nào cũng biết chính xác ý nghĩa của từ).
Đồng thời, ngôn ngữ dần trở thành phương tiện để hiểu biết, một sự thay
thế kinh nghiệm trực tiếp. Sự rườm rà cùng với hành động và/hay cử
chỉ, điệu bộ dần dần biến mất.
Nói cách khác, các rối loạn ngôn ngữ ở trẻ em thường đóng vai trò quan
trọng cả về ý nghĩa lẫn lý do đến thăm khám của gia đình, đặc biệt là những gia
đình có trẻ từ 4 đến 8 tuổi. Đây là giai đoạn trẻ học ngôn ngữ nói và chuẩn bị cho
việc học đọc và học viết. Sự ảnh hưởng tới những tương tác giữa trẻ và môi trường
(gia đình, trường học, bạn bè) bỗng nhiên có thể xảy đến nếu các rối loạn trở nên
nghiêm trọng và dẫn tới các khó khăn tâm lý khác nhau. Do đó rất khó kể đến các
rối loạn phản ứng thứ phát và những khó khăn ban đầu.
Nghiên cứu về CPTNN ở trẻ em đòi hỏi phải có một nền tảng kiến thức về sự
phát triển ngôn ngữ bình thường, ở cả khía cạnh sinh lý thần kinh (cơ quan cấu âm,
cấu trúc não, cơ quan thính giác bình thường) và khía cạnh tâm lý. Trong CPTNN,
một mặt, các lỗi gặp phải là không cố định; mặt khác, mỗi âm vị có thể được phát
âm chính xác nếu đứng một mình. Khi đối diện với những rối loạn về biểu đạt này,
sự phản ứng của gia đình là rất quan trọng, hay yêu cầu trẻ nhắc lại một cách kiên
trì, ngăn cản lời nói tự phát của trẻ, hay ngược lại không biết đến rối loạn này và
để cho trẻ tiếp tục chậm phát triển ngôn ngữ.
Trong các trường hợp trẻ CPTNN, người ta tìm thấy một sự kém tích hợp các
âm vị khác nhau cấu thành nên một từ: số lượng, thuộc tính và sự nối tiếp của chúng
có thể bị thay đổi. Không có ý nghĩa cho tới tận 5 tuổi, sự dai dẳng của việc kém
tích hợp khi trẻ trên 5 tuổi báo hiệu một rối loạn về tích hợp và học lời nói, và
cần thiết phải có một tiếp xúc trị liệu đối với trẻ. Về mặt lý thuyết, CPTNN
không đi kèm những bất thường về cú pháp, mà thực tế, nó thường kết hợp với sự chậm
ngôn ngữ.
Chậm ngôn ngữ đơn thuần được đặc trưng bởi sự tồn tại những rối loạn ngôn ngữ ở
một đứa trẻ không có dấu hiệu chậm phát triển trí tuệ, cũng không có tật điếc nặng hay bị
loạn thần. Cấu trúc câu, tổ chức cú pháp thường bị nhiễu loạn. Về mặt lâm sàng, yếu tố căn
bản chính là việc chậm xuất hiện câu nói đầu tiên ở khoảng sau 3 tuổi, tiếp theo một giai
đoạn “nói theo kiểu trẻ sơ sinh” kéo dài. Những bất thường được tìm thấy thường đa dạng:
rối loạn trong trật tự các từ của một câu, các lỗi cấu trúc ngữ pháp, động từ dùng ở nguyên
thể, khó khăn trong dùng đại từ nhân xưng. Người ta cũng tìm thấy sự bỏ sót từ, các lỗi
liên kết, các từ ngữ phản quy tắc, ... Về mặt nguyên tắc, việc hiểu điều trẻ muốn diễn đạt
không khó, nhưng việc đánh giá mức độ phát triển ngôn ngữ ở trẻ bé đôi khi khó khăn.
Phần lớn các thuật ngữ được dùng để mô tả những trẻ có rối loạn lời nói là:
loạn khớp nối chức năng và loạn phát triển âm vị, rối loạn đa âm vị, CPTNN... Theo
một số tác giả, có hai dạng căn bản trong rối loạn lời nói ở trẻ mà cho đến giờ vẫn
chưa tìm được nguyên nhân: đó là CPTNN và những lỗi dôi dư không chắc chắn,
trong đó CPTNN có tính di truyền, còn lỗi dôi dư không chắc chắn gia tăng do tác
động của các biến môi trường, [21]. Trên thực tế, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về
CPTNN ở trẻ trên khắp thế giới như Beitchman, Nair, Clegg, Patel (1986); St.
Louis, Ruscello và Lundeen (1992); Silva, Justin, McGee và Williams (1984),
[17;26;24]… Những phê phán về phương pháp luận bao gồm các vấn đề liên quan
tới mẫu khách thể nghiên cứu, phương pháp đánh giá hoạt động lời nói, cũng như
hệ thống và các tiêu chí phân loại trẻ có rối loạn lời nói có ý nghĩa về mặt lâm sàng.
Theo Beitchman và cs. (1986), “sự thiếu một hệ thống phân loại phổ quát về các rối
loạn lời nối và ngôn ngữ ... là một rào cản lớn đối với việc phát triển các đánh giá
thường gặp hữu ích và chính xác” [17, tr.98]. Các nghiên cứu ở Mỹ, Canada, New
Zealand và Anh được thực hiện trên trẻ từ 5 đến 8 tuổi. Kết quả của các nghiên cứu
này cho thấy rằng CPTNN thường đi kèm với các thiếu hụt đặc hiệu về ngôn ngữ.
Tỷ lệ trẻ CPTNN giảm dần theo độ tuổi: 11% ở trẻ 5 tuổi, 9,7% ở trẻ 6 tuổi, 6,5% ở
trẻ 7 tuổi và chỉ còn 2-3% ở trẻ 8 tuổi, trong đó, tỷ lệ những trẻ sống ở thành thị bị
CPTNN cao hơn những trẻ sống ở nông thôn. [17], [19], [24], [21, tr.1461-1481]
Một nghiên cứu của Ishikawa, Kajii, Sakuma & Saitoh (1982) trên 155 trẻ
CPTNN ở Nhật cho thấy, về mặt bản chất, việc đánh giá tổng thể hiện tượng
CPTNN ở trẻ liên quan đến các vấn đề về thần kinh, thính giác, xúc cảm và xã hội.
Các trẻ này đều ở độ tuổi từ 3 đến 8 tuổi, tuy nhiên, phần lớn các trẻ khi được bố
mẹ đưa đến thăm khám tại bệnh viện do nhiều nguyên nhân khác nhau thường là
dưới 3 tuổi. Nguyên nhân chính khiến bố mẹ đưa con đến khám thường là chậm
phát triển tâm thần hay không rõ bệnh căn, còn lại là các nguyên nhân khác như tự
kỷ, nghe kém, hội chứng giảm chức năng não, ...), trong số này có những trẻ phát
triển bình thường. Đối với những trẻ phát triển bình thường, khi xem xét tiểu sử
sinh, các tác giả này phát hiện có 33% trường hợp CPTNN cho thấy những rắc rối ở
thời kỳ thứ hai của thai kỳ (bị ngạt, hút chân không, cân nhẹ, ...).[20, tr. 57- 61]
Theo bảng phân loại bệnh DSM – IV của Hội tâm thần học Hoa Kỳ, một
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn vấn đề can thiệp
Nhắc đến nhóm trẻ chậm phát triển ngôn ngữ (CPTNN) hầu hết các bậc phụ
huynh cũng như đa số mọi người đều có những hiểu lầm rằng những đứa trẻ này bị
bệnh tự kỷ. Bởi lẽ những trẻ CPTNN cũng có nhiều điểm tương đồng với trẻ tự kỷ.
Hay nói một cách khác, việc CPTNN ở trẻ có thể chỉ là một biểu hiện nhỏ trong tập
hợp các dấu hiệu của hội chứng tự kỷ.
Hiện nay số lượng trẻ CPTNN ngày một tăng nhanh (trong đó có cả nhóm trẻ
CPTNN tự kỷ và một tỷ lệ rất nhỏ trẻ CPTNN thông thường), đặc biệt là ở các
thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh… Tại các Trung tâm, các trường chuyên
biệt dạy trẻ tự kỷ (TTK) có một số lượng không ít những trẻ CPTNN đang được trị
liệu ngôn ngữ với chương trình can thiệp chuyên biệt.
Theo thống kê của Vụ giáo dục Mầm non – Bộ Giáo Dục & Đào Tạo (GD &
ĐT) cho thấy tỷ lệ trẻ khuyết tật tham gia giáo dục hòa nhập chỉ chiếm một tỷ lệ
nhỏ so với tổng số trẻ cùng lứa tuổi. Thực tế cho thấy rằng trẻ CPTNN khi được
nhận vào môi trường học hòa nhập còn gặp nhiều khó khăn trong việc giao tiếp,
nhận thức hay các kỹ năng xã hội khác… Bên cạnh những khó khăn mang tính chủ
quan là xuất phát từ chính bản thân trẻ có rất nhiều những nguyên nhân khách quan
khác từ môi trường giáo dục hòa nhập. Việc thiếu giáo viên chuyên môn hỗ trợ cho
trẻ CPTNN hòa nhập tại các trường mầm non (MN) là một trong những nguyên
nhân khách quan đó.
Tại một số cơ sở giáo dục chuyên biệt đã cung cấp thêm mảng dịch vụ giáo
viên (GV) hỗ trợ trẻ CPTNN tại các trường MN nhưng con số này còn khá eo hẹp.
Và hầu như GV hỗ trợ đều gặp cản trở từ môi trường làm việc không chuyên biệt
này. Những GV làm công việc hỗ trợ trẻ CPTNN học hoà nhập không chỉ cần kiến
thức chuyên môn mà còn cần có những kỹ năng mềm khác để vừa hỗ trợ trẻ học tập
vừa không làm ảnh hưởng tới công việc của các GV trong trường hòa nhập.
Ở nước ta, việc chẩn đoán là do bác sĩ chuyên khoa về tâm thần hay tâm lý
trẻ em, ngoài ra, không có sự phối hợp theo dõi của những nhân viên công tác xã
hôị (NV CTXH) hay GV chuyên biệt. Việc trị liệu cho trẻ CPTNN có thể có sự góp
mặt của bác sĩ tâm lý, bác sĩ tâm thần, GV chuyên biệt. Tuy nhiên sự phối hợp
giống như môṭ ê kíp trị liệu của những thành viên này hầu như chưa có hay không
khăng khít, đặc biệt là hầu như không có những NV CTXH đóng vai trò là người
quản lý ca, người kết nối các mối quan hệ trong nhóm trị liệu. Mặc dù hiện nay vai trò của các nhân viên công tác xã hội (NV CTXH) đã có mặt hầu hết trong các lĩnh
vực xã hội. Tuy nhiên, tại các trung tâm chuyên biệt hay các trường khuyết tật vị trí,
vai trò của những NV CTXH chưa thực sự được chú ý và phát huy hết hiệu quả.
“Thực ra, đây là một vị trí góp phần quan trọng vào việc gắn kết các mối quan hệ
của các thành viên trong gia đình trẻ với nhau, và trẻ với cơ sở trị liệu. Nói một cách
khác, người nhân viên xã hội chính là người liên kết và thống nhất các quan điểm ,
tạo nên sự thông hiểu lẫn nhau” [2, tr.105]. Ngoài ra, ở mỗi một vị trí khác nhau thì
NV CTXH sẽ đóng những vai trò khác nhau và giúp đem lại lợi ích cao nhất cho
thân chủ của mình.
Trong điều kiện thực tế ở nước ta việc trị liệu, hỗ trợ TTK nói chung và trẻ
CPTNN hòa nhập nói riêng, NV CTXH thườ ng giữ vai trò vừa là một GV chuyên
biệt vừa là người hỗ trợ trẻ và gia đình trẻ.
Xuất phát từ thực tế trên, tác giả xin chọn đề tài nghiên cứu “ Vai trò của
nhân viên Công tác xã hội trong hỗ trợ hòa nhập cho trẻ chậm phát triển ngôn
ngữ tại trường mầm non” để thấy được vai trò của NV CTXH khi làm việc với trẻ
CPTNN tại trường mầm non.
2. Tổng quan về những nghiên cứu, can thiệp liên quan đến đề tài
2.1 Tổng quan lịch sử nghiên cứu, can thiệp về trẻ chậm phát triển ngôn
ngữ trên thế giới
Theo Saussure, hoạt động lời nói của cá nhân bao gồm năng lực ngôn ngữ và
ngôn ngữ như hệ thống. Cả hai yếu tố này đều được hiện thực hóa trong lời nói. Nói
cách khác, lời nói là “hành vi hiện thực hóa năng lực của cá nhân nhờ các điều kiện
xã hội, tức nhờ ngôn ngữ và ngôn ngữ trong nghĩa rộng của từ này (tức là hoạt
động lời nói) nếu tách riêng ra là không thể hiểu được, bởi vì nó có tính không đồng
nhất” [11, tr.12 – 13].
Khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ khiến con người khác các loài động vật
khác. Ngôn ngữ nói giúp con người truyền đạt thông tin, biểu đạt cảm xúc và biểu
thị các mối quan hệ xã hội; đồng thời, nó cung cấp cho con người phương tiện tổ
chức tư duy, trí nhớ, cho phép hình thành nên những ranh giới phức tạp của lí trí và
giúp con người suy ngẫm về những sự kiện diễn ra trong quá khứ, tương lai và
mang tính giả thuyết, hơn là giữ chúng trong hiện tại.
Humboldt nói tới hoạt động lời nói và ngôn ngữ của con người như sự kết
nối giữa con người và xã hội. Steintal G. cho rằng hoạt động lời nói cá nhân có ba
yếu tố căn bản: cơ cấu cơ học của cơ thể, cơ cấu tâm lý và nội dung khái niệm hay
thế giới quan được biểu hiện. Lời nói có mục đích là biểu đạt và phản ánh nội dung
dựa trên cơ cấu tâm lý và cơ thể. [11]
Sự CPTNN trong 3 năm đầu đời có thể dẫn đến những khó khăn trong giao
tiếp và xã hội hóa các hình tượng quan trọng của trẻ ở thời thơ ấu. Việc CPTNN là
nguyên nhân chung khiến các bậc cha mẹ đi tìm lời khuyên từ các bạn sĩ của gia
đình hay từ các bạn sĩ nhi khoa. Do sự giao tiếp ở con người là phức tạp, nên việc
đánh giá và chẩn đoán những khó khăn của trẻ về ngôn ngữ và lời nói thường là vấn
đề có nhiều thách thức, đòi hỏi ý kiến của chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau như: ngôn ngữ học, thính học, phát triển trẻ em, tâm lý học thần kinh, thần
kinh học nhi và tâm thần học.
Ở những trẻ bình thường, khả năng nắm vững ngôn ngữ diễn ra theo 3 giai
đoạn căn bản sau [22, tr.138]:
- Giai đoạn tiền ngôn ngữ (từ 0 cho đến 12, 13 tháng, đôi khi là 18 tháng):
bắt đầu từ những tiếng kêu không có ý nghĩa nào khác ngoài biểu đạt sự
khó chịu về mặt sinh lý, dần dần những tiền đề của giao tiếp giữa trẻ và
môi trường xung quanh được hình thành. Trên thực tế, những tiếng kêu
này biểu đạt một sắc thái cảm giác của trẻ đòi mẹ phải đáp ứng (giận dữ,
đau đớn, bứt rứt, thỏa mãn, khoái cảm).
- Giai đoạn ngôn ngữ của trẻ bé (từ 10 tháng đến 2 tuổi rưỡi – 3 tuổi):
những từ đầu tiên thường xuất hiện trong tình huống “lắp lời nói”, nghèo
nàn về ý, nghĩa nhưng dễ phát âm. Vào khoảng 12 tháng tuổi, một đứa trẻ
có thể học được 5 đến 10 từ; đến 2 tuổi, vốn từ vựng của trẻ có thể đạt
đến 200 từ. Số lượng từ được tích lũy gia tăng theo độ tuổi. Việc hiểu bị
động luôn xảy ra trước sự biểu đạt chủ động; có nghĩa là, trẻ có thể hiểu
được một số lượng từ lớn hơn rất nhiều so với việc trẻ nói các từ.
Ở giai đoạn “từ-câu”, trẻ dùng một từ mà ý nghĩa của nó phụ thuộc vào
điệu bộ, cử chỉ hay hoàn cảnh cụ thể. Ngôn ngữ luôn đi kèm với hành
động, củng cố hành động, nhưng vẫn chưa thay thế được hành động.
Khoảng 18 tháng tuổi, các câu đầu tiên xuất hiện; trẻ bắt đầu học nói phủ
định.
Ở giai đoạn này, vai trò của gia đình là rất quan trọng bởi nó là nơi trẻ
được tắm mình trong “biển ngôn ngữ” và học nói ngôn ngữ. Nếu thiếu
vắng sự tác động ngôn ngữ, vốn từ của trẻ trở nên cùng kiệt nàn hay trẻ trở
nên chậm trễ trong việc học nói.
- Giai đoạn ngôn ngữ (bắt đầu từ 3 tuổi): là giai đoạn dài nhất và phức tạp
nhất trong việc nắm vững ngôn ngữ, được đánh dấu bởi sự phong phú cả
về chất lượng và số lượng (khoảng từ 3 tuổi rưỡi đến 5 tuổi, trẻ có thể sở
hữu 1.500 từ mà không phải lúc nào cũng biết chính xác ý nghĩa của từ).
Đồng thời, ngôn ngữ dần trở thành phương tiện để hiểu biết, một sự thay
thế kinh nghiệm trực tiếp. Sự rườm rà cùng với hành động và/hay cử
chỉ, điệu bộ dần dần biến mất.
Nói cách khác, các rối loạn ngôn ngữ ở trẻ em thường đóng vai trò quan
trọng cả về ý nghĩa lẫn lý do đến thăm khám của gia đình, đặc biệt là những gia
đình có trẻ từ 4 đến 8 tuổi. Đây là giai đoạn trẻ học ngôn ngữ nói và chuẩn bị cho
việc học đọc và học viết. Sự ảnh hưởng tới những tương tác giữa trẻ và môi trường
(gia đình, trường học, bạn bè) bỗng nhiên có thể xảy đến nếu các rối loạn trở nên
nghiêm trọng và dẫn tới các khó khăn tâm lý khác nhau. Do đó rất khó kể đến các
rối loạn phản ứng thứ phát và những khó khăn ban đầu.
Nghiên cứu về CPTNN ở trẻ em đòi hỏi phải có một nền tảng kiến thức về sự
phát triển ngôn ngữ bình thường, ở cả khía cạnh sinh lý thần kinh (cơ quan cấu âm,
cấu trúc não, cơ quan thính giác bình thường) và khía cạnh tâm lý. Trong CPTNN,
một mặt, các lỗi gặp phải là không cố định; mặt khác, mỗi âm vị có thể được phát
âm chính xác nếu đứng một mình. Khi đối diện với những rối loạn về biểu đạt này,
sự phản ứng của gia đình là rất quan trọng, hay yêu cầu trẻ nhắc lại một cách kiên
trì, ngăn cản lời nói tự phát của trẻ, hay ngược lại không biết đến rối loạn này và
để cho trẻ tiếp tục chậm phát triển ngôn ngữ.
Trong các trường hợp trẻ CPTNN, người ta tìm thấy một sự kém tích hợp các
âm vị khác nhau cấu thành nên một từ: số lượng, thuộc tính và sự nối tiếp của chúng
có thể bị thay đổi. Không có ý nghĩa cho tới tận 5 tuổi, sự dai dẳng của việc kém
tích hợp khi trẻ trên 5 tuổi báo hiệu một rối loạn về tích hợp và học lời nói, và
cần thiết phải có một tiếp xúc trị liệu đối với trẻ. Về mặt lý thuyết, CPTNN
không đi kèm những bất thường về cú pháp, mà thực tế, nó thường kết hợp với sự chậm
ngôn ngữ.
Chậm ngôn ngữ đơn thuần được đặc trưng bởi sự tồn tại những rối loạn ngôn ngữ ở
một đứa trẻ không có dấu hiệu chậm phát triển trí tuệ, cũng không có tật điếc nặng hay bị
loạn thần. Cấu trúc câu, tổ chức cú pháp thường bị nhiễu loạn. Về mặt lâm sàng, yếu tố căn
bản chính là việc chậm xuất hiện câu nói đầu tiên ở khoảng sau 3 tuổi, tiếp theo một giai
đoạn “nói theo kiểu trẻ sơ sinh” kéo dài. Những bất thường được tìm thấy thường đa dạng:
rối loạn trong trật tự các từ của một câu, các lỗi cấu trúc ngữ pháp, động từ dùng ở nguyên
thể, khó khăn trong dùng đại từ nhân xưng. Người ta cũng tìm thấy sự bỏ sót từ, các lỗi
liên kết, các từ ngữ phản quy tắc, ... Về mặt nguyên tắc, việc hiểu điều trẻ muốn diễn đạt
không khó, nhưng việc đánh giá mức độ phát triển ngôn ngữ ở trẻ bé đôi khi khó khăn.
Phần lớn các thuật ngữ được dùng để mô tả những trẻ có rối loạn lời nói là:
loạn khớp nối chức năng và loạn phát triển âm vị, rối loạn đa âm vị, CPTNN... Theo
một số tác giả, có hai dạng căn bản trong rối loạn lời nói ở trẻ mà cho đến giờ vẫn
chưa tìm được nguyên nhân: đó là CPTNN và những lỗi dôi dư không chắc chắn,
trong đó CPTNN có tính di truyền, còn lỗi dôi dư không chắc chắn gia tăng do tác
động của các biến môi trường, [21]. Trên thực tế, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về
CPTNN ở trẻ trên khắp thế giới như Beitchman, Nair, Clegg, Patel (1986); St.
Louis, Ruscello và Lundeen (1992); Silva, Justin, McGee và Williams (1984),
[17;26;24]… Những phê phán về phương pháp luận bao gồm các vấn đề liên quan
tới mẫu khách thể nghiên cứu, phương pháp đánh giá hoạt động lời nói, cũng như
hệ thống và các tiêu chí phân loại trẻ có rối loạn lời nói có ý nghĩa về mặt lâm sàng.
Theo Beitchman và cs. (1986), “sự thiếu một hệ thống phân loại phổ quát về các rối
loạn lời nối và ngôn ngữ ... là một rào cản lớn đối với việc phát triển các đánh giá
thường gặp hữu ích và chính xác” [17, tr.98]. Các nghiên cứu ở Mỹ, Canada, New
Zealand và Anh được thực hiện trên trẻ từ 5 đến 8 tuổi. Kết quả của các nghiên cứu
này cho thấy rằng CPTNN thường đi kèm với các thiếu hụt đặc hiệu về ngôn ngữ.
Tỷ lệ trẻ CPTNN giảm dần theo độ tuổi: 11% ở trẻ 5 tuổi, 9,7% ở trẻ 6 tuổi, 6,5% ở
trẻ 7 tuổi và chỉ còn 2-3% ở trẻ 8 tuổi, trong đó, tỷ lệ những trẻ sống ở thành thị bị
CPTNN cao hơn những trẻ sống ở nông thôn. [17], [19], [24], [21, tr.1461-1481]
Một nghiên cứu của Ishikawa, Kajii, Sakuma & Saitoh (1982) trên 155 trẻ
CPTNN ở Nhật cho thấy, về mặt bản chất, việc đánh giá tổng thể hiện tượng
CPTNN ở trẻ liên quan đến các vấn đề về thần kinh, thính giác, xúc cảm và xã hội.
Các trẻ này đều ở độ tuổi từ 3 đến 8 tuổi, tuy nhiên, phần lớn các trẻ khi được bố
mẹ đưa đến thăm khám tại bệnh viện do nhiều nguyên nhân khác nhau thường là
dưới 3 tuổi. Nguyên nhân chính khiến bố mẹ đưa con đến khám thường là chậm
phát triển tâm thần hay không rõ bệnh căn, còn lại là các nguyên nhân khác như tự
kỷ, nghe kém, hội chứng giảm chức năng não, ...), trong số này có những trẻ phát
triển bình thường. Đối với những trẻ phát triển bình thường, khi xem xét tiểu sử
sinh, các tác giả này phát hiện có 33% trường hợp CPTNN cho thấy những rắc rối ở
thời kỳ thứ hai của thai kỳ (bị ngạt, hút chân không, cân nhẹ, ...).[20, tr. 57- 61]
Theo bảng phân loại bệnh DSM – IV của Hội tâm thần học Hoa Kỳ, một
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
You must be registered for see links
Do Drive thay đổi chính sách, nên một số link cũ yêu cầu duyệt download. các bạn chỉ cần làm theo hướng dẫn.
Password giải nén nếu cần: ket-noi.com | Bấm trực tiếp vào Link để tải:
Tags: trẻ chậm nói học hoà nhập tại trường mầm non, công tác truyền thông nâng cao nhận thức phụ huynh về chậm phát triển ngôn ngữ, Vai trò của nhân viên CTXH trong hỗ trợ nhóm thân chủ, trẻ chậm phát triển tâm thần thì công việc của một nhân viên công tác xã hội là gì, công việc hỗ trợ trẻ chuyên biệt, Những khó khăn trong quá trình trị liệu cho trẻ rối loạn phát triển ngôn ngữ trẻ 4 - 5 tuổi